Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học:Vẻ đẹp Tây Bắc trong một số tuỳ bút của Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.24 KB, 65 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




TRẦN THỊ THU HƯƠNG




VẺ ĐẸP TÂY BẮC TRONG MỘT SỐ TUỲ BÚT
CỦA NGUYỄN TUÂN




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





TRẦN THỊ THU HƯƠNG




VẺ ĐẸP TÂY BẮC TRONG MỘT SỐ TUỲ BÚT
CỦA NGUYỄN TUÂN



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: TS. Đỗ Hồng Đức



SƠN LA, NĂM 2013
Lời cảm ơn

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – tiến sĩ Đỗ Hồng Đức,
người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu
và thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt
Nam và ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phòng nghiên cứu khoa học và phòng
Đào Tạo, thư viện trường Đại Học Tây Bắc, cùng tập thể lớp K50 ĐHSP Ngữ
Văn đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện


Trần Thị Thu Hương














MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4

6. Những đóng góp của khóa luận 5
7. Cấu trúc của khóa luận 5
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 6
1.1. Tiểu sử và con người Nguyễn Tuân 6
1.1.1. Tiểu sử Nguyễn Tuân 6
1.1.2. Con người Nguyễn Tuân 8
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân 9
1.2.1. Sáng tác trước Cánh mạng tháng Tám 10
1.2.2. Sáng tác sau Cách mạng tháng Tám 10
1.3. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân 10
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 10
1.3.2. Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám 12
CHƯƠNG 2. VẺ ĐẸP TÂY BẮC TRONG MỘT SỐ TÙY BÚT CỦA
NGUYỄN TUÂN 14
2.1. Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc 14
2.1.1. Cảnh sắc thiên nhiên miền Tây Bắc 14
2.1.2. Sự trù phú của thiên nhiên Tây Bắc 31
2.2. Vẻ đẹp tâm hồn người dân Tây Bắc 33
2.2.1. Người dân Tây Bắc đau thương và anh hùng 33
2.2.2. Người dân Tây Bắc – những anh hùng lao động trong thời kỳ mới 42
KẾT LUẬN 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa và độc đáo, có vị trí quan trọng
trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Với sự nghiệp văn chương khá đồ sộ ông
đã có những đóng góp to lớn cho nền văn xuôi hiện đại. Ông sáng tác trên nhiều

thể loại, mỗi thể loại đều có những tác phẩm xuất sắc. Trong đó nổi bật hơn cả là
thể loại tùy bút, đây được coi là sở trường của Nguyễn Tuân. Những tác phẩm
sau cách mạng của ông đã được giới nghiên cứu phê bình quan tâm. Đã có rất
nhiều luồng ý kiến tranh luận trái ngược nhau xung quanh vấn đề Nguyễn Tuân.
Vì vậy, việc chúng ta tìm hiểu tiếp về tác gia Nguyễn Tuân vẫn là điều cần thiết.
1.2. Nguyễn Tuân, con người của chủ nghĩa xê dịch, ưa khám phá, thích
phưu lưu mạo hiểm…ông đã đi và viết về nhiều vùng đất khác nhau trên đất
nước Việt Nam, trong đó có Tây Bắc. Mảnh đất đầy nắng và gió này được coi là
quê hương thứ hai của Nguyễn Tuân, chiếm một vị trí quan trọng trong các sáng
tác của ông. Nơi đây lưu giữ những kỷ niệm đẹp trong trái tim nhà văn và là cái
mốc đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng trong con người Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng Tám. Cho nên việc tìm hiểu về thiên nhiên và con người Tây Bắc
qua cái nhìn của Nguyễn Tuân là một vấn đề cần được quan tâm.
1.3. Nguyễn Tuân là một trong số các tác gia lớn của nền văn học Việt
Nam và là một trong chín tác gia lớn được chọn dạy ở nhà trường phổ thông.
Thực tế cho thấy việc giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn. Cho nên việc tìm hiểu
các tác phẩm để nắm bắt tư tưởng của Nguyễn Tuân là điều cần thiết đối với
người dạy và người học.
1.4. Nguyễn Tuân là nhà văn hiện đại mà tôi hằng yêu mến và ngưỡng
mộ. Ông có vốn hiểu biết sâu rộng cùng với chất tài hoa nghệ sĩ đã đem đến cho
tôi nhiều thú vị văn chương. Qua việc nghiên cứu vẻ đẹp Tây Bắc trong một số
tùy bút của Nguyễn Tuân giúp tôi hiểu hơn về con người nhà văn cũng như thêm
yêu quê hương Tây Bắc, yêu đất nước Việt Nam.
1.5. Thực hiện khóa luận này chúng tôi nhằm mục đích tập dượt nghiên
cứu khoa học, đồng thời có thêm kinh nghiệm và kỹ năng nghiên cứu về một
vấn đề khoa học và là bước tiến cho công tác giảng dạy sau này.
Trên đây là những lý do khiến tôi chọn đề tài: Vẻ đẹp Tây Bắc trong một
số tuỳ bút của Nguyễn Tuân để nghiên cứu. Hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ là
nguồn tư liệu bổ ích góp phần hiểu thêm về tác giả Nguyễn Tuân, về vùng đất
Tây Bắc cũng như giúp cho công tác chuyên môn của các sinh viên khi ra

trường thuận lợi hơn.

2
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Tuân xuất hiện trên văn đàn như một hiện tượng văn học độc đáo.
Với cá tính, phong cách như Nguyễn Tuân thì việc tìm đền thể tùy bút là một
điều tất yếu và thể tài này đã giúp Nguyền Tuân gặt hái được nhiều thành công
trên con đường văn chương, nâng tên tuổi của Nguyễn Tuân lên một tầm cao
mới. Những sáng tác của ông được nhiều thế hệ độc giả đón nhận, nhiều nhà phê
bình đánh giá cao. Các bài viết về Nguyễn Tuân có thể nói là đồng hành cùng
với sự nghiệp sáng tác của ông, thậm chí còn tiếp tục ra đời sau khi ông đã mất.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân luôn là một hiện tượng
hấp dẫn người đọc, thu hút sự chú ý của các nhà văn cũng như giới nghiên cứu
phê bình văn học. Sự phong phú và đa dạng của các công trình nghiên cứu về
Nguyễn Tuân không chỉ biểu hiện ở số lượng mà còn cả ở đối tượng tính chất
quy mô nghiên cứu. Mỗi bài viết là một khía cạnh một vấn đề được tác giả quan
tâm tìm hiểu như: Quan niệm nghệ thuật, phong cách, thể loại, tác phẩm, nội
dung…lại có những bài viết về cá tính, những kỷ niệm sâu sắc với nhà văn
Nguyễn Tuân…tất cả đều thể hiện sự nghiên cứu công phu. Việc tìm hiểu về vẻ
đẹp Tây Bắc trong một số tùy bút của Nguyễn Tuân cũng chính là tìm hiểu về
con người, phong cách nghệ thuật của ông. Đến với Tây Bắc Nguyễn Tuân đã
“lột xác” để trở thành con người mới để phù hợp với cuộc sống mới khác hẳn
với Nguyễn Tuân trước cách mạng, một sự chuyển biến tư tưởng đáng ghi nhận.
Từ những bài nghiên cứu về Nguyễn Tuân trên nhiều phương diện cho chúng ta
thấy có nhiều ý kiến khác nhau, quan niệm khác nhau về Nguyễn Tuân và những
sáng tác của ông.
2.1. Tác giả Vương Trí Nhàn viết về Nguyễn Tuân và các tác phẩm của
ông với bài “Nguyễn Tuân – huyền thoại một thời” in trong “Những kiếp hoa
dại” (tập chân dung và phiến luận văn học) Nxb Hội nhà văn, H, 1994. Trong đó
tác giả nhận xét: “trong văn học mấy chục năm nay dù không phải là người viết

khỏe nhưng ông viết khá đều và bao giờ cũng có vị trí riêng”. Việc đi và viết
Tây Bắc của Nguyễn Tuân cũng được tác giả nhận xét khá chân thực: “Kể đi
không thôi thì còn nhiều người khác đi bạo hơn ông, nhưng đây là việc đi của
nhà văn, nó phải kèm vào việc viết. Sở dĩ Nguyễn Tuân viết được về Tây Bắc vì
ông biết nhìn ra ở đấy vẻ đẹp; ông xem Tây Bắc là một công trình nghệ thuật.
Ngay viết về đường, ông cũng lấy tiêu chuẩn một cái gì đang hình thành ra
xét…”. Để chúng ta thấy rằng việc đi và viết Tây Bắc của Nguyễn Tuân là cả
một thành công của người nghệ sĩ mà không phải ai cũng làm được. Cái đặc biệt
còn là sự khám phá ra vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp tiềm ẩn của thiên nhiên và con

3
người xứ Tây Bắc xa xôi, càng chứng tỏ tài năng cũng như sự cố gắng vượt trội
của Nguyễn Tuân.
2.2. Bàn về Nguyễn Tuân và thể tùy bút thì tác giả Hà Văn Đức có bài
viết in trong “50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám”, Nxb,
ĐHQG, HN, 1996. Với tiêu đề: “Tùy bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
Tám” tác giả đã có những chia sẻ sâu sắc như: “Tùy bút Nguyễn Tuân hấp dẫn
người đọc trước hết bởi những trang viết chân thực với lượng thông tin phong
phú, đa dạng, chính xác… Đọc tùy bút Sông Đà, người đọc không chỉ được đắm
mình trong một cảnh sắc thiên nhiên vừa dữ dội, hoang sơ vừa trữ tình thơ
mộng mà còn có thêm nhiều hiểu biết lịch sử một vùng đất đầy đau thương,
đang chuyển mình đi lên với cuộc sống mới.” Ngoài ra tác giả còn nói về đặc
điểm thể tùy bút của Nguyễn Tuân “Tính chất đa nghĩa của những thiên tùy bút
Nguyễn Tuân cũng là một mặt mạnh trong phong cách nghệ thuật của ông. Đọc
tùy bút Nguyễn Tuân, người đọc phải nghiền ngẫm, suy nghĩ, phải có cùng một
tư duy nghệ thuật với nhà văn thì mới cảm nhận hết được cái hay cái đẹp của
nó. Nói một cách hình ảnh thì tùy bút Nguyễn Tuân giống như một khối ru bi,
mà nhìn ở mặt nào, khía cạnh nào người đọc cũng thấy sự tỏa sáng cả.”
2.3. Tác giả Lê Quang Trang cũng góp thêm vào công trình nghiên cứu về
Nguyễn Tuân với bài viết “Cảnh sắc và hương vị đất nước trong văn Nguyễn

Tuân” in trong “Dọc đường văn học” Nxb Văn Học, HN, 1996, (tr 207– 213).
Trong đó tác giả cho rằng: “Trước cách mạng, đam mê với những thú chơi nghệ
thuật, Nguyễn Tuân bộc lộ một tấm lòng với quê hương, một nét nhìn tinh tế tuy
đôi khi bất nhẫn. Sau cách mạng, tình cảm say mê ấy hướng dần vào những vấn
đề lớn đang đặt ra cho dân tộc, đất nước, nhân dân. Vẫn cái hơi văn không thể
trộn lẫn vào ai khác ông đi đến những vùng đất mới, chuyện trò về sự đổi thay
của đất nước trong buổi dựng xây…”.
2.4. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã dành nhiều
thời gian, công sức và tâm huyết để nghiên cứu con người, cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Tuân. Trong lời tựa bộ “Tuyển tập Nguyễn Tuân 1” (Nxb
Văn học, HN, 1981) ông đã có những đánh giá khá sâu sắc, toàn diện và khách
quan về cuộc đời cầm bút của Nguyễn Tuân. Giáo sư phân tích và lý giải một
cách thấu đáo tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong suốt
quá trình sáng tác. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Ngày xưa bế tắc trong suốt
cuộc đời thực tại, tầm mắt không vượt khỏi môi trường quẩn đọng xám xịt cuộc
sống tư sản, tiểu tư sản, ông thường đi tìm cái đẹp của thiên nhiên hay ở quá
khứ tách rời hiện thực. Ngày nay, ông đi tìm cái đẹp chất thơ ngay trong thực

4
tại, thiên hướng khảo cứu giúp ông tìm hiểu nghiêm túc và sâu sắc cuộc sống
chiến đấu và sản xuất của nhân dân. Nhìn chung, từ Đường vui, Tình chiến dịch,
đến Sông Đà và Ký chống Mỹ…Cái tài hoa của Nguyễn Tuân ngày càng được
phát huy trên quan điểm nghệ thuật cách mạng.”
2.5. Tác giả Vũ Ngọc Phan cũng có những trang viết xuất sắc về Nguyễn
Tuân trong cuốn “Nhà văn hiện đại”, tập 2, Nxb KHXHVNV, 1989. Tác giả cho
rằng Nguyễn Tuân là một nhà văn đặc Việt Nam, có tính hào hoa và có cái
giọng khinh bạc đệ nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại và “chỉ những người
ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải
thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.
Nghiên cứu về vẻ đẹp quê hương đất nước trong tùy bút của Nguyễn Tuân

sau cách mạng, gần đây càng ngày càng được chú ý nhiều hơn. Tuy nhiên chưa
có bài viết nào tập trung nghiên cứu sâu sắc về vẻ đẹp Tây Bắc trong một số tùy
bút của Nguyễn Tuân. Vì thực tế đó chúng tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu vẻ
đẹp Tây Bắc trong một số tùy bút của Nguyễn Tuân để thấy được vẻ đẹp của
thiên nhiên, con người Việt Nam nói chung, của Tây Bắc nói riêng và góp phần
hiểu thêm về tài năng cùng sự chuyển biến tư tưởng của tác giả tài hoa này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về vẻ đẹp Tây Bắc trong một số tùy bút của Nguyễn Tuân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn người dân Tây Bắc trong một số
tùy bút của Nguyễn Tuân.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của khóa luận là thấy được vẻ đẹp của Tây Bắc trên hai
phương diện:
- Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc
- Vẻ đẹp tâm hồn người dân Tây Bắc
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp được sử dụng thường
xuyên trong quá trình thực hiện khóa luận.

5
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp quan trọng để tìm và liệt kê
những chi tiết miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Bắc mà Nguyễn
Tuân đã thể hiện trong tác phẩm.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh để hỗ trợ hai
phương pháp chủ đạo trên.
6. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp thêm một công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói

chung và vẻ đẹp của Tây Bắc nói riêng.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của khóa luận gồm
hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Vẻ đẹp Tây Bắc trong một số tùy bút của Nguyễn Tuân


















6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Tiểu sử và con người Nguyễn Tuân
1.1.1. Tiểu sử Nguyễn Tuân

Nhà văn Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910, tại Hà Nội (phố
hàng Bạc). Quê ông ở xã Nhân Mục, thôn Thượng Đình nay thuộc phường Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ngoài bút hiệu là Nguyễn Tuân ông còn có
bút hiệu khác như: Nhất Lang, Ân Ngũ Tuyên, Thanh Hà, Tuấn Thừa Sắc, Ngột
Lôi Quật, Tuân…Thân sinh ông là cụ Nguyễn An Lan, tức ông Tú Hải Văn một
nhà nho tú tài hoa đậu khoa thi hán học cuối cùng, nhưng cũng là một nhà nho
bất đắc chí dưới chế độ thực dân phong kiến. Nguyễn Tuân tuy quê ở Hà Nội,
nhưng thời thanh thiếu niên đã cùng với gia đình sống nhiều ở các tỉnh miền
trung, Khánh Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, nhất là Thanh Hóa.
Vì thế, Nguyễn Tuân am hiểu phong tục tập quán, thiên nhiên con người ở nhiều
vùng miền khác nhau. Năm 1927, ông cưới cô Vũ Thị Tuệ. Năm 1929, đang học
ở bậc thành chung ông tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp
nói xấu người Việt Nam và ông bị đuổi học. Sau này ông không theo học ở
trường nữa. Những kiến thức nhiều mặt của ông chủ yếu được thu thập từ sách vở
và từ chính cuộc sống sôi động, luôn đổi thay của ông. Không chịu được cuộc
sống ngột ngạt, bế tắc của người dân mất nước, ông cùng một số thanh niên có
đầu óc tự do lúc bấy giờ thực hiện một chuyến đi giang hồ bất chấp vòng pháp
luật của chế độ thuộc địa. Ông đã bị bắt tại Băng Cốc (Thái Lan) và bị giam tại
Hà Nội. Sau một thời gian ông bị giải về tù ở Thanh Hóa (1930).
Năm 1931 Nguyễn Tuân ra tù, ông làm thư ký tại nhà máy đèn và bắt đầu
cầm bút. Ông làm báo, viết văn. Sáng tác của ông được đăng trên các báo Trung
Bắc Tân Văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tiểu Thuyết Thứ Bảy và sống hẳn
với ngòi bút từ 1937.
Ông nổi tiếng từ năm 1938, 1939 với “Một Chuyến Đi”, “Vang Bóng Một
Thời”… Ngoài văn học, Nguyễn Tuân còn say mê diễn kịch. Ông đã đóng vai
chính trong nhiều vở kịch diễn tại Hà Nội. Ông còn là một trong những diễn
viên điện ảnh đầu tiên của nước ta, đóng phim Cánh Đồng Ma ở Hồng Kông
trong vai y tá (1938).
Năm 1940 nhà Tân Dân in cuốn “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn
Tuân, và ngay năm 1941 Nguyễn Tuân đã bị bắt tại Hà Nội và bị giam tại trại

tập trung Vụ Bản, Nho Quan. Ở đây ông bị quản thúc và hàng tuần đều phải lên

7
trình diện. Khi ở trại tập trung về, Nguyễn Tuân lại bắt đầu viết và cho in một
loạt tác phẩm: “Thiếu Quê Hương”, “Tóc Chị Hoài”, “Chiếc Lư Đồng Mắt
Cua”, “Nguyễn”…được in trước Cách mạng tháng Tám.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia và ông
trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
Năm 1945, Tố Hữu mời ông tham gia đoàn sáng tác văn nghiệp đi vào
mặt trận Nam Trung Bộ đang chiến đấu chống Pháp và ông đã nhận lời. Có thể
coi đó là chuyến đi đầu tiên của ông với cách mạng.
Năm 1947, ông làm trưởng đoàn kịch tuyên truyền của khu Bốn. Năm
sau, ông đi Việt Bắc dự Đại Hội Văn Hóa và Hội Nghị Văn Nghệ toàn quốc.
Ông được bầu làm tổng thư ký văn nghệ toàn quốc (từ 1948 – 1956), là ủy viên
ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam và Hội Nhà Văn
Việt Nam từ năm 1957 đến lúc mất (1987). Nguyễn Tuân đi nhiều, khi thì ở Việt
Bắc khi thì ở khu Bốn. Ông đã đến mọi nơi xa xôi nhất, bất kể là ở đâu, bất kể là
vùng núi hay đồng bằng. Ông tham dự cả một trận đánh của bộ đội. Đi nhiều có
một vốn sống phong phú đã giúp ông thành công trong sáng tác.
Năm 1950, Nguyễn Tuân ra nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam tại chi bộ
Hội Văn Nghệ Việt Nam. Năm 1952, ông vào công tác trong vùng địch ở Bắc
Ninh. Năm 1953, ông tham gia hai đợt phát động quần chúng tham gia giảm tô.
Sau đợt chỉnh huấn năm 1953, ông đoạn tuyệt với quá khứ lãng mạn, tiểu tư sản.
Trong những ngày ở Việt Bắc gian khổ, ông đã thai nghén để sau đó cho ra đời
những tập tùy bút phản ánh không khí chiến đấu sôi động của quân và dân ta
trong những ngày kháng chiến chống Pháp, đó là “Đường Vui”, “Tình Chiến
Dịch”. Cuộc chiến tranh chống Mỹ bùng nổ, Nguyễn Tuân đến ngay vĩ tuyến 17
từ những ngày đầu sau hiệp định Giơnevơ. Có thể nói giới tuyến Vĩnh Linh và
Tây Bắc là nơi mà Nguyễn Tuân đã dành nhiều tâm huyết của mình để đi và viết
về nó. Điều đó được thể hiện qua hai tùy bút “Sông Tuyến” và “Sông Đà”. Thời

kỳ giặc Mỹ trực tiếp đánh phá miền Bắc, dùng B.52 ném bom Hà Nội, Nguyễn
Tuân lập tức có ngay tập tùy bút: “Hà Nội ta đánh Mỹ Gỏi”. Trong những năm
60 và 70, ông còn viết phê bình văn học. Ông viết về các tác giả trong nước và
ngoài nước, về các vấn đề văn học mà ông quan tâm và yêu thích.
Nguyễn Tuân hoạt động nghệ thuật trên nhiều phương diện: Viết truyện, viết ký,
phê bình văn học, dịch thuật, đóng phim, diễn kịch.
Ông là một trong những nhà văn tham gia tích cực vào hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Bằng ngòi bút tài hoa và tâm

8
huyết của mình ông đã góp phần không nhỏ vào việc ngợi ca đất nước và con
người Việt Nam trong chiến đấu, sản xuất và xây dựng.
Nguyễn Tuân mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội.
1.1.2. Con người Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là con người của chủ nghĩa “xê dịch”. Gia đình thay đổi
nhiều nơi ở như Thanh Hóa, Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Phú Yên…điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến tính xê dịch của Nguyễn Tuân “Tôi muốn mỗi ngày
trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say sưa của rượu tối tân hôn. Mỗi một
ngày tới lại đem cho tôi một ngạc nhiên bắt trí tò mò làm việc. Khi nào người ta
không biết sửng sốt nữa thì chỉ còn có cách trở lại nguyên bản của mình là bụi
bặm”. Cha của Nguyễn Tuân là cụ Nguyễn An Lan một con người tài hoa “bất đắc
chí” cũng là người thích chu du đây đó nên “gen” này đã truyền sang cho Nguyễn
Tuân: tài hoa, tài tử, thích ngao du sơn thủy. Năm 1938 có đoàn làm phim “Cánh
Đồng Ma” ở Hồng Kông mời Nguyễn Tuân đóng vai phụ. Ông đã nhận lời. Có thể
đây là cách Nguyễn Tuân thay đổi thực đơn cho giác quan của mình.
Chủ nghĩa xê dịch đã ảnh hưởng đến tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ, quan
điểm nghệ thuật của ông. Những nhân vật của ông là những: Nguyễn, Bạch…
lấy việc đi là niềm vui mặc dù đó là những chuyến đi không mục đích.
Nguyễn Tuân là người có nhân cách, giàu lòng tự trọng. Nguyễn Tuân
không vì bất cứ cái gì mà đánh đổi nhân cách của mình. Có giai thoại kể rằng trong

một lần ông cùng nhà văn Kim Lân sang Liên Xô công tác, đại sứ quán quên trợ
cấp cho nhà văn, nhà văn A. Ximonop đã thật lòng tặng mỗi người 50 rúp để tiêu
trong mấy ngày đầu. Nguyễn Tuân đã từ chối lòng tốt đó. Kim Lân thì thấy tiếc còn
Nguyễn Tuân thì vui vẻ vì mình hành xử theo đúng nhân cách của mình. Một lần
nhà xuất bản trong Nam có nhã ý tặng mỗi nhà văn số tiền nhuận bút, trong khi các
nhà văn khác đã nhận số tiền đó thì Nguyễn Tuân không nhận.
Nguyễn Tuân là người giàu lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước
của ông gắn liền với việc yêu tiếng mẹ đẻ. Theo ông “tiếng nói dân tộc nào cũng
đều có linh diệu của nó. Chúng ta đắm đuối vởi nghề văn, ngày càng chuốt thêm
văn tự, ngày càng làm óng tốt, dẻo bền hơn lên nữa cái tiếng nói Việt Nam cổ
truyền”(Nguyễn Tuân – Chuyện Nghề – Nxb tác phẩm lớn – Hội nhà văn Việt
Nam – Hà Nội 1986). Ông quý trọng những giá trị văn hóa dân tộc như: Những
kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà…
Những nhạc điệu câu hát ca trù hoặc dân ca âm điệu thiết tha của giọng hò Quảng
Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ… Nguyễn Tuân yêu những phong cảnh đẹp của quê

9
hương, đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, uống rượu, chơi hoa, chơi
chữ…những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt.
Nguyễn Tuân là con người tài hoa, uyên bác. Ông am hiểu nhiều nghành
nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc… Văn Nguyễn
Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Văn của ông chứa đựng cả những
kiến thức lịch sử, địa lý, quân sự, võ thuật, điện ảnh, điêu khắc…Những kiến
thức đa nghành ấy đã tạo nên sự uyên bác của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài
hoa bay cao, bay xa hơn. Ngoài văn học, Nguyễn Tuân còn mê diễn kịch. Ông là
một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta. Ông khá nổi tiếng với vai diễn trong
vở “Kim Tiền” của Vi Huyền Đắc. Năm 1938, ông sang Trung Quốc đóng vai y
tá trong bộ phim “Cánh Đồng Ma”.
Nguyễn Tuân là một tri thức, một nghệ sĩ có bản lĩnh. Ông có nhiều tác
phẩm nổi tiếng cả trước và sau Cách mạng tháng Tám như: “Vang bóng một thời”

(1940), “Chiếc lư đồng mắt cua” (1941), “Đường vui” (1949), “Sông Đà” (1960),
“Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” (1972) Nguyễn Tuân là người biết quý trọng thực sự
nghề nghiệp của mình. Trong cái vội vàng, cẩu thả của những tác phẩm xuất bản
gần đây, những tác phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua
đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng, yêu mến cái đẹp,
coi công việc sáng tạo là công việc quý báu, thiêng liêng. Ngay từ trước Cách mạng
tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu
con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đó không thể có cái đẹp. Đối với
ông nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí là “khổ hạnh”. Ông
đã lấy chính cuộc đời cầm bút của mình để chứng minh cho quan niệm ấy. Ông tha
thiết yêu tiếng Việt và luôn có ý thức làm giàu làm đẹp thêm cho Tiếng Việt. Văn
Nguyễn Tuân thường chắt lọc kỹ lưỡng, tuy đôi lúc có kênh kiệu, cầu kỳ nhưng
nhìn chung giàu chất thơ và giàu tạo hình, tạo cảnh, tạo không khí. Nguyễn Tuân
một bậc thầy về ngôn ngữ, là tấm gương về việc dùng từ đặt câu, lập ý. Ông sống
với từng hình ảnh khắc họa, từng câu văn, từng từ đặt trên trang giấy. Nguyễn Tuân
chính là một trong những cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam
thế kỷ XX. Những trang văn của ông thự sự có sức ám ảnh lâu bền tới bạn đọc. Tác
giả Hoài Anh từng nhận xét: “Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái
đẹp thăng hoa đến độ hiếm thấy trong văn học Việt Nam” [14, 191].
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân
Qua hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Tuân đã để lại một sự nghiệp văn học
khá đồ sộ và có giá trị với những trang viết độc đáo và tài hoa. Nhìn một cách tổng
quát thì sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân có thể chia làm hai giai đoạn:

10
Giai đoạn 1: Sáng tác trước Cách mạng tháng Tám
Giai đoạn 2: Sáng tác sau Cách mạng tháng Tám
1.2.1. Sáng tác trước Cánh mạng tháng Tám
Thơ: “Giang hồ hành”.
Truyện ngắn: “Vườn xuân lan tạ chủ” (1935), “Vang bóng một thời”

(đăng trên báo Tân Dân năm 1939 xuất bản năm 1940), “Xác ngọc lam” (1943),
“Vô đề” (1945) sau đổi là “Lột Xác”, “Nguyễn” (1945).
Truyện ngắn trào phúng: “Đánh mất ví”, “Đông Phương là Đông Phương
– Tây Phương là Tây Phương”, “Mười năm mới gặp cố nhân”, “Một vụ bắt rượu
lậu” (1939).
Truyện vừa: “Hai tấm vé số”.
Tùy bút: “Một chuyến đi” (đăng trên báo Tân Dân năm 1938 xuất bản
1941), “Chiếc lư đồng mắt cua” (1941), “Tùy bút 1” (1941), “Tùy bút 2” (1943),
“Tóc Chị Hoài” (1943)…
Phóng Sự: “Ngọn đèn dầu lạc” (1939), “Tàn đèn dầu lạc” (1941).
1.2.2. Sáng tác sau Cách mạng tháng Tám
Truyện ngắn: “Chùa Đàn” (1946), “Thắng Càn”.
Kịch và truyện thiếu nhi: “Chú Giao Làng Seo” (1953), “Truyện một cái
thuyền đất” (1958), “Cỏ độc lập”.
Tùy bút: “Đường vui” (1949), “Tình chiến dịch” (1950), “Tây Bắc căm
thù”, “Nhật ký trong lòng địch”, “Tùy bút kháng chiến hòa bình tập 2” (1956),
“Chợ Đồng Xuân”, “Cho giặc bay Mỹ ăn một cái tết ta”, “Sông Đà” (1960)…
Ký: “Bút ký đi Trung Hoa” (1955), “Hà Nội ta đánh Mỹ gỏi” (1972).
1.3. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học phức tạp. Quan niệm sáng tác
của ông có thể chia thành hai giai đọan rõ rệt: Giai đoạn trước và sau Cách mạng
tháng Tám.
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám
Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân giai đoạn này tương đối phức
tạp. Một mặt ông tuyên bố quan điểm tôn thờ nghệ thuật thuần túy không
khuynh hướng, tức là theo quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhưng mặt
khác ông tỏ ra không dửng dưng với thời cuộc. Ông gắn bó hết mình với cuộc

11
sống nhân sinh. Điều này chứng tỏ rõ ông là người có tinh thần yêu nước.

Nguyễn Tuân muốn rút lui vào cái tôi kiêu ngạo, nhưng mặt khác lại hăm hở đi
vào cuộc sống thực, khao khát đi tìm “thực phẩm” cho tâm hồn mình ở cuộc đời
rộng rãi và luôn biến động. Quan niệm của ông luôn ở hai thái cực khác nhau.
Những tính chất không nhất quán, không dứt khoát giữa hai mặt tích cực và tiêu
cực trong ý thức nghệ thuật của Nguyễn Tuân, ngay cả ở những thời kỳ bế tắc
nhất xét đến cùng là do cái giằng co giữa chủ nghĩa cá nhân và lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc. Nó khiến cho ông quay lưng hẳn với hiện thực, muốn thoát ly
đấy nhưng không thật đành lòng, trong cái nhởn nhơ vô trách nhiệm, vẫn nhói
lên lòng tự thẹn. Ông đã có những phen đụng đầu với luật pháp đế quốc. Ông
không chấp nhận khuôn khổ của chế độ thuộc địa. Ông chưa có được cái chí khí
vẫy vùng chống phá gì đối với trật tự của xã hội thực dân, mới là khao khát tự
do, khao khát sự thỏa mái, khao khát được ngắm trời ngắm biển, được thưởng
thức cho đầy đủ thỏa thuê vẻ đẹp của quê hương đất nước mình, vậy mà cũng đã
hai lần bị tù đày.
Con người của chủ nghĩa hưởng lạc và chủ nghĩa xê dịch ấy thế mà bị
giam chân, nếm cơm tù đế quốc hàng năm trời từ nhà lao Hải Phòng, Hỏa Lò –
Hà Nội, nhà tù Thanh Hóa, nhà tù tập trung Vụ Bản, Nho Quan. Ta hiểu vì sao
người ấy cảm thấy day dứt, “thiếu quê hương” và trên đường xê dịch quẩn
quanh lẩn vào cái thú giang hồ lãng tử, vẫn không nguôi cái tâm sự u uất của
một con người cứ phải “thầm lén mà yêu mà ngợi ca đất nước muôn vẻ muôn
màu của mình” (Cầu Ma). Ta hiểu vì sao ông châm biếm kín đáo lũ phong kiến
tay sai. Điều đó được thể hiện qua các tác phẩm “Một vụ bắt rượu lậu”, “Bữa
rượu máu”, “Những ngày Thanh Hóa”…Tính phức tạp của quan điểm sáng tác
của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở một mâu thuẫn khác cũng gắn liền với mâu
thuẫn nói trên. Đó chính là cái “tôi” của Nguyễn Tuân. Thực ra bản thân nhà văn
cũng có lúc tự nhận xét như thế: “Lòng kiêu căng của ta đã xui ta chỉ chơi có
một lối độc tấu” (Vô đề).
Trước Cách mạng tháng Tám, cái tôi của Nguyễn Tuân về căn bản là cái
tôi cá nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội. Nguyễn Tuân tự vẽ mình như một con
người cô độc và kiêu ngạo: “Rồi tôi vênh váo đi giữa cuộc đời như một viễn

khách không có quê hương nhất định cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở
cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của mình” (Tóc Chị Hoài).
Điều này cũng có cơ sở của nó bởi trước Cách mạng tháng Tám lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc của Nguyễn Tuân mang bản chất tiểu tư sản. Bên cạnh
cái chung còn có cái riêng đó là tình cảm đặc biệt tha thiết với giá trị văn hóa cổ

12
truyền của dân tộc. Trước hết là sự gắn bó với tiếng nói của cha ông. Ông yêu
tha thiết Tiếng Việt lại đặc biệt gắn bó với những truyền thống văn nghệ văn hóa
cuả dân tộc. Ông nghiêm túc tìm hiểu các giá trị cổ truyền: tuồng, chèo, hát ả
đào, hội họa cổ điển, tranh lụa Nguyễn Phan Chánh…Ông muốn hòa nhập cả
linh hồn mình vào linh hồn của giọng hò mái đẩy trên sông nước Thừa Thiên,
Quảng Trị.
Thiên hướng gai cấp và ảnh hưởng của gia đình khiến Nguyễn Tuân chú ý
nhiều hơn đến những “phong tục” hưởng lạc đài các của các quý tộc phong khiến.
Nói chung chủ nghĩa hình thức thường chiếm ưu thế trong ý thức nghệ
thuật của ông. Ông chủ trương “một cái đẹp thuần túy không vụ lợi”, “không có
nội dung xã hội, không có nội dung gai cấp và thời đại”, “văn chương nghệ
thuật phải đứng trên mọi thiện ác ở đời” [16, 206]. Tuy vậy chủ nghĩa cá nhân
hưởng lạc và kiêu ngạo lại muốn níu giữ ông lại, tạo ra thế rằng co mới trong ý
thức nghệ thuật của ông. Từ những điều đó cho thấy quan niệm nghệ thuật của
ông phức tạp, không đồng nhất. Nguyễn Tuân rơi vào khủng hoảng, bế tắc sâu
sắc về quan niệm nghệ thuật.
1.3.2. Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám thành công, tạo nên sự đổi đời đối với Nguyễn
Tuân. Ông nhiệt liệt chào đòn cách mạng, tích cực tham gia kháng chiến, ngay
từ những phút đầu đã dùng ngòi bút của mình để ca ngợi độc lập tự do của đất
nước. Gặp được cách mạng, Nguyễn Tuân soi mình trong “một bản đàn mới của
thời đại”, ông chủ động “đi tìm lấy những định mức để rung động cho đúng nhịp
với đời sống cao rộng” [8, 12] rồi nhờ sự cổ vũ của bạn bè mà từng bước tìm

thấy niềm tự hào trên con đường hòa mình vào sự nghiệp chung của đất nước.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc đã lôi kéo
ông chạy theo xu hướng văn học tiêu cực suy đồi thì giờ đây dưới sự giáo dục
của Đảng và thực tiễn cách mạng, nhờ mối liên hệ ngày càng máu thịt hơn đối
với đời sống chiến đấu và sản xuất cuả nhân dân, Nguyễn Tuân đã vượt qua
được tình trạng “giằng co” nói trên một cách thanh thoát hơn, để trở thành môt
cây bút có sức sáng tạo dồi dào, thấm nhuần những tư tưởng cao đẹp của thời đại
mới. Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng chiến hăng hái đi thực tế, dùng
ngòi bút để ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và trong lao
động sản xuất. Nếu như nhân vật trung tâm trong tác phẩm trước cách mạng của
ông là những ông Nghè, ông Cử, ông Tú, những con người tài hoa bất đắc chí, thì
giờ đây hình tượng chính trong sáng tác của ông là nhân dân lao động và người
chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, những con người bình thường mà vĩ đại.

13
Cuộc chuyển biến tư tưởng, thay đổi tư duy nghệ thuật và lý tưởng thẩm
mỹ của Nguyễn Tuân là cả một quá trình phức tạp và đầy gian khổ. Cái tôi kiêu
bạc và đơn độc của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám đã nhường cho
một nhà văn hoà nhập chân thành vào đời sống kháng chiến với những con
người giản dị để cất lên tiếng hát ngợi ca họ, ngợi ca cuộc sống mới.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân như trẻ lại, hào hứng hơn, say mê hơn trên
những nẻo đường kháng chiến, náo nức với những xúc cảm mới, những vẻ đẹp
mới của cuộc đời, con người, cảnh vật “Tôi mải miết qua những đồi chi chít chè
và dó. Nương dó suốt mấy vùng Hạ Hòa thi nhau trổ hoa. Hoa dó trắng nở từng
chùm ngào ngạt bốc quyện hương thơm. Đường hoa vui ngát như thế này thì
bao giờ mới mỏi chân được, hỡi các bạn đường!” (Lại Ngược).
Ánh sáng của Đảng Cộng Sản đã soi sáng cho con đường văn chương mà
Nguyễn Tuân đang đi và ông đã có những quan điểm đúng đắn, hiện đại hơn,
phù hợp với bước nhảy của lịch sử.
Nguyễn Tuân đã chuyển mình, nhà văn – chiến sỹ cách mạng đã dùng

ngòi bút phục vụ tổ quốc và nhân dân, tiếp tục phát huy được bản sắc độc đáo
của mình.
Tiểu Kết: Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Tuân để lại cho chúng ta
nhiều suy nghĩ thú vị về một tài năng, một nghệ sĩ được coi là “Cây độc huyền
cầm” của làng văn Việt Nam. Mặc dù gặp nhiều sóng gió trong cuộc sống cũng
như trong đời cầm bút, nhưng quan trọng là Nguyễn Tuân đã tìm ra con đường
đúng đắn cho mình đó là nghe theo tiếng gọi của Đảng; để cái tôi kiêu bạc hòa
vào cái ta chung của cộng đồng, ông thấu hiểu và gắn bó với nhân dân mà vẫn
giữ được cái chất “Nguyễn Tuân”. Lựa chọn thể tài tùy bút, với một phong cách
riêng và độc đáo Nguyễn Tuân đã để lại một khối lượng lớn tác phẩm có giá trị
sâu sắc; đồng thời đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn Việt Nam.









14
CHƯƠNG 2
VẺ ĐẸP TÂY BẮC TRONG MỘT SỐ TÙY BÚT
CỦA NGUYỄN TUÂN

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc nước ta được sống trong
hòa bình. Hòa mình vào không khí chung của toàn dân tộc sau kháng chiến đang
trên đường hăm hở khôi phục đất nước, xây dựng cuộc sống mới, Nguyễn Tuân
tích cực hăng hái tham gia học tập chính trị và đi thực tế. Chính sự nhập cuộc ấy
đã làm tiền đề cho sự ra đời của những thiên tùy bút xuất sắc này.

Đầu năm 1958, ông lên Tây Bắc sống với bộ đội, công nhân cầu đường,
thanh niên xung phong, đồng bào các dân tộc miền núi, đây là kết quả của một
quá trình gian khổ và “lột xác” lâu dài của Nguyễn Tuân. Kết quả của chuyến đi
này là tập Sông Đà gồm 14 bài tùy bút và 1 bài thơ “phác thảo” lần lượt được
sáng tác từ tháng 10 năm 1958 đến tháng 4 năm 1960, đăng rải rác ở các báo tạp
chí, rồi xuất bản thành sách tháng 7 năm 1960. Tác phẩm mang hơi thở của thời
đại đã hòa nhập cùng tâm hồn đầy nhiệt huyết cách mạng của nhà văn, đã tạo ra
những đứa con tinh thần mang cảm hứng ngợi ca con người mới, ngợi ca cuộc
sống mới cùng thiên nhiên trăm núi ngàn sông diễm lệ.
2.1. Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc
2.1.1. Cảnh sắc thiên nhiên miền Tây Bắc
Nguyễn Tuân vốn là một nghệ sĩ say mê cái đẹp. Tây Bắc, mảnh đất diệu
kỳ này lại có biết bao vẻ đẹp dễ làm say đắm lòng người. Tìm đến nơi đây,
Nguyễn Tuân như thỏa sức khám phá và ghi chép. Dõi theo bước chân người
nghệ sĩ tài hoa, chúng ta sẽ thấy từng đường nét của non sông Việt Nam được
thể hiện trên bức tranh ngôn từ đẹp như thế nào. Đó là bức tranh thiên nhiên vừa
hoang sơ, kỳ bí vừa gần gũi yêu thương. Từng ngọn núi, dòng sông, từng ngọn
gió nhành hoa… đều được Nguyễn Tuân miêu tả rất tỉ mỉ nhằm làm hiện lên vẻ
đẹp của miền Tây Bắc nói riêng và của tổ quốc Việt Nam nói chung.
Chúng ta đều biết rằng, trên dải đất cong cong mềm mại này có biết bao
nhiêu dòng sông cho tình nhân soi bóng, cho con người chiêm ngưỡng yêu
thương và suy tưởng cội nguồn, cho tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên mỗi khi ngâm
mình trong dòng nước. Trong đời, mỗi người ai cũng mốn chọn cho mình một
dòng sông để lưu giữ “vườn cổ tích tuổi thơ”, niềm tự hào quê hương, xứ sở,
niềm biết ơn đất mẹ bao dung. Tế Hanh đi xa mà lòng đau đáu “Nhớ con sông
quê hương” biếc xanh, có nước gương trong soi bóng “những hàng tre”; Nguyễn
Khắc Hiếu cung kính lấy tên sông đặt cho một nửa tên mình trong đời cầm bút.

15
Còn Nguyễn Khoa Điềm cảm khái: “Ôi, những dòng sông bắt nước từ đâu/ Mà

khi về đất nước mình thì cất lên tiếng hát”. Còn Nguyễn Tuân gọi sông Đà là
“cố nhân” gặp thì mừng vui xa thì nhớ nhung lưu luyến, nó đã trở thành người
bạn tri âm tri kỷ của ông.
Lên với Tây Bắc Nguyễn Tuân đã viết nên thiên tùy bút “Người lái đò
Sông Đà”, có thể nói đây là những trang tuyệt bút hết sức tài hoa và tinh tế.
Nguyễn Tuân đã mượn lời ông lái đò già để nói về sông Đà nhưng chính là tác
giả miêu tả con sông từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm
của mình đối với con sông tiêu biểu cho núi non xứ Tây Bắc xa xôi. Với lối viết
của Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành sông Đà của Nguyễn Tuân “Sông Đà –
Nguyễn Tuân”. Ấy là con sông của đất nước có lịch sử chống ngoại xâm, lịch sử
cách mạng, là con sông trữ tình, anh hùng ca, tạo nên những người anh hùng tài
tình, độc đáo của Nguyễn Tuân, thể hiện sự gắn bó với đất nước đến chỗ sâu
thẳm nhất của tâm hồn. Mà nói như Nguyễn Tuân thì “Sông Đà có sức hút mạnh
bước chân người” [11, 59].
Xưa nay đã có nhiều người nói đến sông Đà. Dân gian có truyện cổ tích
về Thác Bờ, có thành ngữ về ma thiêng nước độc: “Nước Sông Đà, ma Tà Bú”.
Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn từ Lai Châu về qua sông Đà có câu: “Đồn đại
những ba trăm thác dữ, mà nay chỉ thấy một dòng xuôi”, ý lấy sông Đà để nói
chuyện đánh dẹp giặc dữ thành công. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Dữ… các nhà Cần Vương hoạt động ở Tây Bắc, các nhà văn trong hai
cuộc kháng chiến đều nói nhiều về sông Đà.
Văn chương thế giới tả sông cũng không ít. Văn chương Trung Quốc đã sớm
in vào trí nhớ và cảm xúc của nhiều thế hệ người Việt hình ảnh dòng sông Thương
Lang nước trong nước đục của Khuất Nguyên. Con sông Hoàng Hà như từ trời cao
rơi xuống trong thơ Lý Bạch. Bến sông Trường Giang và cành hoa dương liễu làm
cho khách qua sông sầu đến chết lòng. Bến Tầm Dương với lau lách đìu hiu và cái
lạnh của sông Dịch trước sự hi sinh hào hùng của tráng sĩ Kinh Kha. Trong văn
chương Pháp còn vang giọng thác Niagara kéo dài qua thảo nguyên mênh mông
trong đêm trăng thanh vắng với lời văn đầy chất thơ của Stôbriăng. Sông Hằng to
lớn hùng vĩ, linh thiêng được miêu tả trong tác phẩm Mahabharata lại hiện ra hiền

hòa, kỳ diệu ở thơ Tago. Sông Voonga, sông Đơnhíp êm đềm, mơ mộng rồi khắc
khổ trong văn của Mácxim Gôrơki, văn Sôlôkhốp… Mỗi con sông có một vẻ đẹp
riêng nhưng không con sông nào đặc biệt như con sông Đà của Nguyễn Tuân:
“Chúng thủy giai Đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, tức là mọi con sông đều
chảy về hướng Đông chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc.

16
Sông Đà có nguồn gốc rõ ràng: “Nó khai khai sinh ở huyện Cảnh Đông
tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc lấy tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi
đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam trưởng thành mãi lên và
đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng” [11, 76]. Nói về con sông
mà nghe như nói về con người: nào khai sinh, nào xin phép nhập quốc tịch, nào
trưởng thành Ngôn ngữ học cho rằng đó là nhân hóa, kì thực đó là nghệ thuật
nhân hóa, coi con sông có đời sống, có tính cách có cá tính rất độc đáo.
Ngoài các yếu tố địa lí, con sông còn có các yếu tố lịch sử. Thời xưa, nhà
Trần lấy sông Đà đặt tên trong 15 lộ cho cả nước. Đà Giang lộ. Chính vì vậy mà
“Truyền kì mạn lục” có truyện Đà Giang dạ ẩm thuộc bối cảnh đời Hồ cuối đời
Trần. Đà Giang lộ là vùng đất từ Hưng Hóa trở lên. Bây giờ ta gọi đó là vùng
Tây Bắc, từ Lai Châu xuôi về Hòa Bình, nối nhau bằng “sợi dây thừng” (chữ
của Nguyễn Tuân) khổng lồ là sông Đà, nếu nhìn từ máy bay xuống.
Sông Đà còn có yếu tố cách mạng. Con sông trước tiên là một nguồn
sống. Miếng nước, con cá, con đường biết đi, lưu vực phù xa, cơn gió mát mùa
hè, nơi tụ họp đầu tiên để lập nghiệp thành tộc này dân nọ là ven các bờ sông.
Nhiều nền văn minh bắt nguồn từ những dòng sông. Con sông là trời sinh,
nhưng con sông cũng do con người góp phần tạo nên bằng công sức mình. Lịch
sử dù biến thiên, sông Đà vẫn là của dân xứ Tây Bắc nước Việt. Nó dữ, nó hiền
là một chuyện, nhưng con người vẫn ăn ở đời đời kiếp kiếp với nó. Không nói
chuyện quá xưa, chỉ nhắc lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, người dân xứ Thái
này đã cùng nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích (tuần phủ Hưng
Hóa) chiến đấu đến cùng và trong thơ nhật kí hành quân của ông đã có bao

nhiêu tên đất tên nước thuộc vùng sông Đà. Tiếp theo đó là thời thực dân Pháp
cai trị với đủ bọn lang đạo địa chủ quan tham độc ác: “Con sông bị chúa đất
từng vùng đem cắt ngang ra thành khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm! Đế quốc
đóng đồn bót ven sông, tính dữ ác của con sông lại tăng thêm mấy lần” [11, 77].
Tuy vậy người xứ Thái không chịu rời sông. Dù chưa nghe nói đến cách
mạng mà mấy trăm thanh niên chèo đoàn thuyền hàng trăm chiếc xuôi về Hà
Nội chở thóc lên Hòa Bình cho Tây đã không chịu được cảnh mưa trên nguồn
dội xuống đầu, gió sông tát vào mặt kể ra không thấm gì với những lời chửi
mắng của bọn quan và lính áp tải, nên một buổi chiều sông Đà nổi sóng, cá sông
Đà quẫy mạnh, họ nhất loạt rút cọc chèo, bơi chèo giải quyết nhanh cái trung đội
đi giải tù ấy. Người lái đò Quỳnh Nhai kể như vậy rồi tiếc: “Bây giờ thỉnh
thoảng đi chở hàng mậu dịch cho chính phủ vẫn gặp lại một số anh em cũ của
cái đêm mưa bão đi trốn khỏi cái bến Tà Bú ấy” [11, 79]… Mười lăm năm đã

17
qua đi trên sông Đà, con sông Đà quê hương ngày nay rất khác trước rồi… Đoàn
chuyên ra ta và chuyên ra bạn đi nghiên cứu sông Đà, để rồi trị con sông dữ tợn
này, bắt nó phải phục vụ cuộc sống Tây Bắc. Từ đó tới nay đã trên 20 năm.
Công trình thủy điện Hòa Bình đã xong. Con sông Đà đã được chặn lại để làm ra
điện. Hồ dài hàng trăm ki lô mét là khu du lịch, là nơi nuôi cá, là đường giao
thông thuận lợi, không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc dù rất
hào hùng như thủa xưa.
Năm 1958, nhìn thấy đoàn chuyên gia nước bạn khảo sát sông Đà Nguyễn
Tuân nổi hứng muốn làm một cán bộ thông tin để ghé “khắp các bến lớn bến
nhỏ ở bờ bên phải, ở bờ bên trái Sông Đà mà chuyển đi cái mới ngồn ngộn sức
sống này” [11, 81]. Niềm vui ấy không riêng cho một ai, mà cho tất cả nhân dân
Tây Bắc nhân dân cả nước. Nó hết sức lớn lao vì nó mang rất nhiều ý nghĩa.
Người lái đò sông Đà tuyên bố: “Chợ Bờ, cái biên giới thủy phận cuối
cùng của đá thác Sông Đà… Từ Chợ Bờ xuôi dòng, hết ghềnh hết thác. Sông Đà
hình như hết cả đậm đà với nhà đò” [11, 62]. Như vậy, sông Đà đúng với cái

danh của nó là từ Chợ Bờ trở nên. Phải đúng ba trăm cái thác đá mới là sông Đà.
Để làm chứng cho lời nói của mình và thêm chút mắm muối cho đậm đà, chất
sống, người lái đò già bình thêm. “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác,
nó đến dại tay dại chân và buồn ngủ” [11, 62]. Sông Đà đối với ông giống như
“một thiên anh hùng ca”.
Tạo được một trường anh hùng ca phải là cài gì dữ dội, nguy hiểm cao độ,
khắc phục được phải là thiên tài, tối thiểu là tài ba hiếm có. Phải kiên trì, có khi
liều xông vào chỗ chết để giành lấy sự sống và tất nhiên cuối cùng phải chiến
thắng vẻ vang.
Sông Đà quả là một môi trường như thế. Bản chất nó đã vậy, tài ba của
nhà văn càng làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội
phần. Cây cối, cỏ hoa hai bên bờ, ánh sáng trời trăng, nhà cửa, làng bản ven
sông là nằm trong cảnh quan của sông những cái đó thường hiền hòa, tươi đẹp,
ấm vui. Nhưng trước hết, ta nói đến những nét đặc trưng nhất của sông Đà.
Cát là thứ bình thường nhất. Cát trên sông có hại chăng là khi nó nổi lên
thành gò làm thuyền bị mắc cạn. Có mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nham nhám ấy của
sông Đà làm loét cả da, còn lội nước thì nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như
những vệt hà đục thủng đáy và mạn dưới các thuyền ghỗ. Thế là cát dữ.
Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi nó dựng vách thành “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết
hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con hổ

18
đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện” [11, 69]. Lời văn ở đoạn này dùng những chi tiết chính xác, khoa học xen
lẫn nhận thức của cảm quan tác giả tạo nên cảnh sông Đà khi thì dữ dội, nguy
hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ, khi thì pha chút hóm hỉnh ngầm chứa trong
những nét rất hiện thực như “con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia” tưởng

như lòng sông chỉ còn là cái dải yếm trong ca dao: “Ước gì sông rộng một gang/
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”…
Gió sông Đà cũng đáng sợ. Ở quãng ghềnh Hát Loóng là vương quốc của
gió phối hợp với nước với đá với sóng thành những cơn xoáy. “Lại như quãng
mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” [11, 69]
(nợ xuýt là nợ không có mà cũng đòi) mà không đòi được thì bắt người lái đò và
lật ngửa bụng thuyền ra.
Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không gì dáng sợ bằng “cái hút
nước”. Chắc tên gọi này không phải do tác giả đặt mà là của đồng bào sở tại,
hoặc của những người lái đò trên sông Đà. Nó là chỗ nước xoáy, dòng nước
đương chảy xuôi êm ả, bỗng dưng tới đó cứ xoáy tròn thành vòng rất đẹp rồi
trũng xuống như cái lúm đòng tiền trên đôi môi mấn xinh xinh. Ai ngờ đó là chỗ
nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên dòng nước. Ban trưa thanh vắng ra sông, chỗ
bờ hõm thành vực, thấy những vòng xoáy ấy, trẻ con người lớn đều sợ hãi bởi
đã từng nghe lời đồn đại mê tín rợn gáy là chỗ đó Hà Bá và các vị thủy thần
hoặc bắt người xuống hầu hạ hoặc lấy gỗ xây cung điện dưới thủy cung. Bất
cứ vật gì lọt vào đó là chìm luôn mất tăm. Cái hút nước ở sông Đà được
Nguyễn Tuân miêu tả hiện đại hơn, nó như: “cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ, những cánh quạ
đàn. Không thuyền nào dám men gần, những cái hút nước ấy, thuyền nào qua
cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh
để vụt qua một quãng đường lượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái
cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào” [11, 69]. Tiếng nước ặc ặc ấy có lẽ chỉ sông Đà mới
có. Nguyễn Tuân hay đi tìm cảm giác mạnh cho giác quan, vì vậy những
trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những cuồng phong, bão tố.
“Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin rồi lại như là
khiêu khích, giọng ngằn mà chế nhạo” [11, 70]. Tả đến đây chắc người đọc


19
cũng hình dung ra sự đáng sợ hung dữ của sông Đà như thế nào rồi. Nhưng
vẫn chưa dừng ở đó Nguyễn Tuân còn miêu tả những chi tiết vừa đáng sợ vừa
buồn cười. “những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là bị những cái giếng hút ấy
nó lôi tuột xuống” [11, 69 – 70]. Nếu có chiếc thuyền nào mà đi lạc vào đó thì
“thuyền giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị chìm và đi ngầm dưới lòng
sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới” [11, 69 – 70].
Nghe sông Đà mà mường tượng hơi văn bài “Thục đạo nan” của Lí Bạch:
“Núi trùng điệp cách trời không đầy gang tấc
Thông khô treo ngược trên vách đá cheo leo
Suối bay thác đổ tiếng ầm ầm xen nhau
Đá chuyển đập sườn non như sấm đổ muôn vàn hang hốc”
Thiên nhiên chuyển động hùng vĩ dữ dội vô cùng. Cái đáng sợ nhất của
sông Đà chưa phải là những cái đó mà là đá và thác. Thác và đá bày thạch trận,
hay nói đúng hơn, thạch thủy trận. Nguyễn Tuân dụng ý trình bày một chiến trận
như kiểu Bát Trận Đồ của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô, mà Khổng
Minh sáng tạo lại cố nhiên có pha chút hiện đại. Không có Long Xà Trận nhưng
có Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Không đủ Bát Trận nhưng
có trận trước, trận sau, trận trên, trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến có tiên phong,
có dự bị… Không có tướng trấn cửa, những Ngụy Diên, Mã Siêu, Quang Hưng,
Trương Bào nhưng cón những tướng đá, quân nước. Đá thì “ngàn năm vẫn mai
phục hết lòng sông… có chiếc thuyền nào xuất hiện… là một số hòn bèn nhổm
cả dậy để vồ lấy… Mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào trông cũng
nhăn nhúm, méo mó” [11, 71]. Tưởng chừng như chúng nằm ngồi rải rác, tùy
tiện, nhưng không phải. “Hình như sông giao việc cho mỗi hòn, sông bày
Thạch Trận” [11, 71]. Đá được phân công hẳn hoi, chia làm ba hàng chặn
ngang trên sông. “Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một của đá trông như là sơ
hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,
vào tận tuyến giữa rồi nước, sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi hồi lại”

[11, 71]. Nếu thuyền không chịu chìm mà cứ tiến lên thì một thế trận khác lại
bày sẵn. Tướng đá ở đây “oai phong lẫm liệt”. Một tướng đá như đang hất
hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một tướng khác
“lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào” [11, 71].
Nhưng các tuyến của thạch trận đều bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng nhử
được thuyền. Cuối cùng, “cái thằng đá tướng đứng chắn ở cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” [11, 72]. Tưởng đâu như khép vào tội trong
binh pháp: quân thua chém tướng.

20
Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên độc đáo, nó mang nét riêng của Nguyễn
Tuân cộng thêm đó là ngòi bút tài hoa và lãng tử của ông thì từng lời, từng chữ
được nhà văn cân nhắc, trau chuốt kỹ lưỡng và công phu. Nếu chỉ có óc quan
sát, có cảm xúc không thôi mà không có kiến thức sâu rộng và tài viết thì không
thể nào có được những áng văn miêu tả độc đáo và gợi cảm đến thế.
Hết đá đến nước, quân nước.
Nước vốn êm dịu nhưng khi kết hợp với đá, với gió thì nước trở nên hung dữ.
Nước sông Đà vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở ngược chỉ lắng nghe tiếng kêu của
nước cũng đã thấy ghê. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy nước
réo gần mãi lại, réo to mãi lên… Lúc nghe như là oán trách gì, rồi lại như là
van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó giống lên
như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”
[11, 70 – 71]. Tới giữa thác thì một đằng đá chặn, một đằng “sóng luồng nhằm
thuyền mà đánh vu hồi” [11, 71], đồng thời “reo hò làm thanh viện”. Có lúc “nó
reo như đun sôi lên một trăm độ, muốn hắt cái thuyền đang phải đóng vai một
cái nắp ấm, một ấm nước sôi khổng lồ” [11, 69]. Nhưng không đâu cái tiếng
nước nghe lạ như ở những cái hút nước “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” [11,
69]. Tiếng nước đã sợ, sức nước còn đáng sợ hơn. Mặt sông cũng có ổ gà. Đi
vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồi lên. Chỗ thác, sông có nhiều luồng.
Có luồng đi lầm vào thì chết ngay, có luồng đi vào đúng luồng rồi nhưng mà

không trúng tim luồng thì vẫn có thể là thập tử nhất sinh như thường. Ở những
chỗ khác, “nước có thể đội thuyền lên, bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng
lái đò đòi lật ngửa ông lái đò cho phơi bụng giữa trận nước vang trời thanh la
não bạt” [11, 72]. Nước đã thành võ sĩ thực thụ. Nó “đánh đến miếng đòn hiểm
độc nhất: bó chặt hạ bộ người lái đò…” [11, 72]. Bây giờ thì nó là con ngựa bất
kham đang “tế mạnh trên sông đá”. Ông lái “nắm chặt lấy được cái bờm sóng…
ghì cương lái… phóng nhanh vào cửa sinh” [11, 72]. Nước đành chịu thua
nhưng đến chỗ cái hút nó rình sẵn, thuyền nào lơ mơ là nó rút luôn tận đáy,
không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ.
Sông Đà giữ quả không sai với tiếng đồn. Cát giữ, bờ giữ, gió giữ, hút nước
giữ, tập trung cái giữ là những Thạch Trận, đá nước hòa bẫy người vào chỗ chết.
Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và cặp mắt thiên lý nhãn của mình để
có hàng loạt những hình ảnh khác nhau nhưng luôn luôn đắc sách, vừa có tính trí
tuệ vừa có tính tạo hình, vượt lên trên thủ pháp gọi là nhân hóa mà đi vào bản
chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, thành những trang viết biến hóa khôn
lường. Đá dưới sông mà như là dân quân phục kích, là bộ đội giăng hàng bày

×