Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Bài thu hoạch diễn án hồ sơ hành chính 15 Bùi Quang Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.57 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
I. TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN...................................................................................3
II.

XÁC ĐỊNH CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỐ TỤNG.......................................4

2.1. Đối tượng khởi kiện........................................................................................4
2.2. Đương sự trong vụ án.....................................................................................4
2.3. Yêu cầu khởi kiện...........................................................................................5
2.4. Thời hiện khởi kiện.........................................................................................5
2.5. Thẩm quyền giải quyết vụ án..........................................................................5
III.

KẾ HOẠCH HỎI...............................................................................................6

3.1. Hỏi người khởi kiện........................................................................................6
3.2. Hỏi người bị kiện............................................................................................6
IV.

BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN.............................................6

V. NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN...........................................................................11

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
UBND: Ủy ban nhân dân
TADN: Tòa án nhân dân
HĐXX: Hội đồng xét xử


2


I. TĨM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN
Ơng Bùi Quang Hải (sinh năm 1971) và vợ là bà Đặng Thị Kim (sinh năm
1981) cùng địa chỉ 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A hiện đang quản lý và
sử dụng diện tích đất 156,7 m² tại địa chỉ 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A.
Thông tin thừa đất cụ thể như sau: Phần diện tích 102,0 m² thuộc thửa đất số 351, tờ
bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000) đã được UBND thành phố A cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với với đất số BM 625400
ngày 11/1/2013. Phần diện tích 54,7 m² thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 09 (bản
đồ năm 2000). Trên đất có dãy nhà cấp bốn do ơng Bùi Xn Mĩ (bố ông Bùi Quang
Hải) xây dựng năm 2000.
Ngày 14/06/2016, ông Bùi Quang Hải và bà Nguyễn Thị Kim nộp hồ sơ xin
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản khác gắn
liền với phần diện tích đất 54,7 m² đất ở căn nhà số 179/8/1 Trần Phú, phường 5,
thành phố A (“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”) tại bộ phận tiếp nhận và giao
trả kết quả thuộc UBND thành phố A.
Ngày 7/9/2016 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A ban hành
Thông báo số 2728/TB-CNVPĐK kết luật hồ sơ của ông Hải và bà Kim không đủ
điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận.
Vì khơng đồng ý với Thơng báo số 2728/TB-CNVPĐK của Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai thành phố A ngày 7/9/2016 nên ông Hài và bà Kim đã khởi
kiện vụ án hành chính tại TAND thành phố A. Ngày 9/12/2017 TAND thành phố A
ra bản án sơ thẩm, sau đó ơng Hải và bà Kim đã kháng cáo. Ngày 05/4/2018 TAND
tỉnh H ra bản án phúc thẩm số 04/2018/HC-PT chấm nhận yêu cầu khởi kiện của
ông Hải và bà Kim và buộc Chi nhánh Văn phịng đăng ký đất đai nhận lại hồ sơ
của ơng Hải và Bà Kim và giải quyết các thủ tục tiếp theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/4/2018 sau khi có bản án phúc thẩm của TAND tỉnh H, ơng Hải và
bà Kim nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền

với đất tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai, ngày hẹn kết quả là ngày
06/6/2018. Tuy nhiên, đến ngày nhận kết quả theo giấy hẹn, Ông Hải, Bà Kim vẫn
3


chưa nhận được kết quả, nên ông bà đã yêu cầu Chi nhánh Văn phịng Đăng ký đất
đai giải trình nguyên nhân.
Ngày 14/08/2018, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất thành phố A ban hành
văn bản số 4171/CNVPĐK-ĐKCG, giải trình việc đã trình hồ sơ tới Phịng Tài
ngun và Mơi trường và UBND thành phố A vào ngày 02/07/2018 có phiếu
chuyển số 3187/ PC-CNVPĐK.
Ngày 24/8/2018 ông Hải gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố A
và Trường phòng Tài nguyên và môi trường thành phố A khiếu nại về việc chậm
thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 30/01/2019 UBND thành phố A ban hành Văn bản số 504/UBNDTNMT “về việc tạm trả hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại phường 5, thành phố A” theo đó trả
lời cho ông Hải và bà Kim về lý do chậm giải quyết thủ tục cấp Giấy chứng nhận là
do chưa có quy định của pháp luật và đang trong thời gian chờ ý kiến hướng dẫn của
Tổng cục quản lý đất đai.
Ngày 18/3/2019 UBND thành phố A đã ban hành Công văn số 1126/UBNDTNMT về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải phường 5 đề nghị
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc do lấn chiếm “Biển”, theo đó
UBND thành phố A trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ do vướng mắc trong việc áp dụng
quy định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp Giấy chứng nhận quyển sử dụng đất theo quy
định.
Ngày 04/04/2019, không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND
thành phố A, ông Hải và bà Kim đã nộp đơn khởi kiện đến TAND Tỉnh H, yêu cầu
giải quyết:
+ Hủy toàn bộ Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của
UBND thành phố A và Công văn số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của

UBND thành phố A;

4


+ Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp Giấy
chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với phần
đất có diện tích 54,7 m² thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000)
phường 5, thành phố A theo quy định của pháp luật.
Ngày 21/10/2019, TAND tỉnh H đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
13x/2019/QĐXXST-HC.
II. XÁC ĐỊNH CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỐ TỤNG
II.1.

Đối tượng khởi kiện
Đối tượng khởi kiện trong vụ án này là Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày

30/01/2019 của UBND thành phố A và Công văn số 1126/UBND-TNMT ngày
18/3/2019 của UBND thành phố A.
Căn cứ vào khoản 2 điều 3 luật TTHC năm 2015 thì xác định Văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A và Công văn số 1126/
UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A xác định hai văn bản trên là
quyết định hành chính bị kiện bởi lẽ hai Văn bản này do UBND thành phố A ban
hành, liên quan đến vấn đề trong lĩnh vực đất đai đối đối với ông Hải và bà Kim là
người nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất. Hai quyết định này đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của ơng Hải và bà Kim vì hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cả hai ông bà bị trả
lại.
II.2.


Đương sự trong vụ án
Người khởi kiện: Ông Bùi Quang Hải sinh năm 1971; bà Đặng Thị Kim sinh

năm 1981, cùng địa chỉ: 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A. Người đại diện
theo ủy quyền: Ông Trần Quốc Chinh, sinh năm 1965; Địa chỉ: 64/1/a Nguyễn Hới,
phường Nguyễn An Ninh, thành phố A.
Ơng Hải và bà Kim có đầy đủ năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng
lực hành vi tố tụng hành chính của đương sự tại Điều 54 Luật TTHC 2015. Văn bản
5


số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A và Công văn số
1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A được ban hành bởi cơ
quan hành chính nhà nước là UBND thành phố A với các nội dung: “Tạm trả hồ sơ
đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất” và “Giải quyết đơn của ông Bùi Quang Hải, Phường 5 đề
nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc do lần chiếm “Biển””.
Đây là các nội dung ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Hải và bà
Kim, làm kéo dài thời gian trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
gia đình ơng Hải, bà Kim. Do đó, ơng Hải và bà Kim có quyền khởi kiện vụ án hành
chính theo quy định tại Khoản 8 Điều 3, Điều 5 và Điều 115 Luật TTHC 2015.
Người bị kiện: UBND thành phố A, địa chỉ: 89 Lý Thường Kiệt, phường 1,
thành phố A, tỉnh H. Người đại diện theo ủy quyền: ơng Nguyễn Thế Khang –
chun viên Phịng TN&MT thành phố A. UBND thành phố A là cơ quan ban hành
Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Công văn số 1126/UBNDTNMT ngày 18/3/2019 ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của ơng
Hải và bà Kim.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Sở Tài nguyên và Môi trường,
Tổng cục quản lý đất đai. Căn cứ khoản 10 Điều 3 LTTHC 2015, việc UBND thành
phố A ban hành Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành

phố A về việc tạm trả hồ sơ là do chưa có văn bản hướng dẫn, trả lời của Sở Tài
nguyên và Môi trường và của Tổng cục Quản lý đất đai. Văn bản số 504/UBNDTNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A bị khởi kiện nên Sở Tài Nguyên
và Môi trường và Tổng Cục Quản lý đất đai được xác định là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
II.3.

Yêu cầu khởi kiện
Ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh H

giải quyết các vấn đề sau
- Hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố
A về việc tạm trả hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
6


và tài sản khác gắn liền với đất tại phường 5, thành phố A và hủy Công văn số 1126/
UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A về việc giải quyết đơn
khiếu nại của ông Bùi Quang Hải phường 5 đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có nguồn gốc do lấn chiếm “Biển”.
- Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn với đất với số diện
tích là 54,7 m² thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5
thành phố A theo quy định của pháp luật.
II.4.

Thời hiện khởi kiện
Theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 116 luật TTHC năm 2015 quy định

thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết
được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc.

Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A
được UBND thành phố A ban hành ngày 30/01/2019, Công văn số 1126/UBNDTNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A được UBND thành phố A ban hành
ngày 18/03/2019. Ngày 04/04/2019 ông Hải và bà Kim nộp đơn khởi kiện đến
TAND tỉnh H. Vì vậy, trường hợp này xác định vẫn trong thời hiệu khởi kiện.
II.5.

Thẩm quyền giải quyết vụ án
Căn cứ quy định điều 32 luật TTHC năm 2015 quy định về thẩm quyền của

Tịa án cấp tỉnh theo đó, tại khoản 4 quy định: “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án”. Trong vụ án này ông Hải
và bà Kim khiếu kiện về 2 văn bản của UBND thành phố A, tỉnh H nên thẩm quyền
giải quyết vụ án sẽ thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh H. Vì vậy, ơng Hải và bà Kim
nộp đơn khởi kiện tại TAND tỉnh H là đúng quy định của pháp luật.
III. KẾ HOẠCH HỎI
III.1.

Hỏi người khởi kiện

7


Mục đích hỏi là để làm rõ những vấn đề trong vụ án, chứng minh diện tích
đất 54,7m² đất đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
1. Ông/bà cho biết ơng/bà sử dụng diện tích đất 54,7m² từ thời điểm nào? Nguồn
gốc của diện tích đất này là từ đâu?
2. Ơng/bà sử dụng diện tích đất 54,7m² với mục đích gì?
3. Trong q trình sử dụng đất ơng bà có xảy ra tranh chấp với ai khơng?

4. Từ thời điểm sử dụng đất đến thời điểm hiện tại ông/bà có nộp đủ tiền thuế sử
dụng đất đối với diện tích đất 54,7m² khơng?
5. Hiện trạng diện tích đất 54,7m² ơng/bà đang sử dụng để làm gì?
6. Trong khoảng thời gian từ ngày 6/6/2018 đến 30/01/2019 ơng/bà có nhận được
thông báo nào của UBND thành phố A không.
III.2.

Hỏi người bị kiện

1. Ông hãy cho biết căn cứ vào đâu để xác định diện tích đất 54,7m² ơng Hải và bà
Kim đang sử dụng là đất lấn biển?
2. Ông hãy cho biết theo Quy hoạch hiện nay thì diện tích đất 54,7m² ông Hải và
bà Kim đang sử dụng là loại đất gì?
3. Ơng hãy cho biết từ trước đến nay UBND thành phố A có nhận được đơn từ yêu
cầu giải quyết tranh chấp đối với diện tích đất 54,7m² ông Hải và bà Kim đang sử
dụng hay không?
4. UBND thành phố A nhận được hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Hài và bà Kim từ
thời điểm nào?
5. Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất của ông Hài và bà Kim đã đầy đủ theo quy định của pháp
luật chưa?
6. Tại sao Giấy tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả hẹn 6/6/2018 cho ông Hải và bà Kim
nhưng quá thời hạn UBND không có kết quả cho ơng Hải và bà Kim?

8


7. UBND thành phố A có nhận được Đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết Giấy
chứng nhận của ông Bùi Quang Hải đề ngày 24/8/2018 không?

IV. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN
Với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện
là ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim, tơi xin trình bày bản luận cứ bảo vệ như
sau:
BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯƠI KHỞI KIỆN
- Kính thưa Hội đồng xét xử!
- Thưa vị đại diện Viện kiểm sát!
- Thưa các Luật sư đồng nghiệp cùng tồn thể q vị đang có mặt tại phiên
tịa ngày hơm nay.
Tơi là Luật sư Vũ Văn Tồn, luật sư của Cơng ty Luật TNHH Quang Huy và
Cộng sự-Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.
Căn cứ vào đơn yêu cầu Luật sư của ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị
Kim và được sự chấp thuận của TAND tỉnh H, ngày hơm nay tơi có mặt tại đây, với
tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ơng Bùi Quang Hải và bà
Đặng Thị Kim là người khởi kiện trong vụ án hành chính sơ thẩm được Tịa án nhân
dân tỉnh H thụ lý số: 47/2019/TLST – HC ngày 18 tháng 04 năm 2019 về việc khởi
kiện: “Quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai”.
Qua nghiên cứu hồ sơ, xem xét tìm hiểu nội dung và qua diễn biến tại phiên
tịa ngày hơm nay. Tơi xin trình bày quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của thân chủ tôi là ông Bùi Quang Hải và bà Đăng Thị Kim. Tại đơn khởi kiện đề
ngày 04/04/2019 gửi TAND tỉnh H đề nghị Tòa án giải quyết 2 yêu cầu là: Hủy Văn
bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A về việc tạm trả
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất tại phường 5, thành phố A và hủy Công văn số 1126/UBND-TNMT
ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông
Bùi Quang Hải phường 5 đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn
9



gốc do lấn chiếm “Biển” và Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ
sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
với đất với số diện tích là 54,7 m² thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 (bản đồ
năm 2000), phường 5 thành phố A theo quy định của pháp luật. Yêu cầu này của
thân chủ tơi là hồn tồn chính đáng và phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi lẽ:
Thứ nhất, diện tích đất 54,7 m² ơng Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim
đang sử dụng đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận vì vậy khơng có căn cứ để
UBND thành phố A “tạm trả” hồ sơ của ông Hải và bà Kim.
Nguồn gốc của phần diện tích đất 54,7 m² ông Hải và bà Kim đang sử dụng
là do ông Phạm Văn Huynh (vợ là bà Trần Thị Đào) địa chỉ tại số 49/5 Trần Phú,
phường 5, Thành phố A sang tên cho ông Bùi Xuân Mĩ và bà Nguyễn Thị Rộ (đã có
xác nhận của chính quyền địa phương) vào ngày 21/3/1993. Ông Bùi Xuân Mĩ và bà
Nguyễn Thị Rộ là bố mẹ của ông Hải. Sau đó, năm 1998 ơng Mĩ tiếp tục khai
hoang, mở rộng thửa đất trên để phơi cá và xây dựng nhà ở, thửa đất trên sau khi
khai hoang thêm có diện tích là 54,7m², nay thuộc thửa số 164 tờ bản đồ số 09. Đến
năm 2000 ông Mỹ và bà Rộ xây nhà trọ trên diện tích đất trên để cho th. Đến năm
2003 thì ơng Bùi Xn Mĩ và bà Nguyễn Thị Rộ cho vợ chồng ông Bùi Quang Hải
và bà Đặng Thị Kim. Ông Hải và Bà Kim đã quản lý và sử dụng diện tích đất trên
và quản lý nhà trọ từ năm 2002 cho đến nay và không xảy ra tranh chấp với ai. Như
vậy, căn cứ khoản 1 điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Xác nhận của UBND
phường 5 (BL 63) xác định ông Hải và bà Kim sử dụng diện tích đất 54,7m² đất ở
định, lâu dài từ năm 2000 và không tranh chấp với ai kể từ thời điểm đó.
Ngồi ra, căn cứ vào Quyết định số 1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của
UBND tỉnh H (BL 39-40); Quyết định 653/QĐ-UBND ngày 02/4/2014 của UBND
tỉnh H (BL 50-58), tại Xác nhận của UBND phường 5 (BL 63) xác định phần diện
tích đất 54,7m² ơng Hải và bà Kim đang sử dụng là đất ở đô thị (ODT). Vì vậy, việc
ơng Hải và bà Kim đang sử dụng diện tích đất nêu trên với mục đích xây nhà trọ cho
thuê là là hoàn toàn phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của UNBD tỉnh H.
10



Mặt khác, cả Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND
thành phố A (BL 8-9) và Xác nhận của UBND phường 5 (BL 63) đều xác nhận diện
tích đất 45,7m² trước đây là sàn phơi cá do ông Bùi Xuân Mĩ cất sàn sử dụng từ
trước năm 1993. Đến năm 1998 ông Mỹ xây kè và đỏ thêm vào và tiếp tục làm nơi
phơi cá. Đến năm 2000 ông Mỹ xây phòng trọ trên đất để cho thuê. Năm 2003 ông
Mỹ sang tên cho ông Hải và bà Kim toàn bọ diện tích đấy trên cùng tồn bộ tài sản
trên đất.
Căn cứ theo quy định tại điều 2 luật Đất đai năm 1987 quy định:
“Nhà nước khuyến khích đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu
khoa học - kỹ thuật vào việc:
- Thâm canh, tăng vụ, nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất;
- Khai hoang, vỡ hoá, lấn biển, phủ xanh đất trống đồi núi trọc để mở rộng diện
tích đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối;
- Bảo vệ, cải tạo đất, làm tăng độ mầu mỡ của đất.”
Căn cứ theo quy định trên thì hành vi lấn biển để làm giàn phơi cá của ông
Mỹ là phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm đó (Luật Đất đai năm 1987).
Đến năm 1998 ông Mĩ xây kè và đổ thêm đất vào làm nền và đến năm 2000 xây nhà
trọ cho thuê trên mnahr đất đã vượt đã làm tăng giá trị sử dụng của mảnh đất. Điều
này là phù hợp theo định tại điều 5 luật đất đai năm 1993. Vì vậy xác định việc ơng
Mỹ lấn biển sau đó xây nhà trên diện tích đất đã lấn là phù hợp với quy định của
pháp luật tại thời điểm đó. Vì vậy xác định hành vi của ơng Mỹ không vi phạm pháp
luật về quản lý đất đai.
Như vậy, từ các phân tích ở trên, áp dụng quy định của pháp luật tại khoản 2
điều 101 luật đất đai năm 2013; khoản 2, khoản 3 điều 22 Nghị định 43/2014/NĐCP xác định diện tích đất 54,7m² ơng Hải và bà Kim đang sử dung đủ điều kiện để
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
11


liền với đất. Vì vậy, UBND thành phố A khơng có căn cứ để “tạm trả” hồ sơ xin cấp

giấy chứng nhận của ông Hải và bà Kim.
Thứ 2, Văn bản số 504/UBND–TNMT ngày 30/1/2019 của UBND thành
phố A đã vi phạm về nội dung và thời gian ban hành.
Theo hồ sơ vụ án, ngày 20/04/2018, sau khi có bản án phúc thẩm, ông Hải
và bà Kim nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố A. Tại Giấy biên nhận hồ
sơ và trả kết quả của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố A đã hẹn
ngày trả kết quả cho ông Hải và bà Kim là ngày 6/6/2019. Tuy nhiên, khi đến ngày
trả kết quả Chi nhánh Văn phịng Đăng ký đất đai thành phố A khơng trả được kết
quả cho ông Hải và bà Kim cũng với đó là khơng có bất kỳ văn bản nào trả lời ông
bà về việc chậm giải quyết hồ sơ. Đến ngày 30/01/2019 thì UBND thành phố A mới
ban hành Văn bản số 504/UBND-TNMT trả lời cho ông Hải và bà Kim về lý do
chậm giải quyết thủ tục cấp Giấy chứng nhận là do chưa có quy định của pháp luật
và đang trong thời gian chờ ý kiến hướng dẫn của Tổng cục quản lý đất đai.
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ – CP, được sửa đổi
bổ sung bởi Khoản 40 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ – CP “a) Đăng ký đất đai, tài
sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày”. Như vậy, UBND thành phố
A đã vi phạm nghiêm trọng thời hạn giải quyết thủ tục hành chính.
Mặt khác, Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND
thành phố A lấy lý do Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật
không quy định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp sử dụng đất có nguồn gốc lấn
chiếm sống hoặc biển nên UBND thành phố A đã có Văn bản số 1133/UBNDTNMT ngày 09/03/2018 xin ý kiến hướng dẫn của Sở Tài nguyên và Môi trường.
Ngày 6/6/2018 Sở Tài ngun và Mơi trường có văn bản số 2847/STNMTCCQLĐĐ đề nghị Tổng cục Quản lý Đất đai xem xét hướng dẫn giải quyết. Lý do
12


này của UBND thành phố A không được coi là căn cứ để chậm giải quyết hồ sơ của
ông Hải và bà Kim. Bỏi lẽ các thủ tục này là thủ tục nội bộ của cơ quan Hành chính

Nhà nước. Trường hợp UBND thành phố A xin ý kiến nhưng khơng được phản hồi
thì phải trả lời ngay cho ơng Hải và bà Kim. Tuy nhiên, từ thời điểm hết thời hạn
giải quyết hồ sơ (6/6/2018) đến trước ngày 30/01/2019 ông Hải và bà Kim hoàn
toàn không nhận được Văn bản nào của UBND thành phố A liên quan đến việc giải
quyết hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận của ông bà.
Hơn nữa, theo quy định của pháp luật hiện hành chỉ tồn tại 02 trường hợp là
“được cấp Giấy chứng nhận’ và “trả hồ sơ” hồn tồn khơng có bất kỳ một quy định
nào về việc “tạm trả” hồ sơ. Vì vậy, từ các phân tích ở trên có thể xác định được
việc UBND thành phố A ban hành Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019
là trái với quy định của pháp luật.
Thứ 3, Công văn số 1126/UBND–TNMT ngày 18/03/2019 UBND thành
phố A được ban hành trái quy định của pháp luật.
Công văn số 1126/UBND–TNMT ngày 18/03/2019 UBND thành phố A đã
vi phạm về hình thức ban hành. Cụ thể: Công văn số 1126/UBND–TNMT ngày
18/03/2019 UBND thành phố A được ban hành để “giải quyết đơn khiếu nại của
ông Bùi Quang Hải phường 5 đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có
nguồn gốc do lấn chiếm “Biển””. Theo quy định tại điều 31 luật Khiếu nại 2011 quy
định người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Cùng với đó theo quy định tại khoản 6 điều 6 luật Khiếu nại 2011 quy định về các
hành vi bị nghiêm cấp thì việc ra quyết định giải quyết khiếu nại khơng bằng hình
thức Quyết định mà bằng Công văn của Chủ tịch UBND thành phố A là trái với quy
định của pháp luật.
Công văn số 1126/UBND–TNMT ngày 18/03/2019 UBND thành phố A đã
vi phạm về thời hạn giải quyết khiếu nại. Cụ thể: Ngày 24/8/2018 ông Hải gửi đơn
khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố A và Trường phòng Tài nguyên và môi
trường thành phố A khiếu nại về việc chậm thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận
13


quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định

của pháp luật ông Hải và bà Kim không nhận được bất ky văn bản nào liên quan đến
việc giải quyết khiếu nại nên ngày 07/01/2019 hai ông bà tiếp tục gửi đơn khiếu nại
đến Chủ tịch UBND thành phố A về việc chậm thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, phải đến ngày 18/03/2019 UBND thành phố A
mới ban hành Công văn số 1126/UBND–TNMT để giải quyết đơn khiếu nại của
ơng Hải và bà Kim. Tính từ ngày ông bà gửi đơn khiếu nại đến khi UBND thành
phố A ra Công văn số 1126/UBND–TNMT là 70 ngày đã vượt quá thời hạn theo
quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 28 Luật Khiếu nại năm 2011, “Thời hạn giải
quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức
tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày
thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không
quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có
thể kéo dài hơn nhưng khơng quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý.”. Như vậy, việc giải
quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành phố A đã vi phạm về thời hạn giải quyết
khiếu nại.
Công văn số 1126/UBND–TNMT ngày 18/03/2019 UBND thành phố A đã
vi phạm về mặt nội dung. Như đã phân tích ở trên diện tích đất 54,7m² ơng Hải và
bà Kim đang sử dụng đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Vì vậy, việc UBND thành phố
A chậm giải quyết hồ sơ của ông Hải và bà Kim với lý do tạm trả lại hồ sơ do vướng
mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp Giấy chứng nhận quyển
sử dụng đất là trái quy định của pháp luật.
Kết luật: Từ những căn cứ nêu trên, đề nghị HĐXX tuyên:
- Hủy toàn bộ Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND
thành phố A “về việc tạm trả hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại phường 5, thành phố
A”.
14



- Hủy tồn bộ Cơng văn số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND
thành phố A “về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải phường
5 đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc do lấn chiếm
“Biển””
- Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn với đất với số
diện tích là 54,7 m² thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000),
phường 5 thành phố A theo quy định của pháp luật.
LUẬT SƯ

V.NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN
.......................................................................................................................................

15


.......................................................................................................................................

16


.......................................................................................................................................

17


.......................................................................................................................................

18



.......................................................................................................................................

19


.......................................................................................................................................

20



×