Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận triết học (khxh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.74 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
TÊN ĐỀ TÀI: PH.ANGGEN NÓI: “SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT, TRIẾT HỌC, TÔN GIÁO, VĂN
HỌC, NGHỆ THUẬT V.V ĐỀU DỰA TRÊN CƠ SỞ SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ. NHƯNG TẤT CẢ CHÚNG ĐỀU
CÓ SỰ ẢNH HƯỞNG LẪN NHAU VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CƠ SỞ KINH TẾ”.

NGÀY 14 THÁNG 3 NĂM 2023

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

TÊN ĐỀ TÀI : PH.ANGGEN NÓI: “SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT, TRIẾT HỌC, TÔN
GIÁO, VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT V.V ĐỀU DỰA
TRÊN CƠ SỞ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. NHƯNG
TẤT CẢ CHÚNG ĐỀU CÓ SỰ ẢNH HƯỞNG LẪN
NHAU VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CƠ SỞ KINH TẾ”.

Giáo viên hướng dẫn:
Người thực hiện:
Mã số sinh viên:
Học phần: Triết học KHXH


NGÀY 14 THÁNG 3 NĂM 2023

2


LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, của đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã vạch ra
con đường phát triển của đất nước: “Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng hồ chí
minh làm nền tảng, tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Với tính chất thời đại
đó, nhóm tiểu luận chúng tôi chọn đề tài: Ph.Ăngghen nói: “Sự phát triển pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn hóa nghệ thuật,...là dựa trên sự phát triển kinh tế, nhưng tất cả
chúng đều tác động với nhau và cùng ảnh hưởng tới cơ sở kinh tế”. Câu nói trên là sự
biểu hiện tập trung của quan điểm duy vật lịch sử, lí luận hình thái kinh tế xã hội,
nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thựơng tầng, tức là toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt thời đại: kinh tế,
chính trị, văn hóa nghệ thuật, xã hội, khoa học...Dựa trên những kết quả nghiên cứu về
lí luận và tổng kết quá trình lịch sử đã hình thành học thuyết về hình thái kinh tế xã hội.
Hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những mối quan hệ sản xuất.
Từ những lý luận trên đưa Mác – Anggen đến đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Không chỉ
trên phương diện triết học mà còn cả chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa
học. Dưới hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì
nhận thức của hai ông về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.

3


PHẦN A: MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài:
Tính cấp thiết của đề tài này là thông qua đó, chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn
và khoa học về mối quan hệ giữa chính trị, văn hóa nghệ thuật, xã hội, khoa học...hay
nói chung là các yếu tố xã hội với cơ sở kinh tế. Từ đó giúp ta nhận ra được sự đúng
đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc áp dụng vào thực tiễn nước ta một cách linh
hoạt. Sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh. Với
sinh viên chúng tôi, những người đang phấn đấu học tập, để làm giàu cho đất nước thì
điều đó lại càng ý nghĩa hơn nữa là hiểu rõ bản chất của sự việc (cụ thể ở đây là mối
quan hệ tác động qua lại giũa các yếu tố xã hôi với cơ sở kinh tế).
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiêm vụ của mỗi sinh viên khi nghiên cứu đề tài tiểu luận trước tiên là hiểu rõ bản
chất của vấn đề, có nghĩa là trên cơ sở triết học Mác-Lênin, chúng ta phải hiểu được sự
xuất phát của mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, văn hóa nghệ thuật, xã hội, khoa
học...có thế chúng ta mới có thể đi sâu tìm hiểu tường tận, rõ ràng kinh tế chính trị
Mác-Lênin. Từ đó mỗi sinh viên có thể tự thân vận động, làm giàu chính đáng cho bản
thân mình, đóng góp chung vào sự phát triển của đất nước. Việc tiếp theo là xem xét
tình hình thực tiễn tại nước ta cùng với nhiều quốc gia khác trên thế giới: những thành
công, những thất bại, điểm được, điểm không, mặt mạnh, mặt yếu...rút ra khinh nghiệm
cho hiện tại, đồng thời chú trọng cho sự phát triển của tương lai, ưu điểm cần phát huy,
nhược điểm phải loại bỏ. Lí thuyết luôn đi đôi với thực tiễn, mọi quá trình nghiên cứu
đều trở nên vô nghĩa nếu không áp dụng thực tiễn. Từ đó ta sẽ đánh giá đúng bản chất
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam – một nền kinh
tế gần như toàn diện khi đã chú trọng đến sự phát triển của mỗi cá nhân, một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại của nền kinh tế.
Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài này, đòi hỏi mỗi sinh viên phải vận dụng toàn bộ sự chủ động của
mình để tìm hiểu thông tin, xử lí thông tin và rút ra kết luận cuối cùng. Tránh những
suy nghĩ sai lệch, phiếm diện, siêu hình. Nên nhìn nhận trên cơ sở thực tiễn các quốc
gia và tại Việt Nam chúng ta. Từ đó rút ra được đặc trưng của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng.


4


PHẦN B: NỘI DUNG TIỂU LUẬN
1. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1 Phép biện chứng duy vật là khoa học về các mối quan hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật:
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định bản chất vật chất, tính
thống nhất vật chất của thế giới, mà còn khẳng định các sự vật hiện tượng trong thế
giới luôn tồn tại trong sự liên hệ, trong sự vận động và phát triển không ngừng theo
những quy luật vốn có của nó. Làm sáng tỏ những vấn đề đó là nội dung cơ bản của
phép biện chứng. Chính vì vậy Ph.Ănghen đã khẳng định rằng phép biện chứng là lý
luận về mối quan hệ phổ biến, là môn khoa học về những mối quan hệ phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. V.I.Lênin
nhấn mạnh thêm thêm: “Phép biện chứng là học thuyết sâu sắc nhất, không phiến diện
về sự phát triển”.
Nội dung của phép biện chứng duy vật
Hai nguyên lý cơ bản:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
- Nguyên lý về sự phát triển. Các cặp phạm trù cơ bản: Cái riêng – cái chung, Bản chất
– hiện tượng, Tất nhiên – ngẫu nhiên, Nội dung – hình thức, Nguyên nhân – kết quả,
Khả năng – hiện tượng
Ba quy luật cơ bản :
Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
- Thống nhất và đấu tranh giữa những mặt đối lập.
- Quy luật phủ định của phủ định.
1.2 Một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tuởng biện chứng trong kho tàng lý luận của

nhân loại đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ
XIX (khoa học về các quá trình, về nguồn gốc mối liên hệ và sự phát triển) phép biện
chứng đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng
trong thế giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Khái niệm

5


Liên hệ: là sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong cùng một sự
vật hoặc giữa các sự vật hiện tượng lẫn nhau.
Liên hệ phổ biến: những mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong tự nhiên xã hội
và tư duy. Mối liên hệ phổ biến mang tính chất bao quát, nó tồn tại thông qua những
mối liên hệ đặc thù của sự vật, nó phản ánh tính đa dạng và thống nhất của thế giới.
Nội dung nguyên lý
Triết học Mác khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều nằm trong mối liên
hệ phổ biến, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác
động đến nhau ràng buộc quyết định và chuyển hóa lẫn nhau. Các mối liên hệ trong
tính tổng thể của nó quy định sự vận động, biến đổi của sự vật.
Ý nghĩa của nguyên lý
Cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện:
Trong nhận thức và hoạt động phải xem xét sự vật trong tính toàn vẹn của nhiều
mối liên hệ, nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả các quá trình, các giai đoạn
phát triển của sự vật cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Có như vậy mới nắm được
thực chất của sự vật. Khi tuân thủ nguyên tắc này chủ thể tránh được sai lầm cực đoan
phiến diện một chiều.
Không được đồng nhất và san bằng vai trò của các mối liên hệ của các mặt sự vật. Phải
phản ánh đúng vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ. Phải rút ra được những mối liên
hệ bản chất chủ yếu nhất của sự vật, khi tuân thủ nguyên tắc này con người sẽ tránh
được sai lầm ngụy biện và chiết trung .

Cơ sở khoa học của quan điểm lịch sử cụ thể:
Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất tồn tại vận động phát triển bao giờ cũng
diễn ra trong những hoàn cảnh cụ thể, trong không gian và thời gian xác định.
Điều kiện: không gian và thời gian có ảnh hưởng đến đặc điểm tính chất sự vật. Cùng
là một sự vận nhưng trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ có những tính chất
khác nhau.
Yêu cầu:
Khi nghiên cứu xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong
không gian thời gian xác định mà nó đang tồn tại vận động và phát triển đồng thời phải
phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều kiện hoàn cảnh môi trường đối với sự tồn tại của
sự vật, đối với tính chất của sự vật và đối với xu hướng vận động của nó.
6


Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong thực tiễn cần phải tính đến điều kiện cụ thể
của nơi vận dụng, tránh bệnh giáo điều, dập khuôn, máy móc, chung chung.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
2.1 Các khái niệm
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là
công cụ lao động và những ngừoi lao động với kinh nghiệm và thói quen lao động nhất
định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người phải có những quan hệ, con người
không thể tách khỏi cộng đồng.
2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
2.2.1 Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phù hợp hay không phù hợp
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859 C.Mác viết:
“trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người đã có những mối quan hệ
nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất.
Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản

xuất vật chất của họ...” Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về “quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Các
mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng
quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từ đó
hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực luợng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yếu tố cơ bản
này là gì? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay “sự yên tính” giữa
cách mặt.
- Phù hợp là một xu huớng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng, sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối.
Mâu thuẫn đôi khi là động lực của sự phát triển. Ta biết rằng trong phép biện chứng,
cái tuơng đối không tách khỏi cái tuyệt đối, nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn
xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự
đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong
sản xuất chỉ là là tạm thời, còn không cân bằng, không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối.
7


Chỉ có thể quan niệm đuợc sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý
vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng
nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của lực luợng
sản xuất và quan hệ sản xuất, chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp
giữa chúng. Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát
triển lịch sử lâu dài của mình từ thời kỳ đồ đá đến thời văn minh hiện đại. Nuớc ta đi từ
sự không phù hợp hay lạc hậu từ nền văn minh lúa nước. Tuy nhiên quá trình vận động
và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng
trạng thái phù hợp chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng
giữa lực luợng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ
tiêu được, tức là sự vận động.

Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là quan hệ mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ
là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động, sự mâu thuẫn là vĩnh viễn,
chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển, mới
có thể cho ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế.
2.2.2 Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành
của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ
sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc
của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội
thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa
duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước
chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Nhưng khi thực hiện, người ta đã quên rằng,
sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tùy tiện, con người không thể tự do
tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại, quan hệ
sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản
xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quan hệ
8


sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn
thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, biến đổi của quan hệ sản xuất: lực
lượng sản xuất là cái biến đồi đầu tiên và luôn biến đổi. Trong quá trình sản xuất con
người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc, tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải

tiến công cụ lao động, chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động qui định
sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất khi quan hệ sản xuất không thích ứng với
trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng
sản xuất và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất: Quan hệ sản xuất
khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những
cơ sở và những thể chế xã hội. Nó không thể biến đổi đồng thời với lực lượng sản xuất,
thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ,
tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu lạc
hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lương sản
xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất
và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cái ít hay nhiều mà
người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao
động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản
xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác, phân công lao động
q́c tế.
3. MỚI QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
3.1 Các khái niệm
Cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan đểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật...cùng với thiết chế xã hội tương ứng được hình thành
trên cơ sở hạ tầng nhất định
3.2 Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT

9


Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất

và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không
bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản
phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột. Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa. Vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và
tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân do dân và vì dân. Pháp luật
xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ,
khoa học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội. Thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để là một giai
đoạn lịch sử chuyển tiếp. Cho nên cơ sơ hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu
kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn
kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Bởi vậy công cuộc cải cách kinh
tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu dài, phức tạp
mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa. Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một thuộc địa nửa phong
kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng
ta gặp rất nhiều khó khăn trong qua trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời
kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp
tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân cùng các kiểu quan
hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò,
chức năng, tính chất, lại vựa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung cho nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử
dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh
tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hính thức và
bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản
xuất nhỏ trong các nghành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ti cổ phần phát triển

mạng, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng
10


sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Trong văn kiện hội nghị đại biểu Đảng giữa
nhiệm kỳ khoá 7, Đảng ghi rõ "Phải tập trung đầu tư nguồn vốn nhà nước cho việc xây
dựng cở sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được
chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay,
bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế".
Đồng thời văn kiện Đảng củng ghi rõ: “từ nay tới cuối thập kỷ phải quan tâm tới công
nghiệp hoá hiên đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động
của toàn Đảng, toàn dân. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột. Bởi vậy, trong sự
nghiệp xây dưng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN mang
bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là
người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc vê nhân dân thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ
động của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ: “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do
dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức
làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo
thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục
vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết

mâu thuẩn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố
các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá
độ. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phàn theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành
phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và
11


nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu của cơ sở
kinh tế vừa làm cho nến kinh tế xôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp
trong quá trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng
động, phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách
quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh
tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiên trúc thượng tầng rất phức tạp. Điều quan
trong trước hết là cần sớm hình thành và thống nhất những quan điểm sử lý thiết yếu.
Thứ nhất, cần một phương pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách
"cháy đâu chữa đó" từ đó tìm ra nguyên nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận
chứng có tính khả thi.
Thứ hai, cần theo dõi chặt chẽ, khai thác sàn lọc và xữ lý các loại tín hiệu của nền kinh
tế một cách kịp thời trên cơ sở chủ trương chính sách thích hợp khuyến khích các hoạt
động kinh tế lành mạnh. Đồng thời phải xây dựng một cơ chế điều
hành kinh tế cho phép thâu lượm đánh giá, xữ lý kịp thời mọi tính hiệu kinh tế trong
phạm vi cả nước.
Thứ ba, hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều
hanh tài chính quốc gia từ trung ương đến từ người sản xuất.
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
4.1 Khái niệm
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, bao gồm:

Hoàn cảnh địa lý. Điều kiện dân số. Phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất ra của cải vật chất là nhân tố quyết
định đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng,
quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống v.v. phản ánh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử. Ý thức xã hội bao gồm tâm
lý xã hội và hệ tư tưởng. Đó là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý
thức xã hội. Nó có chung một nguồn gốc là phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có
quan hệ tác động lẫn nhau. Nhưng hệ tư tưởng xã hội không nảy sinh tự phát từ tâm lý
xã hội và không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội. Trong xã hội có giai
cấp ý thức xã hội có tính giai cấp.
12


4.2 Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
4.2.1 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện: tồn tại xã hội
sinh ra ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội; tồn tại xã hội
như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy; mỗi khi tồn tại biến đổi, nhất là phương thức
sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học, nghệ thuật v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, nhưng
không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm lý luận xã hội nào, tác phẩm văn học nghệ thuật
nào cũng nhất thiết trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ xét
đến cùng thì các quan hệ kinh tế mới được phản ánh bằng cách nay hay cách khác vào
trong những tư tưởng đó. Bởi vì ý thức xã hội trong sự phát triển của mình có tính độc
lập tương đối.
4.2.2 Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội
Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội biểu hiện ở những mặt dưới đây:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.

- Ý thức xã hội có tính vượt trước tồn tại xã hội. Đó là những tư tưởng tiến bộ, khoa
học.
- Ý thức xã hội có nhiều hình thái khác nhau, giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn
nhau trong sự phát triển của chúng.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là biểu hiện quan trọng
nhất của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, biểu hiện tập trung vai trò của ý thức
xã hội đối với tồn tại xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng xã hội đối với sự phát
triển xã hội phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó nảy sinh
những tư tưởng nhất định; phụ thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp; giương cao ngọn
cờ tư tưởng đó; phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó đối với các
nhu cầu phát triển của xã hội, phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của tư tưởng đó vào
quần chúng.

13


PHẦN C: KẾT LUẬN
Quan hệ sở hữu XHCN, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là vấn đề thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu lý luận, song ở đây,
vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Chúng ta đều biết khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Awngghen đã phát hiện
ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa của sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm
nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ
đó, các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu, theo quan
điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình lâu dài.
Tuy nhiên, vào kiểu giai đoạn lịch sử đó, các ông chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ
công hữu. Kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất –
quan hệ sở hữu khác tùy thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta

hiện nay trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các
vùng. Có những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động
nhưng cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, khu công nghệ cao.
Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó sở hữu tư liệu sản xuất,
nên chưa thể đặt vấn đề xóa ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến khi trình độ xã hội
hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì
khi ấy mới có điều kiện chín mùi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội không còn
bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức được mà chỉ có thể
thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội
hóa cao độ với năng suất lao động rất cao thì khi đó mới xóa bỏ được chế độ tư hữu.
Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư. Vấn đề bóc lột
hay không bóc lột thể hiện trong quan hệ phân phối. Bình đẳng trong phân phối được
thực hiện dưới những hình thức cụ thể như thế nào là tùy thuộc vào trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đối với đất nước chúng ta, đi lên xã hội chủ nghĩa là con
đường hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta
tiên lên XHCN từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, nên phải trải qua nhiều khâu trung gian (thời kỳ quá độ).
14


Điểm nổi bật là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn lạc hậu...Vì vậy khâu trọng yếu
mà chúng ta phải xây dựng đó là lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen
nhau) là phù hợp với yêu câu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của nước ta hiện
nay. Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa,
nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Minh Quân, Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ănggen, V.I.Lênin và Hồ Chí
Minh, NXB CTQG, 2009.
[2] Trần Dâng Sinh, Lịch sử triết học, NXB VHTT, 2007.

15


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................3
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................4
PHẦN B: NỘI DUNG TIỂU LUẬN.......................................................................5
1. Phép biện chứng duy vật.........................................................5
1.1 Phép biện chứng duy vật là khoa học về các mối quan hệ phổ biến......5
1.2 Một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật.....................5
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN
XUẤT.....................................................................................7
2.1 Các khái niệm....................................................................7
2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX..............................7
2.2.1 Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phù hợp hay không phù hợp..........7
2.2.2 Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.........................................................................8
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG
TẦNG.......................................................................................9
3.1 Các khái niệm....................................................................9
3.2 Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT..............................9
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI…………12
4.1 Khái niệm.........................................................................12
4.2 Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.....................13

4.2.1 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.....................................13
4.2.2 Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội..................... 13
PHẦN C: KẾT LUẬN………………………………………………….14
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................15
6. MỤC LỤC................................................................................16

16



×