Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.42 KB, 22 trang )

Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Lời mở đầu
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao tính thực thi
của các văn bản pháp luật, tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà
nớc ta chủ trơng xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh với
đầy đủ các ngành luật phản ánh tốt hơn đờng lối của Đảng trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Với mục tiêu, động ực chính của
sự phát triển là vì con ngời, do con ngời, đặt con ngời vào vị trí trung tâm, giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy mọitiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao
động và của cả cộng đồng dân tộc; động viên và tạo mọi điều kiện cho mọi
ngời Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cờng, cần kiệm xây dựng tổ quốc, ra
sức làm giàu cho mình và cho đất nớc. Trong đó, mọi ngời đợc tự do kinh
doanh theo pháp luật, đợc bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao
gồm nhiều ngành luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Trong
đó, mỗi ngành luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những
nhóm quan hệ xã hội do một ngành luật điều chỉnh đợc gọi là đối tợng điều
chỉnh của ngành luật đó. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nớc sử dụng
các biện pháp tác động khác nhau hớng cho các quan hệ xã hội đó phát sinh,
thay đổi chấm dứt phù hợp với ý chí của Nhà nớc. Phơng pháp tác động của
Nhà nớc lên các quan hệ xã hội có những đặc thù khác nhau phụ thuộc vào
các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật. Luật dân sự là một ngành
luật đợc hình thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển của Nhà nớc và pháp
luật. Các nhà nớc luôn luôn chú trọng hoàn thiện luật dân sự vì tính phổ biến
và vai trò quan trọng của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Với t
cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của Nhà nớc ta, luật
dân sự có đối tợng điều chỉnh là những nhóm quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân. Tạo cơ sở và hành lang pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực
sản xuất, bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội. Bộ luật dân sự quy định các
chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể trong giao lu dân sự nhằm
bảo đảm sự ổn định, lành mạnh các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển


phát triển kinh tế hàng hóa.
Với t cách là một đạo luật lớn nhất, kết luận của Bộ Chính trị khẳng định:
Việc ban hành Bộ luật Dân sự là một bớc đổi mới chính trị quan trọng. Sau
Hiến pháp, Bộ luật Dân sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp
luật của nớc ta, có liên quan mật thiết đến mọi mặt của đời sống thờng ngày
1
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
của của ngời dân thì giá trị pháp lý cần đợc xác định nh thế nào. Theo thông
lệ và tập quán quốc tế thì Bộ luật Dân sự phải đợc u tiên áp dụng để giải quyết
tranh chấp, dù trong hệ thống pháp thực định còn có những quy định tơng tự
nhng hiệu lực pháp lý thấp hơn. Đây cũng là yêu cầu quan trọng của pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
2
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Chơng I: Hệ thống luật Dân sự và nguồn của luật Dân sự.
A.Hệ thống của luật Dân sự.
Luật Dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh các quan
hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Các quy phạm pháp luật này hợp thành những
nhóm quan hệ tơng đối đồng nhất đó đợc gọi là chế định trong luật dân sự.
Những chế định lớn( quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế) đợc phân
chia thành các chế định nhỏ hơn. Các chế định đều phải tuân theo các quy
định ở phần chung và mỗi chế định của phần riêng có những quy định chung
xuyên suốt phần riêng đó.
Căn cứ vào cách sắp xếp truyền thống và đợc thể hiện trong Bộ luật Dân sự,
khoa học luật dân sự sắp xếp luật dân sự thành hai phần lớn: Phần chung và
phần riêng.
Phần chung: Bao gồm những quy phạm chung nhất xuyên suốt toàn bộ hệ
thống pháp luật dân sự, quy định những nguyên tắc, nhiệm vụ của luật dân sự,
chủ thể, địa vị pháp lý của chủ thể, các căn cứ xác lập, thay đổi , chấm dứt
quyền dân sự, thời hạn, thời hiệu.

Phần riêng: Dựa theo các nhóm quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh, căn cứ
vào khách thể của quan hệ dân sự- luật dân sự đợc chia thành các chế định lớn
tơng ứng. Trong các chế định lớn này có phần chung và chỉ áp dụng cho riêng
phần đó. Hiện nay, luật dân sự Việt Nam hình thành các chế định lớn sau đây:
+ Chế định quyền sở hữu: Đây là chế định trung tâm, quan trọng nhất không
chỉ riêng cho luật dân sự mà cho cả hệ thống pháp luật nói chung. Trong đó,
quy định các hình thức sở hữu; đối tợng của quyền sở hữu; các căn cứ phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu; nội dung quyền sở hữu và các biện
pháp bảo vệ quyền sở hữu, đồng thời cũng quy định những hạn chế đối với
chủ sở hữu trong việc thực hiện các quyền năng quyền sở hữu.
+Chế định nghĩa vụ và hợp đồng: Đây là chế định lớn nhất trong luật dân sự-
là chế định dẫn xuất của chế định quyền sở hữu gồm các quy định liên quan
đến nghĩa vụ và các căn cứ phát sinh nghĩa vụ quân sự- chế định lớn này đợc
chia thành các chế định nhỏ: Những quy định chung về nghĩa vụ dân sự, căn
cứ phát sinh nghĩa vụ nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự
và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; Hợp đồng dân sự thông
dụng( mua bán, thuê tài sản); Chế định thực hiện công việc không có uỷ
quyền; Chế định đợc lợi về tài sản không có căn cứ hợp pháp; Chế định trách
3
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
nhiệm dân sự do gây thiệt hại quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm do gây
thiệt hại và một số trờng hợp riêng biệt của trách nhiệm do gây thiệt hại.
+Chế định quyền thừa kế: Bao gồm các quy định về trình tự dịch chuyển di
sản của ngời chết cho những ngời còn sống, việc dịch chuyển di sản theo di
chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
+Chế định chuyển quyền sử dụng đất: Quy định trình tự, điều kiện dịch
chuyển quyền sử dụng đất.
+Chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ: Quy định về việc
xác lập quyền của mỗi cá nhân đối với kết quả sáng tạo tinh thần nh: tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, các đối tợng của sở hữu công nghiệp

và việc chuyển giao các đối tợng đó.
B.Nguồn của luật dân sự .
Nguồn của pháp luật nói chung đã đợc nghiên cứu kỹ, chi tiết trong chơng
trình lý luận chung về Nhà nớc và pháp luật. Về mặt xã hội học, nguồn của
pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đa lên thành luật mà nội dung đợc xác
định bởi các điều kiện chính trị, kinh tế tồn tại trong xã hội cần thiết phải điều
chỉnh bằng pháp luật và với phơng thức nào là do giai cấp thống trị, thông qua
hoạt động lập pháp của Nhà nớc quyết định.
Mỗi ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định các cách thức
xử sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai
cấp thống trị. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay-Đảng là lực lợng lãnh
đạo Nhà nớc và xã hội
(1)
là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự thể chế hoá đờng lối của
Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đờng lối, chủ trơng của Đảng đợc các
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền thể chế hóa bằng quá trình lập pháp. Bởi
vậy, chấn chỉnh bộ máy theo hớng tinh, gọn, có đủ năng lực thể chế hoá của
Đảng thành pháp luật là nhiệm vụ cấp bách của quá trình lập pháp của nớc ta
để đảm bảo quản lý nhà nớc bằng pháp luật mà không chỉ bằng đạo lý.
Nguồn của luật dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật( hình
thức của pháp luật) do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ và các quan hệ nhân thân. Một văn bản
đợc coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng đợc những yêu cầu sau: Văn
bản do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành; Chứa đựng các quy phạm
pháp luật dân sự; Phải ban hành theo trình tự, thủ tục do luật quy định.
(1)
Điều 4 Hiến Pháp 1992.
4
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam

*áp dụng luật dân sự.
Luật dân sự là hệ thống các quy phạm. Các quy phạm này là những hình mẫu
để các chủ thể khi hành xử phải tuân theo. Đó là các chuẩn mực ứng xử của
chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự. Nhng việc thực thi pháp luật; việc tuân
theo các chuẩn mực ứng xử đó khi tham gia vào các quan hệ dân sự phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: Vào bản thân nội dung các quy phạm pháp
luật đó. Nó thực sự phù hợp và phản ánh đúng các điều kiện kinh tế trong xã
hội đó hay không; Vào ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia, vào các ý
thức pháp luật của xã hội nói chung; Vào việc áp dụng pháp luật của cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền. Tự bản thân các quy phạm không thể sống nếu
không đợc áp dụng trong thực tế cuộc sống. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật
dân sự trong cuộc sống là hết sức quan trọng để biến các quy phạm pháp luật
trở thành công cụ thực sự, tích cực điều chỉnh các quan hệ xã hội. áp dụng
luật dân sự là những hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền căn
cứ vào những sự kiện thực tế đó để đa ra quyết định phù hợp với thực tế và
những quy phạm của pháp luật. Những quyết định đợc cơ quan có thẩm quyền
đa ra có thể là: Công nhận hay bác bỏ một quyền dân sự nào đó đối với một
chủ thể( quyền sở hữu, quyền thừa kế, quyền đòi nợ); Xác lập một nghĩa vụ
cho một chủ thể nhất định ( bồi thờng thiệt hại, trả nợ, giao vật, trả tiền, chấm
dứt hành vi vi phạm); áp dụng các biên pháp cỡng chế cần thiết để bảo vệ
quyền, lợi ích của các chủ thể khác, của Nhà nớc(tịch thu tài sản, phạt vi
phạm, quyết định bán đấu giá).
5
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Chơng II: Nhìn nhận về Bộ luật dân sự trên thực tế.
I.Một số vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.
1.Thực trạng tổ chức và thi hành án dân sự.
Về hệ thống pháp luật, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật về thi hành án nói chung, hệ thống các văn bản pháp luật về thi hành án
dân sự đã đợc xây dựng tơng đối hoàn chỉnh, tạo cơ sở vững chắc cho việc

quản lý cũng nh tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự( điển hình là
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, hệ thống các Nghị định và văn bản
hớng dẫn thi hành)
Về cơ chế quản lý, đã xây dựng đợc một cơ chế quản lý thống nhất đối với
các công tác thi hành án dân sự, tạo điều kiện tơng đối thuận lợi cho việc tổ
chức và hoạt động cũng nh quan hệ với cơ quan hữu quan, giúp cho việc tập
trung đến mức tối đa đầu t cơ sở vật chất phơng tiện làm việc và cả con ngời
cho hoạt động thi hành án dân sự. Cơ chế quản lý theo ngành kết hợp quản lý
theo lãnh thổ, có sự phân cấp quản lý rõ ràng cùng cơ chế phối hợp quản lý đã
hình thành một cơ chế quản lý chung tơng đối hiệu quả và phù hợp, giúp cho
hoạt động thi hành án dân sự đợc triển khai đồng bộ, thống nhất trong cả nớc,
đồng thời, góp phần tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng địa phơng.
Việc giao cho Bộ t pháp giúp Chính phủ quản lý thống nhất về mặt tổ chức và
nghiệp vụ thi hành án đã giúp cho việc quản lý đội ngũ chấp hành viên và cán
bộ thi hành án đợc chặt chẽ hơn từ khâu tuyển dụng cán bộ đến việc theo dõi
quá trình công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức chấp hành viên, tạo
ra một quy chế thống nhất, khách quan.
Về cơ cấu tổ chức cơ quan thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân
sự đợc thành lập từ Trung ơng đến địa phơng. ở Bộ t pháp có Cục quản lý thi
hành án dân sự. ở cấp tỉnh có Phòng thi hành án dân sự thuộc Sở T pháp bao
gồm chấp hành viên trởng( trởng phòng), các chấp hành viên cấp phòng, các
cán bộ làm công tác thi hành án. ở cấp huyện có Đội thi hành án thuộc Phòng
T Pháp cũng bao gồm chấp hành viên trởng ( đội trởng), các chấp hành viên
cấp Đội và các cán bộ làm công tác thi hành án. Cơ quan thi hành án trong
quân đội là các Phòng thi hành án các quân khu và các cấp tơng đơng. Việc tổ
chức các cơ quan thi hành án theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý nhà nớc đối với công tác thi hành án,
đồng thời cũng luôn gắn với sự chỉ đạo kịp thời của cấp uỷ đảng chính quyền
địa phơng, sự phối hợp của các cơ quan cùng cấp trong việc tổ chức thi hành
6

Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
án. Kết quả hoạt động thi hành án dân sự trong 10 năm qua đã chứng minh
tính u điểm của cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động vào việc khôi phục và bảo
vệ quyền lợi của Nhà nớc, các cơ quan, tổ chức và công dân, tăng cờng pháp
chế xã hôi chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rằng: công tác thi hành
án dân sự hiện nay cha đáp ứng đợc quá trình phát triển kinh tế- xã hội đất nớc
khi các quan hệ xã hội phát sinh trong điều kiện kinh tế thị trờng ngày càng
mở rộng, phong phú và đa dạng.
2.Những hạn chế trong công tác thi hành án dân sự hiện nay.
Thứ nhất, các quy định pháp luật thi hành án dân sự: Pháp lệnh Thi hành án
dân sự đợc ban hành từ năm 1993 đến nay đã bộc lộ khá nhiều điểm hạn chế
cần bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện, điển hình là về phạm vi áp dụng, các quy
định về thủ tục thi hành án, nh chủ động thi hành theo đơn yêu cầu thi hành
án, quy định về trả lại đơn yêu cầu, về chế định uỷ thác trong thi hành án; về
các biện pháp cỡng chế trong thi hành án; các biện pháp kê biên, xử lý tài sản
của cơ quan, tổ chức, các quyền sở hữu trí tuệ, về xác minh tài sản và thời hạn
xác minh để thi hành án, các quy định về bán đấu giá, các quy định về hoãn ,
tạm đình chỉ , đình chỉ, quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, về kháng
nghị trong thi hành án, về thi hành án có yếu tố nớc ngoài Đặc biệt pháp luật
thi hành án hiện hành cha quy định rõ trách nhiệm của cơ quan hữu quan
trong việc giúp đỡ, tạo điều kiện và thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi
hành án, các chấp hành viên; hình thức, chế tài trong trờng hợp họ không thực
hiện. Những bất cập trong các quy định pháp luật về thi hành án và các quy
định pháp luật về nội dung có liên quan đến thi hành án đã ảnh hởng không
nhỏ đến thi hành án dân sự.
Thứ hai, về cơ chế quản lý thi hành án dân sự: xét cả về lý luận và thực tiễn,
hoạt động thi hành án dân sự mang nhiều nét đặc thù riêng, mặc dù có những
nét nổi trội của hoạt động hành chính t pháp, song về cơ bản nó bị chi phối
mạnh mẽ của quá trình xét xử và các bớc tố tụng. Không ít các trờng hợp do
bản án quyết định không rõ ràng hoặc sự can thiệp, chi phối, thiếu căn cứ của

các bớc tố tụng nh tạm hoãn, kháng nghị, quyết định của cấp giám đốc lật ng-
ợc lại bản án, quyết định theo chiều ngợc lại đã làm ảnh hởng đến việc tổ chức
thi hành án. Hơn nữa, việc thi hành án dân sự còn liên quan đến hoạt động
của nhiều ngành nh Công an, Kiểm sát, Địa chính- Nhà đất, Xây dựng, Tài
chính- Vật giá Bởi vậy, nếu không có cơ chế thích hợp sẽ không tạo đợc điều
kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
7
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Cơ chế quản lý thi hành án dân sự hiện nay còn nhiều bất cập. Cục quản lý
thi hành án dân sự thuộc Bộ T pháp có chức năng giúp Bộ trởng Bộ t pháp,
giúp Chính phủ thực hiện việc quản lý thống nhất đối với công tác thi hành án
dân sự trong cả nớc, quản lý, hớng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ công tác thi hành án
dân sự; thực hiện một số nội dung của quản lý Nhà nớc khác; chỉ đạo, kiểm
tra, tổng kết công tác quản lý công tác thi hành án dân sự ở địa phơng. Tuy
nhiên, việc quản lý Nhà nớc về tổ chức cũng nh nghiệp vụ gặp nhiều vớng
mắc và chồng chéo. Cũng do tổ chức của ngành T pháp không theo nguyên tắc
tập trung thống nhất, nên thực hiện sự quản lý xuống các địa phơng cần phải
có sự kết hợp với các chủ thể quản lý ở địa phơng là Sở T pháp, Phòng T pháp.
Các cơ quan này lại thuộc uỷ ban nhân dân cùng cấp, hởng ngân sách từ địa
phơng. Do vậy, cơ chế phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đôi khi
thiếu hiệu quả, nhiều đầu mối, tầng nấc, ảnh hởng không nhỏ đến hoạt động
tác nghiệp thi hành án. ở các địa phơng chủ thể quản lý là cơ quan chuyên
môn thuộc chính quyền địa phơng, song đối tợng quản lý là các phòng, các
đội thi hành án lại đợc tổ chức theo ngành dọc, hởng ngân sách từ Trung ơng
cả về tổ chức, biên chế và kinh phí hoạt động. Do vậy, không ít trờng hợp các
cơ quan thi hành án qua mặtcơ quan quản lý. Nhiều nơi, Phòng T pháp chỉ
có hai biên chế , ngoài việc phải thực hiện một số hoạt động của công tác t
pháp khác, lại còn phải thực hiện quản lý nhà nớc của đội thi hành án có tổ
chức và biên chế chặt chẽ và chuyên nghiệp từ 7 đến 10 ngời, gần đây một số
Phòng T pháp còn bị sát nhập vào văn phòng UBND cấp huyện, nên việc thực

hiện quản lý Nhà nớc càng khó khăn hơn. Có thể nói, cơ chế quản lý tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay cha phù hợp và hiệu quả, cha xác
định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, dẫn đến chồng chéo, giảm hiệu lực
quản lý nhà nớc. Các nội dung quản lý thể hiện ở mối quan hệ gữa cơ quan
quản lý và cơ quan thi hành án còn nhiều điểm gây khó khăn, vớng mắc cho
hoạt động thi hành án, cha đảm bảo tính chủ động, độc lập, hiệu quả của các
cơ quan thi hành án; cha quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan
các cấp trong phối hợp tổ chức thi hành án. Điều này đã hạn chế rất lớn đến
hiệu lực, hiệu quả của cơ chế thi hành án và hoạt động thi hành án dân sự.
Thứ ba, về cơ cấu tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự: về cơ cấu tổ chức
các cơ quan thi hành án dân sự theo đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện nh hiện
nay phần nào đã tạo đợc một số thuận lợi trong quản lý nhà nớc, có sự quan
tâm chỉ đạo kịp thời của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phơng đối với cơ quan
thi hành án thuộc địa phơng mình. Tuy nhiên, một số địa phơng đặc biệt là cấp
8
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
huyện ở vùng xa, vùng sâu số lợng án phải thi hành hàng năm rất ít, nhng về
tổ chức vẫn phải thành lập Đội thi hành án với đủ biên chế theo quy định.
Trong khi đó, tại các quận huyện, tại các thành phố lớn, số lợng án phải thi
hành nhiều, nhng số không tăng so với quy định dẫn đến tình trạng quá tải, tạo
ra sự mất cân đối giữa các cơ quan thi hành án cùng cấp trong các vùng miền
đất nớc về sự thừa, thiếu cán bộ. Thiết nghĩ, chúng ta cần nghiên cú tới phơng
án tổ chức cơ quan thi hành án theo khu vực, căn cứ theo nhu cầu thực tế công
việc và sự tiện lợi cho nhân dân mà ấn định số lợng biên chế các cán bộ, chứ
không nhất thiết phải tạo ra một khuôn mẫu chung cho tất cả các đơn vị theo
địa giới hành chính.
Thứ t, về đội ngũ chấp hành viên, các tiêu chí đối với chấp hành viên: so với
nhu cầu thực tế công việc, hiện tại số lợng chấp hành viên và cán bộ thi hành
án còn phải bổ sung rất nhiều. Tính đến tháng8/2001, tổng số chấp hành viên
trong cả nớc là 1764 ngời, trong khi đó, tổng biên chế thực tế của các cơ quan

thi hành án là 4200 ngời. Với tình hình số số án phải thi hành ngày một gia
tăng thì bản thân lực lợng chấp hành viên và các cán bộ thi hành án khó có thể
đảm đơng nổi. Năm 2000, tính bình quân mỗi chấp hành viên phải tổ chức thi
hành 248 vụ; con số này chỉ trong 6 tháng đầu năm 2001 đã là 205 vụ. ở các
thành phố lớn nh Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng số vụ việc bình
quân mà mỗi chấp hành viên phải đảm trách tổ chức thi hành gần 700 vụ/năm;
tỉnh có ít vụ việc thì con số cũng lên tới 145 vu việc/năm cho mỗi chấp hành
viên nh Bắc Cạn. Có thể nói, với khối lợng công việc nh trên, cùng với cơ chế
quản lý và phối hợp trong thi hành án cha thật hiệu quả, cơ chế quản lý thu
nhập, quản lý tài sản còn lỏng lẻo, ý thức chấp hành pháp luật của đại bộ phận
quần chúng cha cao, quả là thách thức lớn đối vơi vơ quan thi hành án trong cả
nớc. Hiện tại, Nhà nớc ta đang thực hiện tinh giản biên chế, kiện toàn tổ chức
ở các cơ quan, đặc biệt là cơ quan quản lý hành chính, vì vậy việc tăng biên
chế cho các cơ quan thi hành án là bài toán nan giải, mà phải chú trọng vào
việc cải tiến nề nếp, phơng thức làm việc, tăng cờng sự phối hợp có trách
nhiệm của các cơ quan, ban, ngành đối với việc tổ chức thi hành án. Một số
vấn đề khác nh tiêu chuẩn chấp hành viên, ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức,
phẩm chất, trình độ chuyên môn pháp lý, còn phải chú trọng đào tạo, chế độ,
chính sách đãi ngộ đối với chấp hành viên và cán bộ thi hành án cũng cần phải
đợc xem xét, nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện.
II.Vị trí, vai trò của Bộ luật Dân sự và chủ thể của luật Dân sự.
9
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
*Vị trí, vai trò của Bộ luật Dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam và
nguyên tắc áp dụng.
Trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý trong những năm gần đây đã có
nhiều cuộc hội thảo khoa học bàn về tiêu chí khoa học để phân định ranh giới
giữa hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thơng mại. Do cùng tồn tại
các loại hình hợp đồng khác nhau cùng những tiêu chí pháp lý khác nhau nên
cần phải có sự phân biệt là hợp lý. Liên quan đến vấn đề trên đây là hiệu lực

pháp lý của các văn bản pháp luật. Vì vậy, quan điểm về vấn đề: Cần xác định
lại vị trí của Bộ luật Dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam phải đợc
nghiên cứu và xem xét nghiêm túc.
Trong buổi tọa đàm lần đầu đợc tổ chức tại trụ sở Bộ T pháp vào chiều
ngày15/8/2000 khi bàn về Phơngg pháp luận sửa Bộ luật Dân sự Việt Nam
lúc đó giáo s Akio Morishima (trởng đoàn chuyên gia Nhật Bản giúp Việt
Nam soạn thảo và sửa đổi Bộ luật Dân sự) cũng đã nêu quan điểm: Các nớc
trên thế giới theo xu thế chung không có sự phân biệt hợp đồng dân sự hay
hợp đồng kinh tế. Trong quá trình áp dụng pháp luật, các chủ thể có thể sử
dụng pháp luật khác nhau tuỳ thuộc voà tính chất mục đích và nội dung của
những giao dịch cụ thể để tìm luật áp dụng. Nhng nguyên tắc là nếu Bộ luật
Dân sự đã có quy định, thì trớc hết phải áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự,
Việt Nam phải xác định đợc một vấn đề quan trọng là việc quy định các loại
hình hợp đọng trong Bộ luật Dân sự có ý nghĩa gì? Nguyên tắc tự do trong hợp
đòng cần đợc tôn trọng. Có thể hợp đồng đó trong tơng lai sẽ có những bất
trắc xảy ra nhng không cần phải quy định trớc, nếu có tranh chấp thì trớc hết
phải áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết.
Tuy còn một số ít hạn chế, nhng bộ luật Dân sự năm 1995 là bộ luật có nhiều
tiến bộ vợt bậc so với hệ thống các văn bản quy định về dân sự trớc đây. Lần
đầu tiên nhiều nội dung quan trọng của pháp luật dân sự đã đợc phát triển hóa
một cách có hệ thống, ví dụ nh chế định tài sản và quyền sở hữu, các quy định
về chủ thể của luật dân sự trớc đây, Bộ luật Dân sự đã có những quy định tơng
đối đầy đủ, cụ thể, chi tiết Trong hội thảo thực tiễn 4 năm thi hành luật Dân
sự nhiều ý kiến cho rằng, tuy đã có nhiều quy định cụ thể nhng khi áp dụng
pháp luật trong thực tiễn, Toà án nhân dân hoặc các cơ quan nhà nơc có thẩm
quyền vẫn còn có những khó khăn, vớng mắc, đôi khi hiểu luật còn thiếu sự
thống nhất. Do đó tính chất đặc trng của giao lu dân sự nên Toà án nhân dân
và các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền vẫn áp dụng các văn bản pháp luật có
liên quan để giải quyết các tranh chấp. Trong nhiều trờng hợp phải áp dụng
10

Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
nguyên tắc tại điều 7 Bộ luật Dân sự để giải quyết tranh chấp, đó là sự thoả
thuận trớc của các chủ thể trong khi xác lập giao dịch dân sự. Đây chính là
nguyên tắc đặc trng nhất của pháp luật Dân sự. Mặc dù trên thực tế và cả dới
góc độ khoa học cũng nh giá trị pháp lý của Bộ luật Dân sự, việc áp dụng các
quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết tranh chấp là đúng đắn và cần thiết.
Nhng đã có không ít lý do vì: Hết thời hiệu hoặc vì không rõ ràng và những
nguyên nhân khác, Toà án nhân dân và các cơ quan của nhà nớc có thẩm
quyền mới áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự. Đây là một điều có thể
xem là không bình thờng trong một xã hội Nhà nớc- pháp quyền.
Trong lần sửa đổi này, vấn đề xác định đợc vị trí, hiệu lực pháp lý của Bộ luật
Dân sự trong hệ thống pháp luật cần phải đợc xem xét cụ thể và là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng nhất. Hiện nay ở Việt Nam không phân chia hệ thống pháp
luật thành: luật công và luật t nh hệ thống pháp luật một số nớc trên thế giới,
nên việc xác định vị trí và nguyên tắc áp dụng cần phải đợc khẳng định ngay
trong Bộ luật Dân sự để tạo ra sự thuận lợi cho việc áp dụng của các cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lu dân sự phát triển
đúng hớng trong một hành lang pháp lý an toàn. Tham khảo luật pháp của một
số nớc tôi thấy rằng:
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản thì: vấn đề xác định hiệu lực của bộ luật
Dân sự phải đợc xem xét, cân nhắc kỹ lỡng và cần phải đợc quy định cụ thể
trong bộ luật. Trong sách bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản có ghi
nhận: Pháp luật dân sự có hiệu lực đối với tất cả các mối quan hệ thuộc pháp
luật dân sự
(1)
.
Trong Bộ luật Dân sự của nớc Cộng hoà Pháp, ngay Thiên mở đầu quy định
về hiệu lực của luật và áp dụng luật, tại Điều 3 quy định: Mọi bất động sản,
ngay cả do ngời nớc ngoài chiếm hữu đều chịu sự chi phối của pháp luật nớc
Pháp. Những luật liên quan đến quy chế nhân thân và năng lực con ngời chi

phối cả những Pháp c trú ở nớc ngoài
(2)
.
Theo Bộ luật Dân sự và Thơng mại Thái Lan, trong tiêu đề những quy định
chung tại Điều4 có quy định: Bộ luật này phải đợc áp dụng trong tất cả các
trờng hợp thuộc phạm vi câu chữ hoặc tinh thần của bất cứ quy định nào của
Bộ luật. Nếu không có quy định nào của bộ luật có thể áp dụng thì vụ việc đợc
quyết định theo tập quán địa phơng. Nếu không có tập quán địa phơng nào nh
vậy, thì vụ việc đợc quyết định bằng cách áp dụng quy định tơng tự nhất; và,
(1)
Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 1995.
(2)
Bộ luật Dân sự của nớc Cộng hoà Pháp, bản dịch của NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, năm 1998, Điều3
11
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
nếu cũng không có quy định tơng tự thì áp dụng những quy tắc chung của
pháp luật
(3)
.
Luật hợp đồng của nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cũng quy định tại
Điều 2: Hợp đồng gọi trong luật này là sự thoả thuận, thiết lập, thay đổi, kết
thúc quan hệ quyền lợi nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên
nhân, pháp nhân, các tổ chức khác. Các thoả thuận liên quan đến quan hệ thân
phận nh hôn nhân, nhận nuôi, giám hộ Thích dụng với quy định của các luật
khác. Điều 428 Luật trên quy định: Luật này thi hành từ ngày 1/10/1999,
các luật hợp đồng kinh tế nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Luật hợp đồng
kinh tế đối ngoại nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Luật hợp đồng kỹ thuật
nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đồng thời phế bỏ
(4)
.

Qua việc tham khảo trên chúng tôi thấy rằng, việc áp dụng pháp luật nh
thông lệ sẽ đợc thực hiện theo nguyên tắc: nếu do tính chất đặc thù( về chủ
thể, nội dung đặc biệt có luật riêng quy định cụ thể) hoặc do trong Bộ luật
Dân sự không có quy định, thì mới áp dụng các văn bản pháp luật khác( còn
gọi là luật đặc biệt) hoặc có thể áp dụng tập quán, áp dụng tơng tự để giải
quyết. Theo nguyên tắc chung là tất cả các trờng hợp( không phân biệt theo
tiêu chí chủ thể, mục đích trong giao dịch) nếu Bộ luật Dân sự đã quy định thì
nhất thiết các quy định của Bộ luật Dân sự phải đợc áp dụng.
Theo báo cáo tổng thuật trình bày tại Hội thảo, thì trong Bộ luật Dân sự
nhiều quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn với Luật kinh tế, Luật thơng mại.
Trong lý luận pháp lý tại Việt Nam hiện nay vẫn có xu hớng thiên về xây dựng
những ngành luật này( và thực tế vẫn đang tồn tại Luật kinh tế, Luật Thơng
mại) song song tồn tại cùng luật Dân sự, gây khó khăn cho công tác lập pháp
và áp dụng pháp luật, nhất là quy định về hợp đồng. Thực tế trên đây đã gây ra
tình trạng tranh chấp áp dụng pháp luật trong thực tiễn tại các cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền; việc giải thích áp dụng luật cũng thiếu thống nhất vì thiếu tiêu
chí khoa học phân biệt cụ thể ; Bộ luật Dân sự cha thể hiện đợc những yếu tố
mới trong điều kiện phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế thị trờng VN,
theo yêu cầu xu thế hội nhập, còn thiếu những văn bản pháp luật theo quy
định của Bộ luật Dân sự cần phải đợc ban hành vì thế làm giảm đi hiệu quả
điều chỉnh của các quy định pháp luật Dân sự trong thực tế. Các chủ thể của
(3)
Bộ luật Dân sự và thơng mại Thái Lan, bản dịch của NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, năm 1995, Điều 4
(4)
Luật hợp đồng nhân dân Trung Hoa đợc Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khoá IX thông qua ngày
15/3/1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1999.( Tài liệu theo bản dịch của Tổ chức hợp tác Quốc tế
JICA của Nhật Bản tại Hà Nội)
12
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Luật Dân sự khi vận dụng, hoặc theo sự hớng dẫn, chỉ dẫn của bộ luật dân sự

cũng gặp không ít khó khăn, vớng mắc.
Chính vì những lý do trên đây nên trong qúa trình sửa đổi Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế ngày 29/9/1989, Ban sửa đổi ( Do Toà án nhân dân tối cao chủ
trì) cũng đã nhận thấy: Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế lần đầu tiên trong hệ
thống pháp luật về hợp đồng nói chung đã có quy định quyền tự do giao kết
hợp đồng( đối với các chủ thể của luật kinh tế trớc đây việc ký kết là kỷ luật
của Nhà nớc nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch và nhiệm vụ đợc giao) đợc quy
định trong một văn bản có hiệu lực pháp lý cao là một sự tiến bộ đáng kể. Nh-
ng trong quá trình áp dụng càng về sau càng bộc lộ những hạn chế. Mặc dù
Ban sửa đổi đã cố gắng và nhiều lần đa ra dự thảo sửa đổi trong những năm
vừa qua, nhng đều không khắc phục đợc những bất cập trong thực tiễn áp
dụng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế. Vì vậy Ban sửa đổi đã
thuyết trình hai phơng án: Một là, đa ra dự thảo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
mới quy định những quan hệ kinh tế đối với các doanh nghiệp nhà nớc, mở
rộng chủ thể áp dụng là các thơng nhân; Hai là áp dụng các quy định chung
của bộ luật Dân sự, còn pháp lệnh Hợp đồng kinh tế chỉ quy định những nội
dung đặc thù của các doanh nghiệp nhà nớc. Nh vậy, xu thế thừa nhận các hợp
đồng phải tuân thủ một nguyên tắc chung đã có những tín hiệu ban đầu.
Đây là những vấn đề mà Ban sửa đổi Bộ luật Dân sự cần có định hớng ngay
trong các dự thảo sửa đổi( Vì liên quan đến hiệu lực áp dụng còn là các hợp
đồng kinh tế).
Nếu phơng án có hiệu lực áp dụng cao nhất của Bộ luật Dân sự đợc chấp
nhận nh thông lệ và tập quán quốc tế, tức là thừa nhận giá trị pháp lý của Bộ
luật Dân sự cao hơn các văn bản pháp luật khác, tôi thấy cần phải có sự bổ
sung nội dung các quy định tại Điều 15 Bộ luật Dân sự. Hiện nay, tại Điều 15
Bộ luật Dân sự hiện hành có 4 khoản, nhng không có điều khoản nào quy định
về vấn đề nguyên tắc áp dụng luật dân sự với các hợp đồng. Vấn đề quan trọng
này tại Chơng I và Chơng II, phần thứ ba Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ dân sự và
hợp đồng dân sự cũng cha quy định và dự liệu. Tôi cho rằng: Đây là vấn đề rất
cấp thiết nhằm bảo đảm nguyên tắc áp dụng pháp luật thống nhất của pháp

chế xã hội chủ nghĩa trong thực thi pháp luật của ngành toà án nhân dân và
các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền cần có quy định cụ thể.
Để khắc phục tình trạng trên đây tôi cho rằng trong dự thảo sửa Bộ luật Dân
sự cần thực hiện theo một trong hai phơng án:
13
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
-Cần có thêm điều khoản bổ sung tại Điều 15, Bộ luật Dân sự nói về nguyên
tắc áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự trong các quan hệ tài sản, quan
hệ nhân thân( không có sự phân biệt giao dịch kinh tế, giao dịch thơng mại)
nh tinh thần đoạn hai Điều 1, Bộ luật Dân sự đã xác định.
Phơng án hai là bổ sung thêm một điều luật riêng biệt về nguyên tắc áp dụng
các quy định của Bộ luật Dân sự đối với các quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân của các chủ thể trong đời sống xã hội, của mọi giao dịch liên quan đến tài
sản trong nền kinh tế và trong thờng nhật hằng ngày của mọi chủ thể của các
thành phần kinh tế khác nhau.
*Vấn đề liên quan đến chủ thể của luật Dân sự.
Theo phơng án chỉ sửa đổi và bổ sung những điểm còn hạn chế tôi chỉ đa ra
phơng án cụ thể mà không phân tích các cơ sở lý luận, thực tế về chủ thể. Đối
với hai loại chủ thể là Hộ gia đình và Tổ hợp tác đề nghị Ban sửa đổi Bộ luật
Dân sự nên xem xét lại có nên để hai loại Chủ thể đặc thù này trong Bộ luật
Dân sự hay không? Trong hệ thống các Bộ luật Dân sự thành văn( thuộc Civil
Law) các nớc trên thế giới quy định hai loại chủ thể truyền thống pháp nhân
và cá nhân. Các quy định liên quan đến hai loại chủ thể đợc coi là đặc thù
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam cha bảo đảm tính khả thi và không có cơ sở để
áp dụng thực tiễn áp dụng pháp luật. Nếu theo phơng án giữ nguyên thì quy
định về đại diện của Hộ gia đình quy định tại Điều 117 cần sửa đổi cho tơng
đồng với quy định tại Điều 445 Bộ luật Dân sự. Một số quy định mà theo quan
điểm của tôi còn có những hạn chế cần sửa đổi, bổ sung là những vấn đề sau
đây.
Khi quy định về năng lực pháp luật Dân sự của các cá nhân, khoản 1 Điều16

chỉ quy định Năng lực pháp luật Dân sự cá nhân là khả năng của cá nhân
có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Theo nguyên lý chung của Luật Dân sự,
năng lực pháp luật của chủ thể có tính chất xã hội và tuỳ thuộc vào từng giai
đoạn lịch sử, điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội mà phạm vi năng lực pháp
luật có thể có những giới hạn khác nhau. Quy định nh trên đây tôi thấy theo
xu hớng không hạn chế và đã gây ra không ít tranh luận về phơng diện lý luận.
Để đảm bảo tính chặt chẽ, vấn đề này cũng cần xác định nội hàm cụ thể. Vì
vậy tôi đề nghị nên theo cụm từ theo quy định của pháp luật vào cuối
khoản 1 mới đảm bảo tính chặt chẽ.
Trong quy định về nơi c trú tại Điều 48 Bộ luật Dân sự cũng tơng tự nh vậy.
Việc xác định nơi c trú và quản lý nhà nớc về nơi c trú hiện nay đang có
14
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
những bất cập. Nhiều vụ việc tranh chấp Toà án đã thụ lý nhng khi xác định
nơi c trú của cá nhân theo nh quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Dân sự đã
không có trong thực tiễn. Cần hiểu rằng với tính chất đặc thù của ngành luật
Dân sự không phải với bất cứ quy định nào cũng phải là luật hoá ý chí của
giai cấp thống trị mà còn chú ý đến đặc trng riêng và tính khả thi của các quy
định. Quy định nh Điều 48 Bộ luật Dân sự đã không bao quát đợc tất cả những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Tôi thấy rằng cần bổ sung thêm quy định
nơi ngời đó thờng xuyên sinh sống và có hộ khẩu thờng trú hoặc đang sinh
sống. Việc mở rộng quy định xác định nơi c trú của cá nhân nh vậy sẽ thuận
lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi tống đạt giấy tờ trong các vụ giải
quyết tranh chấp và theo dõi đợc sự thay đổi nếu đơng sự liên quan đến việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Quy định về giám hộ tại Điều 67 Bộ luật Dân sự nh hiện nay là có sự trùng
lặp. Khoản hai Điều 67 là liệt kê khá chi tiết về ngời đợc giám hộ và thực ra là
cụ thể hoá một số điều luật cụ thể trớc. Vì vậy, tôi đề nghị bỏ đoạn cuối khoản
1 từ chỗ ngời bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không nhận
thức làm chủ đợc hành vi của mình(gọi là ngời đợc giám hộ) bằng cụm từ

theo các quy định từ Điều22 đến Điều25 của Bộ luật này gọi là ngời đợc
giám hộ. Quy định nh vậy vừa chặt chẽ tránh sự liệt kê ( vì xã hội luôn vận
động, biến đổi và thoả thuận cũng ngày càng phong phú, đa dạng nên nếu liệt
kê sẽ không bảo đảm đầy đủ) và bảo đảm nguyên tắc không trùng lặp với
khoản hai của điều luật; bảo đảm sự ngắn gọn của kỹ thuật lập pháp trong một
đạo luật lớn.
Trong quy định về pháp luật Dân sự của pháp nhân tại Điều 96 Bộ luật Dân
sự tôi thấy còn có quy định chung chung, thiếu cụ thể. Đoạn hai, khoản 1,
Điều 96, Bộ luật Dân sự chỉ quy định: pháp nhân phải hoạt động đúng mục
đích; khi thay đổi mục đích hoạt động, thì phải xin phép, đăng ký tại cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền. Vấn đề là căn cứ vào đâu để các cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền xác định đợc mục đích hoạt động của pháp nhân? Nói cách khác
đây chính là giới hạn phạm vi năng lực pháp luật Dân sự của pháp nhân. Sau
khi đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền và cho phép hoạt động, thì điều lệ về
tổ chức và hoạt động của pháp nhân là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định
mục đích hoạt động của pháp nhân có đúng theo sự cho phép của cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền hay không. Nói cách khác đây là căn cứ pháp lý để xác
định năng lực pháp luật cuả pháp nhân đó. Vấn đề này quy định tại đoạn hai
Điều 96, Bộ luật Dân sự còn thiếu cụ thể và có thể có nhiều cách hiểu khác
15
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
nhau để cụ thể hơn phải tạo thuận lợi cho việc vận dụng pháp luật tôi đề nghị
sửa lại là: Pháp nhân phải hoạt động đúng mục đích đợc ghi nhận trong điều
lệ; khi thay đổi mục đích hoạt động, thì phải thay đổi điều lệ, xin phép và
đăng ký tại cơ quan nhà nớc có thẩm quyền
Vấn đề văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân quy định tại Điều 100
Bộ luật Dân sự. Quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân tại
khoản 4 Điều 100 nh Bộ luật Dân sự hiện hành còn thiếu chặt chẽ và thiếu cụ
thể, dễ bị lợi dụng. Điều này đang là thực tiễn hết sức phức tạp trong quá trình
giải quyết các tranh chấp dân sự tại ngành Toà án hiện nay. Liên quan đến sự

phức tạp, đa dạng đó là vấn đề xác định các quyền, nghĩa vụ do văn phòng đại
diện, chi nhánh xác lập thực hiện có phải là quyền, nghĩa vụ của pháp nhân
không. Để bảo đảm tính chặt chẽ của điều luật và cũng là tạo sự thuận tiện cho
các pháp nhân trong các giao dịch dân sự tại các địa điểm khác nhau, tôi đề
nghị sửa khoản 4 Điều 100 nh sau: Văn phòng đại diện, chi nhánh không
phải là pháp nhân. Ngời đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh đợc(hoặc chỉ
đợc) thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi và thời hạn đợc uỷ quyền của pháp
nhân.
Vấn đề đại diện của pháp nhân theo quy định tại khoản 1 Điều102 Bộ luật
Dân sự. Quy định về đại diện của pháp nhân tại khoản 1 là thiếu chặt chẽ và
cha đầy đủ. Trong phần thứ nhất đã dành riêng một chơng quy định riêng về
vấn đề đại diện. Các quy định về chơng này tơng đối chi tiết và cụ thể. Do đó
tôi đề nghị cuối khoản 1 Điều 102, Bộ luật Dân sự cần bổ sung thêm đoạn:
Ngời đại diện của pháp nhân phải tuân theo các quy định về đại diện quy định
tại chơngVI, phần thứ nhất của bộ luật này.
Trong các điều luật quy định về đại diện tôi xin đề nghị bổ sung một số nội
dung nhằm cụ thể hơn các quy định trong các điều luật sau:
Đối với Điều 150 khoản 5: quy định này đã gây nên sự nhầm lẫn trong thực
thi pháp luật nhất là khi các chủ thể trong các giao dịch dân sự vận dụng pháp
luật để xác lập giao dịch dân sự. Quy định nh khoản 5 Điều150, Bộ luật Dân
sự các chủ thể tham gia giao dịch, nhất là giao dịch mua bán nhà chuyển nh-
ợng quyền sử dụng đất đều nhầm lẫn và cho rằng: Chủ hộ( đơng nhiên thờng
là cha mẹ hoặc chỉ là ngời cha) ký vào bản hợp đồng mua bán, chuyển nhợng
là bảo đảm giá trị và sự an toàn pháp lý của giao dịch. Do tính chất đặc biệt
của loại tài sản này nên trong các quy định về mua bán nhà lại có quy định
khác. Tính chất đại diện trong trờng hợp này không còn giá trị pháp lý theo
16
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
nguyên nghĩa nữa. Vì vậy tôi đề nghị bổ sung khoản 5 Điều 150 Bộ luật Dân
sự là: Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình, trừ trờng hợp quy định tại Điều

445 của bộ luật này; Quy định có tính chất hớng dẫn cụ thể này sẽ tránh đợc
sự nhầm lẫn cho các chủ thể khi sử dụng tính chất hớng dẫn của luật trong
việc xác lập các giao dịch dân sự. Trong điều luật phải có phơng pháp loại trừ
để tránh sự hiểu không đúng của pháp luật, gây khó khăn cho toà án khi giải
quyết tranh chấp phải mất thời gian giải thích các quy định cha rõ ràng của
luật.
- Đối với khoản 2 Điều 151 Bộ luật Dân sự. Tơng tự nh trên tôi đề nghị cần
bổ sung thêm đoạn cụ thể sau đây: Việc uỷ quyền phải đợc thành lập thành
văn bản. Trong văn bản uỷ quyền của pháp nhân phải có chữ ký của ngời đứng
đầu pháp nhân và đóng dấu của pháp nhân. Các văn bản uỷ quyền khác phải
đợc uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực.
-Đối với khoản 3 Điều 153, Bộ luật Dân sự. Để tránh sự lợi dụng và về
nguyên tắc các quan hệ pháp luật dân sự phát sinh và tồn tại chỉ trong một thời
hạn nhất định mà không phải là không bị phụ thuộc vào yếu tố thời gian và
tồn tại mãi mãi. Đây cũng là một trong những bằng chứng pháp lý quan trọng
để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đã xác lập có giá trị pháp lý hay không
và để bảo đảm sự chặt chẽ tôi đề nghị thêm cụm từ Và thời hạntrớc chữ đại
diện( từ cuối cùng của khoản 3).

17
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Chơng III: Một số vấn đề về đổi mới tổ chức và thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay.
Từ nghiên cứu khái quát thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự,
rút ra những mặt u điểm và những vấn đề còn tồn tại, cho thấy, muốn nâng
cao hiệu quả hoạt động của công tác này, thì yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt
động của thi hành án dân sự đã đến độ chín muồi. Tuy nhiên, cũng cần phải
nhìn nhận rằng, đặt vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của thi hành án dân
sự phải thực hiện đồng bộ và năm trong chiến lợc đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án nói chung ở Việt Nam.

Về mặt chủ trơng, các Nghị quyết của Đảng, Chỉ thị của Thủ tớng Chính
phủ về nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự đã định hớng để chúng
ta kiếm tìm những giải pháp thực sự có hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên, về lộ
trình đổi mới, nhát thiết phải diễn ra từng bớc, phù hợp yêu cầu và điều kiện
thực tế của sự phát triển khách quan đời sống kinh tế- chính trị- văn hóa xã
hội đất nớc. Bởi vậy, để khắc phục những tồn tại hiện nay, từng bớc đổi mới
tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự đáp ứng các yêu cầu trớc mắt cũng
nh lâu dài, chúng ta cần xây dựng các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vớng mắc
trớc mắt, định hớng về các giải pháp cơ bản, đồng bộ, lâu dài có thể phù hợp,
khả thi cho các giai đoạn tiếp theo. Để khắc phục những điểm còn tồn tại,
nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, trớc mắt chúng ta cần tập trung giải
quyết tốt một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Thi hành án dân sự và các văn bản
pháp luật hớng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật có liên quan đến công
tác thi hành án dân sự: Việc sửa đổi, bổ sung cần tập trung vào các quy định
về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thi hành án, nâng cao trách
nhiệm của cơ quan thi hành án, xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính
quyền địa phơng, trách nhiệm của cơ quan hữu quan, các cấp trong việc tổ
chức thi hành án dân sự; các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án nhằm
tháo gỡ khó khăn, bất cập; bổ sung các quy định nhằm đáp ứng tính đặc thù
của các loại án đợc thi hành theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Sửa đổi,
bổ sung các quy định pháp luật hớng dẫn thi hành án và có liên quan đến thi
hành án tạo ra sự đồng bộ cho việc áp dụng pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy tăng cờng đội ngũ cán bộ cho cơ
quan thi hành án, hoàn thiện đổi mới cơ chế quản lý thi hành án dân sự: trớc
hết, cần bổ sung đủ biên chế về cán bộ, kiện toàn đội ngũ chấp hành viên, cán
18
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
bộ thi hành án ở các cơ quan thi hành án các cấp. Không ngừng trau dồi, giáo
dục về phẩm chất đạo đức chấp hành viên, cán bộ thi hành án. Có kế hoạch

bồi dỡng đào tạo kỹ năng tác nghiệp, trình độ chuyên môn cho chấp hành
viên và cán bộ thi hành án. Bổ sung đầy đủ các trang thiết bị làm việc cũng
nh kinh phí hoạt động nghiệp vụ cho cơ quan thi hành án. Về cơ chế quản lý,
cần đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý nhà nớc về thi hành án, giảm đầu mối
và những hoạt động thanh tra, kiểm tra mang tính hình thức kém hiệu quả,
tránh can thiệp quá sâuvào hoạt động nghiệp vụ thi hành án, tăng cờng tính
chủ động, sáng tạo của cơ quan thi hành án. Củng cố và đẩy mạnh mối quan
hệ phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự.
Thứ ba, đề cao vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp: hiện nay,
Ban Chỉ đạo thi hành án các cấp ở các địa phơng giữ vai trò quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Sự hoạt động tích cực của các ban
chỉ đạo thi hành án đã phản ánh sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo kịp thời của cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phơng các cấp, đồng thời, thể hiện rõ tinh thần
trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thực hiện thi hành
án. Cơ quan thi hành án các cấp cần tranh thủ triệt để về yếu tố tích cực này
và không ngừng đề cao vai trò của ban chỉ đạo thi hành án nhằm giải quyết
tích cực các vụ án còn tồn đọng phức tạp, lâu năm, có nhiều vớng mắc, chủ
động lập kế hoạch, đề xuất phối hợp để tổ chức thi hành án đạt hiệu quả cao.
Thứ t, có các giải pháp hữu hiệu để giải quyết án tồn đọng nh: Thực hiện
phân loại án; có kế hoạch cụ thể đề xuất lên Ban Chỉ đạo thi hành án các cấp;
tích cực hoà giải giữa các đơng sự; giáo dục thuyết phục nhằm nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của các đối tợng phải thi hành án, đề cao vai trò của
Uỷ ban nhân dân xã, phờng, thị trấn trong việc giải quyết các vụ án tồn đọng
ít phức tạp.
Thứ năm, thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi hành án
dân sự. khắc phục tình trạng trì trệ, quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà cho
dân. Tăng cờng công tác kiểm tra, thanh tra hiệu quả nhằm kịp thời khắc
phục những thiếu sót và sai lầm trong việc tổ chức thi hành án.
Các giải pháp có tính đồng bộ, cơ bản, lâu dài về đổi mới tổ chức thi hành
án dân sự ở Việt Nam cần đáp ứng các yêu cầu sau đây:

Một là, đổi mới công tác đổi mới công tác thi hành án dân sự cần đặt trong
tổng thể đổi mới công tác thi hành án nói chung, phù hợp với chiến lợc về
phát triển kinh tế- xã hội, công cuộc cải cách t pháp, cải cách bộ máy nhà n-
19
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
ớc, cải cách thủ tục hành chính, tiến tới xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Việc đổi mới thi hành án dân sự và hoạt động thi hành
án dân sự là nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của nó, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho Nhà nớc, xã hội và mọi công dân từ đó thúc đẩy kinh tế, xã hội
ngày càng phát triển. Đổi mới thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói
riêng hiện đang đợc Đảng và Nhà nớc coi là nhiệm vụ trọng tâm của cải cách
t pháp. Kết quả của quá trình tố tụng, của giai đoạn xét xử có đợc thực hiện
trên thực tế hay không đều phụ thuộc vào hiệu quả của thi hành án. Hơn nữa,
trình độ, thủ tục thi hành án cũng trải qua rất nhiều khâu, nhiều bớc, nếu thực
hiện đơn giản, nhanh chóng và hiệu quả chính là yêu cầu của cải cách thủ tục
hành chính. Bên cạnh đó, yêu cầu của cải cách bộ máy nhà nớc chính là việc
làm cho nó hoạt động trơn tru, hiệu quả, điều này đòi hỏi ở sự đổi mới cơ chế
quản lý và hoạt động thi hàng án, tạo ra sự phù hợp, không làm phát sinh mâu
thuẫn, chồng chéo, bất cập. Các yếu tố trên đây chính là mục đích hớng tới
của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Các nguyên
tắc cơ bản của Nhà nớc pháp quyền cũng đang đặt ra những đòi hỏi mà một
trong số đó là tôn trọng sự tối thợng của pháp luật, tôn trọng và bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây cũng là những yêu cầu đặt ra
đối với các công tác thi hành án , khi yếu tố quyết định hiệu quả thi hành án
phụ thuộc ý thức chấp hành và tôn trọng pháp luật của mọi tổ chức, cơ quan
nhà nớc và mọi công dân. Qua đó, việc thi hành án sẽ đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho họ, đồng thời bản thân việc thi hành án cũng phải đợc thực
hiện bình đẳng, dân chủ và công bằng. Những yêu cầu trên đây đồng thời
cũng là quan điểm chủ đạo khi thực hiện đổi mới công tác thi hành án dân sự.
Hai là, đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự cần quán triệt chủ

trơng của Đảng qua các Nghị quyết các kỳ đại hội VII,VIII, IX, Nghị quyết
của Hội nghị Trung ơng 8( khoá VII) theo hớng thu gọn đầu mối, xây dựng
mô hình quản lý thống nhất. Xét trên thực trạng cơ chế quản lý và tổ chức
hoạt động thi hành án nói chung, thi hành án dân sự hiện nay đã và đang phát
sinh vô số những mâu thuẫn chồng chéo và bất cập, điển hình là cơ chế quản
lý, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý thi hành án hình sự và cơ quan thi hành
án dân sự. Chính những bất cập này không những làm giảm hiệu lực quản lý
nhà nớc, mà còn ảnh hởng không nhỏ tới hiệu quả của việc thi hành án. Để
khắc phục tình trạng này, chúng ta cần xây dựng một mô hình quản lý thống
nhất, theo ngành dọc, tập trung ở một đầu mối. Tuy nhiên, cũng cần chuẩn bị
chu đáo về những bớc đi đặc biệt là cần có sự đổi mới nhận thức, t duy và
20
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
hành động khi tiếp cận cơ chế mới. Mô hình quản lý thống nhất cần tạo ra sự
đồng bộ từ Trung ơng đến địa phơng, phân tích rõ chức năng quản lý nhà nớc
và hoạt động tác nghiệp chuyên môn thi hành án, xây dựng cơ chế phối hợp
đồng bộ, quy định rõ trách nhiệm của các bên và hớng tới mục đích đảm bảo
cho việc thi hành án đạt hiệu quả cao.
Ba là, đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự sao cho đáp ứng nhu
cầu phát triển đa dạng của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, củng cố và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực chất của việc xây dựng nhà nớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là nhằm tạo ra phơng thức tổ chức
thực hiện quyền lực Nhà nớc đạt hiệu quả, gắn với việc xây dựng một xã hội
công dân bình đẳng, công bằng, dân chủ, bác ái. Tuy nhiên, trong điều kiện
kinh tế thị trờng , khi các quan hệ giao lu kinh tế phát triển phong phú, đa
dạng bị chi phối bởi các quy luật kinh tế và mục đích, lợi ích việc định hớng
nhằm ổn định các cơ quan xã hội này thuộc về hiệu quả của cơ chế điều chỉnh
pháp luật, mà công tác thi hành án dân sự giữ vai trò là một thành tố quan
trọng quyết định trong việc phục hồi trật tự xã hội, trật tự pháp luật bị phá vỡ.

Bởi vậy, công tác thi hành án dân sự phải đợc tổ chức hợp lý, hoạt động hiệu
quả mới đủ sức làm bình ổn các quan hệ xã hội góp phần bảo đảm dân chủ,
bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho mọi chủ thể trong xã hội. Việc củng cố, mở
rộng dân chủ trong thi hành án còn thể hiện ở khía cạnh mọi cấp, mọi ngành,
mọi công dân đều phải nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật,
giúp cho việc tác nghiệp thi hành án thực sự đạt hiệu quả.
Bốn là, đảm bảo hiệu lực pháp luật thực sự của bản án, quyết định của Toà
án đợc thực thi trên thực tế. Đảm bảo để các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án nhân dân phát sinh hiêu lực thực tế trong đời sống xã hội
chính là mục đích hớng tới của công tác thi hành án dân sự. Để thực hiện đợc
mục đích này phụ thuộc rất nhiều yếu tố, đó là: Cơ chế quản lý, cơ chế tổ chc
bộ máy, đội ngũ cán bộ chấp hành viên, trình độ thủ tục hợp lý, sự quan tâm
của chính quyền các cấp, tinh thần trách nhiệm của của các cơ quan tổ chức
có liên quan, ý thức chấp hành pháp luật và tôn trọng pháp luật của công dân,
các điều kiện về kinh tế, xã hội thực tế Tuy nhiên, về phía cơ quan thi hành
án-ngời trực tiếp thực hiện việc thi hành án cần phải đợc tổ chức đủ mạnh và
quan tâm đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết để họ thực hiện thi hành án
đạt hiệu quả. Đó chính là yếu tố chủ quan mà chúng ta có thể củng cố trực
tiếp. Cùng với nó là việc định ra các thủ tục thi hành đơn giản, hiệu quả, phù
21
Nhìn nhận về bộ luật dân sự của nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
hợp với điều kiện thực tiễn. Chỉ khi chúng ta biết cách phát huy hết sức mạnh
nội tại và vận dụng những điều kiện khách quan, chắc chắn sẽ đẩy mạnh hoạt
động thi hành án dân sự đạt hiệu quả cao.
Mục lục Trang
Lời mở đầu 1
ChơngI: Hệ thống luật dân sự và nguồn của luật dân sự. 3
Chơng II: Nhìn nhận về Bộ luật dân sự trên thực tế. 7
Chơng III: Một số vấn đề về đổi mới và thi hành án dân 22
sự ở Việt Nam hiện nay.

Tài liệu tham khảo:
Giáo trình pháp luật đại cơng- Trờng đại học kinh tế quốc dân( NXB Giáo
dục).
Giáo trình luật dân sự Việt Nam- Trờng đại học luật Hà Nội.
Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật.
22

×