Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận tài chính công: Phân tích chi tiêu công Trường hợp của Lafrasia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.21 KB, 26 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





MÔN TÀI CHÍNH CÔNG

Đề tài:






Giáo viên hướng dẫn:
TS. Nguyễn Hồng Thắng
Học viên thực hiện: (Nhóm 09)
1. Lê Thị Vân Anh
2. Lê Thị Hồng Minh
3. Ngô Thị Thùy Trang
4. Đinh Thị Trang
5. Phạm Thị Cẩm Tú
6. Lê Thụy Tứ

Lớp:
Cao học Ngân Hàng Đêm 2 –


Khóa:
16





Tp.Hồ Chí Minh, tháng 01/2008







PHẦN 1: B ài dịch “Phân tích chi tiêu công - Trường hợp của Lafrasia” 1

1. GIỚI THIỆU 2
2. KHU VỰC CÔNG 4
3. CÁC KHU VỰC KINH TẾ: NÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP 11
4. LĨNH VỰC XÃ HỘI: GIÁO DỤC VÀ SỨC KHỎE 13
5. CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC SỞ HỮU NHÀ NƯỚC 17


PHẦN 2: Trả lời câu hỏi 19




Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng


Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
1



PHẦN 1



Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
2

PHÂN TÍCH CHI TIÊU CÔNG
TRUỜNG HỢP CỦA LAFRASIA
Bài nghiên cứu về Lafrasia, một quốc gia được hư cấu, là một sự kết hợp các vấn đề mà
các quốc gia đang phát triển phải đối mặt trong phân tích chi tiêu công. Hai mục tiêu
chính của nghiên cứu này:
 Nêu ra sự cảnh báo cho những người hoạt động trong khu vực công về các vấn đề
khó khăn phải đối mặt của một quốc gia đang phát triển tiêu biểu
 Giúp họ hình thành và phát triển giải pháp khả thi cho những vấn đề này.
Nghiên cứu được thực hiện năm 1989. Sau khi đọc bài viết này, các nhà hoạt động trong
khu vực công có thể thảo luận về vấn đề nảy sinh trong tiến trình đưa ra quyết định chi
tiêu công ở một quốc gia vốn đang phải đối mặt với các vấn đề tương tự như Lafarsia.
1. GIỚI THIỆU
Lịch sử và địa lý
Lafrasia là một quốc gia thuộc địa cũ, mới giành được độc lập từ sau chiến tranh thế giới
2. Trong suốt khoảng thời gian là thuộc địa, quốc gia này đã tạo dựng được một hệ thống

dịch vụ công được tổ chức tốt, cơ sở hạ tầng phát triển và một hệ thống giáo dục công
rộng khắp. Tuy nhiên, ba mươi năm dưới chế độ độc tài quân sự sau đó đã tàn phá tất cả
những thành quả này. Hệ thống dịch vụ công trở nên dư thừa nhân viên và hoạt động kém
hiệu quả, cơ sở hạ tầng xuống cấp do không được duy tu, sửa chữa; hệ thống giáo dục
đầy rẫy những vấn đề M ột thập kỷ trở lại đây, một chính phủ dân chủ thay thế chính
phủ độc tài dân sự và đang cố gắng xây dựng lại cơ sở hạ tầng cũng như tập trung lại
những ưu tiên của chính phủ.
Lafrasia là một quốc gia nhiệt đới. 25% diện tích quốc gia là núi, phần còn lại là sự đan
xen của rừng và nông trang. Coca được trồng trên núi. Lafrasia có khoảng 300 dặm bờ
biển và một cảng biển sâu. Các hòn đảo gần thành phố bờ biển BahiaLinda thu hút một
lượng khách du lịch vừa phải. Nguồn năng lượng chính của quốc gia này là thủy điện,
cùng với một chút than đá, toàn bộ xăng dầu và khí ga tự nhiên đều nhập khẩu.
Dân số
Dân số của Lafrasia vào khoảng 40 triệu người, 7 triệu trong số họ sinh sống ở thủ đô, là
tỉnh lớn nhất trong số 5 tỉnh thành, chiếm 40% dân số của cả nước; 8 triệu khác sống ở
mười thành phố nhỏ hơn; phần dân số còn lại sống trong những ngôi làng với dân số từ
vài trăm đến vài ngàn người. Các tỉnh miền núi có mật độ dân số thưa thớt nhất. Trung
bình chỉ có 250.000 người sống rải rác trên một diện tích 7.000 dặm vuông. 23% dân số
của Lafrasia sống dưới mức trung bình. Vẫn có nhiều người sinh sống ở các làng quê
nông thôn, nhưng tỷ lệ di cư đến thành phố đang tăng dần, nơi mà họ sống trong những
căn nhà lụp xụp tồi tàn và kiếm sống bằng những việc làm thời vụ, bấp bênh, không đòi
hỏi kỹ năng.
Chỉ số xã hội
Lafrasia là quốc gia có mức thu nhập trung bình dưới mức trung bình, một số chỉ tiêu xã
hội thể hiện sự không đáp ứng những nhu cầu tối tiểu về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, và
những dịch vụ khác. Bảng 1-1 liệt kê một số chỉ số xã hội của Lafrasia và nhóm những
quốc gia tương đồng với mức thu nhập tương đương trong cùng khu vực.
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16

3

Bảng 1-1. Chỉ số kinh tế xã hội của Lafrasia và các quốc gia tương đồng 1988-89
Khoản mục Lafrasia
Mức độ trung bình
của các quốc gia
tương đồng
GDP đầu người 750USD

825USD
Tử suất trẻ em 8%

4.5%
Tỷ lệ phụ nữ chết khi sinh 3/1,000

1.2/1,000
Tỷ lệ trẻ 1-3 tuổi được tiêm phòng 58%

87%
Tỷ lệ người lớn nhiễm HIV 10%

11%
Tuổi thọ trung bình (năm) 55

59
Tỷ lệ dân số đi học tiểu học 92%

93%
Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học 40%


72%
Tỷ lệ người lớn mù chữ 27%

22%
Tỷ lệ hộ gia đình có đồ dùng bằng điện

35%

25%
Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại 6.4%

9.2%
An ninh quốc phòng
Chính phủ độc tài cũ sử dụng quân đội để giải quyết tất cả những lực lượng chống đối
trong cũng như ngoài nước. Ít nhất một trong những quốc gia láng giềng của lafrasia -
Andaria, có bố trí quân địa phương trên những vùng lân cận với các tỉnh phía nam của
Lafrasia, vì một số lượng lớn dân tộc thiểu số sống ở khu vực này với những rắc rối triền
miên có nguyên nhân từ tôn giáo và xung đột dân tộc. Hiện tại, mặc dù chính phủ là dân
chủ và đa đảng, một số những đảng thiểu số dường như không chống lại những nỗ lực
đảo chính. Chính phủ vẫn muốn duy trì một lực lượng quân đội mạnh như một sự bảo vệ
để chống lại Andaria cũng như những những đe dọa từ bên trong.
Kinh tế vĩ mô
Hệ thống tiền tệ của Lafrasia, đồng peso, đã được sửa đổi vào năm 1985. Giá trị của đồng
peso mới (1 peso mới có giá trị tương đương 100 peso cũ), được định giá là 3 peso/1 đô
la Mỹ. Do hậu quả của lạm phát vẫn tiếp diễn, tỷ giá hối đoái giảm liên tục, đến 1989, tỷ
giá là 7,5peso/1 đôla Mỹ. Thu nhập bình quân đầu người năm 1989 là 750 Đôla Mỹ,
tương đương 5,625 pesos. GDP thực tăng trưởng với 3-4%/năm trong gần suốt những
năm 80, nhưng với tỷ lệ sinh đẻ cao - đặc biệt là vùng nông thôn, thu nhập bình quân đầu
người thực tế chỉ tăng trưởng với tốc độ 1%/năm trong những năm cuối thập kỷ 80. Tỷ lệ
lạm phát năm 1988 là 22%, giảm so với mức 41% của năm 1985. Tài khoản thu nhập

quốc gia giai đoạn 1985-1989 thể hiện trong bảng 1.2
Trong những năm 1985-1989, thu nhập trung bình công nhân viên chức chỉ tăng 4%/năm,
khả năng mua sắm thực tế giảm mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị theo ước
đoán là gần 20%. Ở khu vực nông thôn, có một sự không rõ ràng giữa thất nghiệp và có
việc làm, như một minh chứng cho sự di cư đến các trung tâm thành thị. Trong những nỗ
lực giải quyết các vấn đề này, chính phủ đã thuê rất nhiều những người lao động không
có kỹ năng này cho những công việc trình độ thấp, ngay cả khi có rất ít việc cho họ làm.
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
4

Bảng 1-2. Tài khoản thu nhập quốc gia, 1985-89 (triệu peso)
Khoản mục 1985 1986 1987 1988 1989
1989
(triệu USD)
GDP 71,204 99,762

133,982 177,373 225,132 30,018
Tiêu dùng 3,012 83,095

106,473 136,758 164,997 22,000
Chi tiêu chính phủ 14,695 21,307

30,257 41,755 57,621 7,683
Chi thường xuyên 10,906 15,814

22,457 30,990 42,767 5,702
Chi đầu tư 3,788 5,493


7,800 10,764 14,854 1,980
Đầu tư tư nhân 2,422 3,817

5,649 6,597 9,903 1,320
Xuất khẩu 9,991 15,186

21,868 30,396 39,516 5,269
Nhập khẩu -18,916 -23,645

-30,266 -38,135 -46,906 -6,254
GDP trên đầu người 1,959 2,691

3,509 4,545 5,625 750
Dân số (triệu người) 36.3 37.1

38.2 39 40 -
Lạm phát (%) 41 36

30 28 22 -
Tăng trưởng GDP thực trên đầu
người (%)
0.5 1.0

0.3 1.2 1.5 -
2. KHU VỰC CÔNG
Chính quyền trung ương
Chính quyền trung ương gồm quốc hội, thủ tướng và nội các, một chủ tịch nước (tổng
thống) được bầu để tạo sự gắn kết giữa nghĩa vụ hành chính và nghi lễ. Chính quyền
trung ương chịu trách nhiệm về giáo dục ở tất cả các cấp (ngoại trừ cơ sở trường học tiểu
học), quân đội, bệnh viện và trung tâm y tế, trường y, hầu hết đường cao tốc, hệ thống

luật và cảnh sát, đối ngoại, công viên công cộng và bảo tàng, ngân hàng TW, hệ thống
bảo hiểm xã hội, giám sát hệ thống thương mại và ngân hàng, nghiên cứu và phát triển
nông nghiệp, điều hành hệ thống tài chính, công nghiệp và nông nghiệp.
Năm đại học công được phân bố mỗi tỉnh một trường, cũng được đầu tư từ chính phủ.
Thủ phủ mỗi tỉnh cũng có các học viện kỹ thuật. Tất cả các trường học ở cấp dưới cấp 2
đều được đầu tư từ nguồn vốn tư nhân. Chính quyền trung ương quản lý một số doanh
nghiệp nhà nước bao gồm hệ thống sân bay và vận tải hàng không, cảng, hệ thống cấp
điện, phân phối và xử lý nước, bưu điện, xe bus và vài nhà máy xi măng. Đóng vai trò là
người quản lý thuế chủ đạo nên chính quyền trung ương giám sát việc thi hành chính sách
thuế của chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương
Các tỉnh không có quyền lực độc lập, họ đóng vai trò là cấp hành chính của chính quyền
trung ương. Chính quyền địa phương tại các thành phố và nông thôn chịu trách nhiệm
phân phối và dự trữ nguồn nước, các trang thiết bị xử lý chất thải (nếu sẵn có) và hệ
thống cống thoát, thu gom rác, vệ sinh đường phố, duy trì pháp luật địa phương, các khu
chợ công, xây dựng và bảo dưỡng trường cấp tiểu học. Nếu nguồn đầu tư cho trung tâm y
tế địa phương cũng như các dịch vụ thiết yếu khác từ chính quyền trung ương không đáp
ứng được nhu cầu thì chính quyền địa phương phải can thiệp để giải quyết. Hội đồng địa
phương nhận nguồn vốn chủ yếu (xấp xỉ 85%) từ chính quyền trung ương), phần vốn bổ
sung còn lại từ các khoản thuế địa phương được phép thu và các khoản phí, lệ phí (15%).
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
5

Các thành phố lớn cung cấp phương tiện vận tải công cộng (chủ yếu là xe bus) và chi phí
bảo dưỡng các công viên thành phố.
Chi tiêu điều hành
Chi tiêu điều hành tính chung cho chính quyền trung ương và địa phương chiếm khoảng
19% GDP. Chính quyền trung ương chi 42.8 tỷ peso mỗi năm, bao gồm cả khoản cấp cho

chính quyền địa phương. Mặc dù nguồn số liệu của chi tiêu và thu địa phương không đầy
đủ nhưng có thể ước lượng rằng tổng nguồn thu địa phương khoảng 77 triệu peso mỗi
năm. Mức độ tổng chi của 2 cấp ở mức thấp hơn một chút so với chuẩn khu vực (20%
GDP). Sự phân bổ nguồn ngân sách cho chi điều hành được liệt kê chi tiết ở bảng 2-1.
Do các cơ quan thống kê chính phủ thường không thể nắm cụ thể được lương từng nhân
công và việc mua các nguồn cung cụ thể của mỗi khu vực nên sự chính xác của số liệu
vẫn là một vấn đề. Mức độ tin cậy của dữ liệu chi tiêu địa phương còn thấp hơn nên chỉ
có số liệu của chính phủ được thể hiện ở đây.
Bảng 2-1. Ngân sách hoạt động của chính phủ, 1988-89
Khoản mục Peso (triệu) %
Dịch vụ công thông thường 9,759

22.4

Quốc phòng 8,725

20.4

Khu vực xã hội 12,702

29.7

Giáo dục 6,843

16.0

Sức khỏe 3,207

7.5


Văn hóa 513

1.2

Dịch vụ xã hội khác 2,138

5.0

Khu vực kinh tế 11,761

27.5

Chi tiêu nông nghiệp và các khoản liên quan 769

1.8

Nước 609

6.1

Điện 6,116

14.3

Vận tải và truyền thông 2,267

5.3

Hàng không 642


1.5

Cảng 427

1.0

Đường sắt và xe bus 385

0.9

Viễn thông 470

1.1

Bảo quản đường sá 342

0.8

TỔNG 42,767

100.0

Chi đầu tư
Đầu tư công ở Lafrasia, bao gồm các dự án được tài trợ từ nguồn vận động, chiếm
khoảng 7%GDP và 60% tổng đầu tư (công và tư) cả nước. M ặc dù số liệu này nghe có vẻ
hợp lý nhưng vẫn cón có sự tranh cãi lớn về sự hợp lý trong việc phân bổ vốn hiện tại
giữa các khu vực và mức cân bằng hợp lý giữa đầu tư công và tư. Sự bảo dưỡng phục hồi
không được chú ý, cụ thể là đối với các tòa nhà công (bao gồm cả trường học), đường xá
và hệ thống tưới tiêu. Thủy điện nhận được tỷ lệ đầu tư rất lớn (43%) bởi thủ tướng cam
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng


Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
6

kết sẽ cung cấp điện đến mỗi hộ gia đình. Các khu vực khác cũng đang rất cần các nguồn
đầu tư đáng kể. Không có dữ liệu về đầu tư của chính quyền địa phương nhưng có thể
biết rằng hầu hết nguồn vốn địa phương đều dùng cho việc bảo dưỡng hơn là đầu tư mới.
Yêu cầu lớn cho các ưu tiên đầu tư là hỗ trợ cho chính quyền địa phương xây trường học
và trung tâm y tế, bảo dưỡng đường xá, trồng cà phê, mở rộng đường sắt, hệ thống cấp
nước và điện tới nhiều khách hàng hơn, bảo dưỡng các toà nhà công, mở rộng hạ tầng sân
bay và cảng. Nhiều dự án hiện tại được thực hiện từ nguồn vốn vận động hơn là việc sử
dụng các nguồn nước ngoài. Kết quả là thành phần của đầu tư công có cả nguồn vận động
tài trợ, bảng 2-2 thể hiện chi tiêu đầu tư khu vực công trong năm 1988-89 bao gồm cả các
dự án có nguồn tài chính tài trợ.
Bảng 2-2. Chi tiêu đầu tư của khu vực công, 1988-89
Khoản mục Peso (triệu) %
Dịch vụ công thông thường 609

4,1

Quốc phòng 1,857

12,5

Khu vực xã hội 2,629

17,7

Giáo dục 1,129


7,6

Sức khỏe 921

6,2

Văn hóa 82

1,9

Dịch vụ xã hội khác 297

2,0

Khu vực kinh tế 9,760

65,7

Chi tiêu nông nghiệp và các khoản liên quan 59

0,4

Nước 1,322

8,9

Điện 9,299

42,4


Vận tải và truyền thông 2,080

14,0

Hàng không 520

3,5

Cảng 327

2,2

Đường sắt và xe bus 297

2,0

Viễn thông 787

5,3

Bảo quản đường sá 149

1,0

TỔNG 14,854

100,0

Chi thường xuyên cho các dự án
Bởi các dự án mới như đường phụ, dự án năng lượng, trung tâm y tế nông thôn, hệ thống

cấp nước, cần được vận hành liên tục, Lafrasia sẽ phải dành một khoản chi tiêu bắt buộc
cho việc bảo dưỡng và điều hành, bao gồm nhân sự, thiết bị và các nguồn cung. Bộ tài
chính (căn cứ trên một nghiên cứu thực hiện bởi một tổ chức phi chính phủ) ước tính rằng
mỗi 100 peso từ ngồn vốn vận động được dùng đầu tư cho một dự án sẽ cần một chi phí
ngân sách hằng năm thường xuyên là 25 peso (tại mức giá cố định) cho điều hành và bảo
dưỡng. Chi tiêu tài chính bắt buộc trong tương lai này mang đến nguy cơ về sự miễn
cưỡng trong việc thực hiện các dự án đầu tư trong nước mới.
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
7

Quản lý ngân sách
Quản lý nguồn lực công là một quá trình kỹ thuật cao đòi hỏi một hệ thống cơ quan được
vận hành tốt và nguồn nhân lực nhiều kỹ năng. Trung tâm của tiến trình này là hệ thống
lập kế hoạch và ngân sách với sự kết hợp của 3 nhân tố chính:
• Lập kế hoạch và chi ngân sách phải được cân nhắc trên cơ sở nguồn lực hạn chế
giữa các chương trình theo cách phù hợp giữa các mục tiêu toàn diện và các chính
sách vĩ mô.
• Tổng nguồn thích hợp được xây dựng từ các nhà làm chính sách phải được đưa
vào ngân sách và chi tiêu cho chương trình đã dự định.
• Tiền chi tiêu phải được ghi nhận do đó việc sử dụng nguồn lực công có thể được
tính toán một cách minh bạch và đúng lúc.
Ở Lafrasia, không có cơ chế ngân sách và kế hoạch chính xác. Đất nước đang vận động
để áp dụng chương trình đầu tư kế hoạch 3 năm nhưng sự xung đột giữa Ủy ban kế
hoach, vốn chịu trách nhiệm cho việc xây dựng chương trình chi tiêu đầu tư hàng năm,
với Bộ tài chính, cơ quan thực hiện kế hoạch ngân sách hằng kỳ. Không có sự ước lượng
chi phí hằng kỳ trung hoặc dài hạn trong chương trình đầu tư công, như việc ước tính
rằng mỗi 100 peso từ ngồn vốn vận động được dùng đầu tư cho một dự án sẽ cần một chi
phí ngân sách hằng năm thường xuyên là 25 peso (tại mức giá cố định) cho điều hành và

bảo dưỡng, được tính đến khi các dự án mới bắt đầu.
Thực tế chi ngân sách trong các năm vừa qua có sự mặc cả lớn giữa Bộ tài chính và các
nhà tài trợ để xác định việc phân bổ chi phí. Sự liên kết giữa kế hoạch chính sách và chi
ngân sách mất dần do Bộ dành sự quan tâm cho việc giảm chi phí và các nhà tài trợ muốn
tăng cường sự kiểm soát với ngân sách chi đầu tư. Ngân sách hàng năm được chuẩn bị
theo một cơ sở tăng trưởng cơ bản, và thường giữa năm sẽ có sự cắt giảm toàn diện nếu
doanh thu được tính toán không đạt được. Kết quả là việc thực hiện các chiêu tiêu theo kế
hoạch (chẳng hạn thực hiện dự án) thường bị trì hoãn. Hơn nữa, các dự án đầu tư công
thường cho thấy các khó khăn trong việc thực hiện do thiếu hụt kỹ năng quản lý và kỹ
thuật.
Hạ tầng đô thị
Tại Lafrasia có một lượng lớn dân di cư đến các thành phố đặc biệt là thủ đô. Giao thông
cộng cộng trở nên quá tải và xuống cấp. Chỉ khoảng 60% dân số đô thị (tỷ lệ này ở nông
thôn là thấp hơn) được tiếp cận với nguồn cung nước sạch và thuận tiện, hệ thống cấp
nước đang trong điều kiện hư hại cần sửa chữa. Sự thiếu hụt về nhà ở đã là một vấn đề
thường xuyên trên cả nước, các khu ổ chuột xuất hiện tại các thành phố lớn. M ột hậu quả
của việc bùng nổ dân số và thiếu hụt dịch vụ bảo vệ sức khỏe, cấp nước là tỷ lệ mắc bệnh
truyền nhiễm cao hơn, tình hình càng xấu hơn bởi việc không có chính sách y tế công
thích hợp cho đô thị. Các tòa nhà công, bảo tàng và thư viện cũng cần thiết được duy trì
và phục hồi.
Hệ thống đường giao thông.
Quốc gia có 2600 dặm đường cao tốc chính, 8.600 dặm đường phụ, và 11.000 dặm đường
nhỏ rẽ nhánh không được tráng nhựa. Ngân sách dùng cho các công trình xây dựng chủ
đạo và nâng cấp nhưng việc tu bổ và cải tạo hệ thống đường xá không chủ yếu thì phải sử
dụng vượt ngân sách 342 triệu pesos (theo tỷ giá hiện hành khoảng 45.6 triệu USD) để tu
bổ mặt đường 11,200 dặm đường và 11.000 dặm dường phụ. Quỹ này dùng để phân bổ
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
8


cho nhân công, vật liệu, thiết bị máy móc và xe cộ. Bởi vì có nhiều dự án còn dang dở,
việc chi tiêu này đồng nghĩa với việc các con đường nhỏ sẽ được quan tâm trong 10 năm
nữa, đường cao tốc trong vòng mỗi 5 năm, đường phụ và đường cao tốc cấp 2 trong vòng
6-8 năm.
Các con đường phụ thì không được trải nhựa, nhưng đảm bảo lưu thông bình thường. Sự
sao nhãng các con đường phụ đã làm cho ¾ các con đường này không thể cho phương
tiện nào nặng hơn xe gắn máy lưu thông được. Các con đường chính cũng ở trong tình
trạng xấu cần cải thiện bề mặt. Hai con đường chính, 1 con đường dẫn đến thủ đô Bahia
Linda và 1 dẫn đến khu vực nông trường trồng ca cao có nhiều đường vòng và mỗi
đường trong số này đều trong tình trạng xấu. Một vài cây cầu không chịu được trọng tải
nặng và phải được xây dựng lại hay ít nhất gia cố lại để cho phép xe tải lưu thông. Theo
tính toán của bộ trưởng bộ tài chính, chi phí tu bổ tất cả các con đường sẽ gấp 10 lần cho
chi phí cấp sách vở cho sinh viên ở 8 cấp bậc trong 10 năm nữa. Áp lực chi tiêu thường
xuất hiện vào cuối chu kỳ ngân sách làm phức tạp hơn chương trình nâng cấp đường giao
thông bằng cách rút ngắn đi giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch chi tiêu sửa chữa và tu bổ .
Đăng kí tài sản
Vấn đề chính yếu trong lĩnh vực đường xá là sự thiếu vắng của bảng kê đầy đủ các con
đường. Việc đăng kí tài sản hạn chế, đặc biệt việc xem xét điều kiện thuận lợi công việc
tu bổ là vấn đề chủ yếu. Loại trừ các công trình xây dựng của chính phủ vốn được ghi
chép và kiểm kê tốt, hầu hết tài sản công không tuân theo 1 lịch trình thanh tra thường
xuyên và tu bổ theo kế hoạch.
Tu bổ sửa chữa
Việc tu bổ bị hoãn lại liên tục do cơ sở hạ tầng bị hư hỏng nghiêm trọng đặc biệt là
đường xá, hệ thống thủy lợi, các công trình xây dựng của chính phủ. Việc sao nhãng chi
tiêu cho tu bổ bảo quản đã đẩy chi phí ước tính 2.5%GDP, hay 9% trong tổng chi tiêu của
chính phủ. Lịch trình bảo dưỡng càng yếu kém thì nhu cầu cải tạo hạ tầng càng gia tăng
mạnh mẽ. Đội ngũ nhân viên kỹ thuật không được đào tạo đầy đủ, kế họach chương trình
ngân sách không nhận được số liệu dự thảo hay từ nhà quản lý DNNN, và họ cũng không
đánh giá được các nhu cầu cần bảo dưỡng. Việc giám sát bảo dưỡng khá phức tạp do mâu

thuẫn phát sinh – hầu hết các quỹ được lập từ chính phủ, nhưng trách nhiệm thực hện bảo
dưỡng là do địa phương thực hiện.
So sánh chi phí
So sánh với các quốc gia khác trong khu vực, chi tiêu của Lafrasia trong lĩnh vực quản lý
và cho sức khỏe và giáo dục vẫn còn ở mức thấp. M ặc dù có nền quân chủ 10 năm và
mối quan hệ tương đối mềm dẻo với các nước láng giềng, chi cho quốc phòng vẫn còn
cao. Trợ cấp cho SOEs làm kiệt quệ ngân sách, khi mà có một số lượng lớn các nhân viên
chức trong khu vực công. Số liệu bảng 2.3
Bảng 2.3 So sánh chi tiêu vốn trên đầu người tại một số lĩnh vực năm 1989
Danh mục Lafrasia
Các quốc gia cùng
trình độ phát triển
Đường xá
Bảo dưỡng
Phục hồi/Xây dựng mới
3.76

1.14

2.62

7.50

1.15

4.35

Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16

9

Giáo dục
Xây dựng
Chi quản lý
26.6

3.76

22.81

32.67

10.25

21.92

Doanh thu
Doanh thu nội địa gia tăng 10% trong vài năm gần đây, là kết quả của việc cải tiến quản
lý kiểm soát thuế. Cùng với các khoản vay nợ và viện trợ từ bên ngoài, thâm hụt ngân
sách giảm tư 40% xuống 16% tổng chi ngân sách cho đầu tư và thường xuyên. (khoảng
3.7%). Các con số này thể hiện sự cải tiến vượt bậc so với số liệu cách đây, khoảng thời
gian vẫn còn cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, khắc phục sự hỗn loạn 30 năm qua, mong
chờ các hỗ trợ đa phương về tư vấn hỗ trợ kỹ thuật, cũng như cần quỹ tài trợ cho tái cấu
túc nguồn tài nguyên và giảm thâm hụt ngân sách. Xem bảng 2.4
Bảng 2.4: Doanh thu chính phủ năm 1988-1989
Danh mục Pesos (triệu) Tỷ lệ phần trăm
Doanh thu thuế
Xuất khẩu
Nhập khẩu

Thu nhập
Thuế khác
27,305

9,370

6,625

5,687

5,623

55.3
19.0
13.4
11.5
11.4
Phí và lệ phí
Giao thông
Điện
Thông tin liên lạc
Nước
Giáo dục
Y tế
Khác
8,904

672

1,042


1,946

1,762

322

389

2,771

18.0
1.4
2.1
3.9
3.6
0.7
0.8
5.6
Viện trợ và vay nợ 12,150

5.6
Khác 1,023

24.6
Tổng Doanh thu 49,383

2.1
Tổng chi tiêu 57,622


100.00
Thâm hụt ngân sách -8,239

116,7
Chi phí phục hồi và Trợ cấp
Khoản trợ cấp quan trọng được phân bổ cho việc tái phục hồi chi phí đặc biệt là dành cho
đường xá, lĩnh vực công và DNNN. Chi phí cho các dịch vụ trong nhóm DNNN thì khá
thấp, nhưng vẫn thể hiện gánh nặng của sự nghèo khó. Phí dịch vụ y tế thấp (đặc biệt là
dịch vụ điều trị cho nhân viên chức nhà nước), và thường là không thu phí. Bộ trưởng bộ
giáo dục và đào tạo đang xem xét phân bổ lại chi cho giáo dục giữa trung ương và địa
phương, tư nhân, và giữa sinh viên và gia đình, tuy nhiên vẫn chưa có 1 đề nghị nào cả.
Về đường xá giao thông, phí cấp phép cho xe mô tô và thuế nhiên liệu hiện đang được
dành riêng cho việc tu bổ đường xá nhưng doanh thu từ nguồn này có thể trang trải cho
60% chi phí tu bổ, do đó vẫn không thể đảm bảo hệ thống đường bộ khỏi tình trạng bị hư
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
10

hại. Trợ cấp cho ngành mía đường và cho vận tải công cũng là các vấn đề bàn cãi. Một số
trợ cấp cho DNNN để giải quyết tình trạng dư thừa lao động, các doanh nghiệp này sẽ
thuê mướn các lao động trình độ thấp.
Lương khu vực công
Việc xác định chính xác số lượng lao động trong khu vực công gặp khó khăn do có 01 số
lượng lao động tạm thời và sự yếu kém của trong việc quản lý tiền lương và tuyển dụng
đăng kí công chức. Tuy nhiên, ước tính con số này khoảng 1 triệu người bao gồm trong
lĩnh vực quốc phòng, giáo dục và DNNN. Con số này chiếm khoảng 2.5% dân số và 6%
số nguời trong độ tuổi lao động. Nếu tính luôn trong quốc phòng và giáo dục và DNNN
thì số lượng lên đến 1.8 triệu người chiếm 11% số người trong độ tuổi lao động. Số liệu
này cao hơn khoảng 3% so với các nước trung bình cùng trình độ phát triển. Hầu như tốc

độ phát triển lao động trong khu vực công diễn ra trong suốt thời kì ngay sau khi tiến lên
chế độ dân chủ năm 1978, trong nỗ lực xây dựng sự ủng hộ của đại đa số mọi người cho
chế độ mới. Trong điều kiện quốc gia còn nghèo, vẫn còn 1 số lượng rất lớn lao động
trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, số lượng nhân viên chức nhà nước còn rất lớn.
Lao động dư thừa đạt trình độ thấp. Nhiều nhân viên chức nhà nước phục vụ trong khu
vực công lấy sự tốt đẹp hơn thay cho tiền lương- như tài xế và người giúp việc với nhiều
chức vụ khác nhau trong cơ quan hành chính công.
Đề nghị cải cách
Có nhiều áp lực từ các tổ chức đa phương và quốc gia viện trợ yêu cầu giảm quỹ lương
trong khu vực công, và quỹ lương này cũng đã thực sự giảm nhưng không tương xứng
với việc giảm số lương lao động trong khu vực công. Tỷ lệ 10% được đề nghị nhưng có ý
kiến chống đối rằng điều này sẽ dẫn đến việc lực lượng lao động rời khỏi các khu vực
quan trọng như y tế, giáo dục, nông nghiệp trong khi các khu vực khác sẽ tiếp tục tinh
giảm biên chế. Việc tinh giảm biên chế cũng sẽ đòi hỏi trình độ tốt hơn ở mổi công chức
so với hiện nay.
Kỹ năng và huấn luyện
Nhiều lao động thời vụ không có kỹ năng, họ được nhận làm việc để giảm tình trạng thất
nghiệp, nhưng hầu hết có năng suất lao động thấp. Họ cảm thấy thỏa mãn với khoản tiền
lương nhà nước ít ỏi, làm đêm ngoài giờ và và vắng mặt nhiều trong giờ làm việc. Việc
quản lý yếu kém đã tạo điều kiện cho các viên chức làm thêm việc thứ 2. Có ít kỹ năng
quản lý (trong lĩnh vực kinh tế, kế toán, quản lý công) và kỹ năng kỹ thuật ( kỹ sư, nhân
viên y tế, giáo viên chuyên môn), cũng như ít chương trình đào tạo để phát triển các kỹ
năng. Nhiều người được đào tạo tốt thì rời khỏi đất nứơc trong suốt thời gian quân đội
chiếm đóng, và các điều kiện không đủ hấp dẫn kéo họ trở lại. Thêm vào đó, việc thiếu
các phương tiện làm việc như máy tính cá nhân, máy đánh chữ, thiết bị liên lạc và máy
photocopy cũng đã hạn chế trong công tác đào tạo nhân viên.
Chế độ đãi ngộ.
Các vấn đề của khu vực dịch vụ bị làm trầm trọng thêm bởi cán cân thanh toán không
được kiểm tra kỹ kể từ khi đất nước được độc lập. Tiền lương thực tế đã giảm đi nhiều so
với tiền lương danh nghĩa do lạm phát, và các nhu cầu chi tiêu cao (nhà cửa, xe hơi, du

lịch nước ngoài) là 1 nhân tố đẩy tiền lương lên mức mong đợi cao hơn. Ngay cả khi
được toại nguyện, những người được đào tạo và có trình độ tốt vẫn tìm cơ hội ở khu vực
tư nhân vốn sẽ có thu nhập cao hơn. Thu nhập trung bình hàng năm của 1 cán bộ viên
chức khoảng 18,000 pesos (200 USD/tháng). Các điều kiện khác như nhà cửa, xe hơi làm
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
11

dịu vấn đề này nhưng tiền lương vẫn còn quá thấp để giữ chân được nhân tài làm việc
trong khu vực công trong thời gian dài. Đối với các lao động có trình độ thấp, tiền lương
trung bình hằng năm khoảng 3000-9000 pesos 1 năm (33-100 USD/tháng). Nhiều nhân
viên chức có trình độ thấp phải cải thiện đồng lương bằng cách làm thêm công việc khác.
Trong hoàn cảnh đó, cũng dễ hiểu rằng nhiều cơ quan thuê nhân viên làm bán thời gian.
Vấn đề quản lý
Các cán bộ công chức phải giải quyết các vấn đề hành chính có tiếng trong việc thờ ơ và
hờ hững trong vệc nói năng, ăn vận và quan tâm bình thường của công dân. Một ngoại lệ
trong lĩnh vực bưu chính, khi một nữ lãnh đạo được đào tạo nước ngoài có sáng kiến
khuyến khích và tán dương các nhân viên ăn mặc đồng phục. Thành công của cô bị hạn
chế một phần là do quỹ lương có hạn, nhưng cùng với các nỗ lực trong kinh doanh bán
các bộ tem kỷ niệm và các dịch vụ đặc biệt đã giúp cho cô gia tăng quỹ lương dùng để
khen thưởng trong việc tăng năng suất và khích lệ nhân viên. Và kết quả là việc quản lý
của cô đã giảm đi tình trạng nhân viên trốn việc và tỷ lệ tăng doanh thu cao hơn so với
các ngành khác trong chính phủ mặc dù ngành bưu chính cũng vẫn phải chịu cảnh thiếu
nhân viên được đào tạo tốt. Nhìn chung, cũng khó khăn trong việc quản lý khu vực công
bởi vì không có đăng ký số lượng nhân viên tập trung có mô tả công việc và hệ số lương.
Chính phủ cũng đang nỗ lực trong việc liệt kê số lượng nhân viên chức và nhiệm vụ họ
đảm trách. Trong mọi nỗ lực, chính phủ cũng đang cố gằng tinh giảm số lượng lao động
trong khu vực công khoảng 3% trong vòng 3 năm. Thật ra, còn nhiều việc phải làm để tạo
nên hệ thống hành chính công ở Lafrasia.

3. CÁC KHU VỰC KINH TẾ: NÔ NG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP
Tại Lafrasia, 46% GDP được tạo ra từ nông lâm ngư nghiệp; 26% từ công nghiệp (bao
gồm cả khai khoáng) và 18% từ khu vực dịch dịch vụ. Sản phẩm xuất khẩu có nguồn gốc
chủ yếu từ ca cao, đường và gỗ nhiệt đới. Cơ cấu tổng quát của xuất nhập khảu được
trình bày chi tiết ở bảng 3-1.
Bảng 3-1. Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, 1988-89 (triệu peso)
Khoản mục 1988 1989
Xuất khẩu 30,397

39,516

Hàng hóa 28,386

37,429

Ca cao 13,533

18,796

Đường 4,040

4,589

Dược phẩm 4,792

5,860

Gỗ 2,859

3,386


Khác 3,163

4,798

Dịch vụ 2,010

2,087

Nhập khẩu 38,135

46,906

Hàng hóa 31,395

38,441

Ngũ cốc 9,295

10,380

Hàng tiêu dùng 9,649

13,084

Hàng hóa vốn 10,216

12,195

Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng


Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
12

Khác 2,235

2,782

Dịch vụ 6,740

8,465

Chênh lệch các cân thương mại -7,738

-7,390

Tỷ trọng % chênh lệch trên GDP

4.4

3.3

Nông nghiệp
Kinh tế Lafrasia chủ yếu dựa vào nộng nghiệp. Nông lâm ngư nghiệp chiếm 46%GDP và
sử dụng khoảng 60% lực lượng lao động.
Ca cao
Ca cao chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu và thuế xuất khẩu cao cao đóng góp 30%
nguồn thu thuế của chính phủ. Chi phí sản xuất ca cao ở Lafrasia vào diện thấp nhất thế
giới. Tuy nhiên thuế xuất khẩu đang làm giảm ưu thế này đối với các nhà sản xuất tại
những khu vực đất đai không màu mỡ. Là cây trồng xuất khẩu với mức lợi nhuận cao tuy

nhiên ca cao dễ bị tác động bởi tình hình thị trường thế giới và điều kiện thời tiết không
thuận lợi. Do không yêu cầu về mặt địa hình nên ca cao cũng là một trong số ít cây trồng
có thể phát triển với số lượng lớn tại đất cao nguyên, nơi có lượng mưa và chất đất thích
hợp. Sản xuất ca cao xuất khẩu nếu so với các cây trồng khác thì không đòi hỏi đầu tư lớn
về kỹ thuật, tưới tiêu hay điện khí hóa. Tuy nhiên với tình trạng xấu của đường bộ và
đường sắt hiện tại thì cần có cả sự nâng cấp giao thông để vận chuyển ca cao kết hợp cải
thiện hệ thống lưu trữ gần cảng. Cũng cần thiết tăng diện tích trồng trọt và cung cấp dịch
vụ hỗ trợ tốt hơn nhưng do ngân sách của bộ nông nghiệp có giới hạn nên Bộ không thể
mở rộng đầu tư hay cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nông dân trồng ca cao.
Cây mía
Cây mía là cây trồng có ưu thế tại các đồng bằng trung tâm nhưng nhu cầu về sản phẩm
đang giảm và sẽ có lợi khi phát triển các cây trồng khác nhiều lợi nhuận hơn. Năm ngoái
sản phẩm đường tinh luyện chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu. Để tăng trưởng thị phần của
ngành mía đường trên thị trường thế giới đòi hỏi nguồn đầu tư công cho tưới tiêu, công
cụ cơ khí, phương tiện cất trữ và vận tải đến các cảng biển để xuất khẩu. Các năm trước,
chính phủ đã chú trọng đầu tư phát triển hệ thông tưới tiêu nhưng hiện nay hệ thống này
đã xuống cấp nặng cần được sửa chữa. Với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới,
Lafrasia buộc phải miễn thuế xuất khẩu và trợ cấp xuất khẩu đường để giữ ưu thế.
Sản phẩm khác
Dù quy mô nhỏ nhưng ngành công nghiệp gỗ cũng đóng góp 9% kim ngạch xuất khẩu.
Ngành này có nhu cầu lớn về điện, nước và giao thông, các xe tải nặng chuyên chở hiện
gặp khó khăn khi đi trên đường mà đặc biệt là đường chưa trải nhựa khi vận chuyển từ
rừng ra đường quốc lộ dẫn đến cảng.
Quốc gia hiện đang nhập một lượng lương thực đáng kể gồm ngô, gạo, dầu và thục phẩm
chế biến. Bộ nông nghiệp khuyến khích nông dân chuyển đổi từ cây mía sang sản xuất
ngũ cốc, đặc biệt là các giống mới mang lại hoa lợi cao, nhưng hiện đang thiếu nguồn hỗ
trợ và hệ thống tín dụng nông nghiệp cần thiết cho việc thực hiện chuyển đổi. Việc thiếu
chuyên gia kỹ thuật và nguồn vốn tạo ra sự khó khăn cho việc giúp đỡ người nông dân
vốn đang rất muốn thử nghiệm các giống cây trồng và phương pháp trồng trọt mới.
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng


Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
13

Những chính sách ưu tiên cho nông nghiệp
Cùng với việc gia tăng sản xuất lương thực, Bộ nông nghiệp nhận định khả năng đầu tư
phát triển của các ngành xuất khẩu hiện tại. Ngành ca cao có tiềm năng phát triển thêm về
khâu chế biến và sản xuất thành phẩm, sẽ mang lại thêm nhiều việc làm với múc lương
cao hơn đồng thời tăng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên đều này đòi hỏi có sự đầu tư công
cho việc bảo dưỡng và phục hồi đường bộ và đường sắt cũng như chi phí điều hành cho
hỗ trợ kỹ thuật. Ngành cacao cũng đòi hỏi một dự án quy hoạch cây trồng ngay để có thể
duy trì sản lượng trong tương lai.
Hiện tại, chính phủ chỉ phân bổ 828 triệu peso tức khoảng 2% ngân sách cho nông
nghiệp, điều này chưa tương xứng với vai trò đóng góp chính của lĩnh vực này trong
GDP, xuất khẩu và sử dụng lao động. Nguồn chi chủ yếu ở khu vực này là dành cho trợ
cấp mía đường, mở rộng mạng lưới tưới tiêu, nghiên cứu nông nghiệp, dự án trồng cây ca
cao và hệ thống cất trữ. Nông dân không có nguồn cung cấp hay nguồn vốn hỗ trợ nghiên
cứu và phát triển nông nghiệp trong hoạt động cộng với tình trạng đường xá xấu gây trở
ngại cho việc đưa giống cây trồng ra thị trường.
Công nghiệp
Hai tập đoàn đa quốc gia đã thành lập các nhà máy lắp ráp điện tử tại Lafrasia trong 5
năm qua. Các ngành công nghiệp khác gồm dệt may, lắp ráp ôtô, hoá chất, giầy, đồ uống
đóng chai và xi măng (một doanh nghiệp nhà nước). Công nghệp xi măng đang thua lỗ,
chính phủ phải trợ cấp 150 triệu peso mỗi năm. Giá xi măng sản xuất trong nước cao hơn
giá thế giới nhưng việc trợ cấp cộng với thị trường được bảo hộ một phần giúp cho ngành
này tồn tại. Ngành sản xuất xe đạp quy mô nhỏ và được bảo hộ cao chủ yếu phục vụ cho
nhu cầu nội địa. Một nhà đầu tư nước ngoài gần đây đã xây dựng một nhà máy lắp ráp
điện tử tại khu vực phi mậu dịch mới thành lập. Một số công ty nhỏ, chủ yếu là doanh
nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh, xử lý gỗ nguyên liệu để bán cho các nước công
nghiệp dùng vào mục đích xây dựng. Ngành công nghiệp xuất khẩu chính là dệt may,

linh kiện ôtô, hóa chất và điện tử (được lắp ráp trong nước từ các linh kiện nhập khẩu).
4. LĨNH VỰC XÃ HỘI: GIÁO DỤC VÀ SỨC KHỎE
Giáo dục
Giáo dục công nhận được khoảng 16% từ ngân sách hoạt động của chính quyền trung
ương và một phần của các cấp địa phương. Hầu hết những khoản chi tiêu của địa phương
để xây dựng trường tiểu học hoặc bổ sung thêm cho ngân sách trung ương. Khu vực tư
cũng đóng góp một phần khá quan trọng trong giáo dục ở tất cả các cấp độ khác nhau.
Bảng 4-1 cho ta thấy sự phân phối số lượng sinh viên/học sinh ở những cấp độ giáo dục
khác nhau và giữa khu vực công và khu vực tư. So sánh 1 học sinh trong một nhóm
người có cùng mức sống tại một quốc gia nào đó chi tiêu khoản 2.218USD cho bậc cao
đẳng, 327USD cho bậc trung học và 243USD cho bậc tiểu học. Thị phần của trường tư
ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở cấp tiểu học và trung học. Cách đây 10 năm, trường tư
thu hút chỉ khoảng 17% học sinh ở cấp tiểu học và 25% cấp trung học. Bộ Giáo dục đã
nhận ra sự thay đổi này đối với các trường tư và đã rất hưởng ứng; bởi vì tại các trường
công, lớp học quá đông, chất lượng giáo viên kém và thiếu sách giáo khoa rất nhiều.
Chi tiêu cho giáo dục
Toàn bộ khoản chi tiêu cho giáo dục tại Lafrasia đuợc xem là rất thấp so với các quốc gia
khác. Bảng 4-2 cho chúng ta một số số liệu cơ bản trong việc chi tiêu ngân sách trung
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
14

ương cho giáo dục tại các cấp khác nhau. Chi tiêu cho giáo dục tại chính quyền địa
phương chủ yếu là cho việc xây dựng trường học, ngoại trừ trường tiểu học do không đủ
kinh phí.
Bảng 4-1. Giáo dục, sự phân chia học sinh, năm 1998
Chỉ tiêu
Số lượng học sinh
(ngàn)

%
Cấp cao đẳng
Khu vực công
Khu vực tư
Cấp trung học
Khu vực công
Khu vực tư
Cấp tiểu học
Khu vực công
Khu vực tư
Người lớn tuổi
Tổng cộng
Khu vực công
Khu vực tư
115

77

38

687

458

229

4.800

2.894


1.106

126

5.728

3.426

1.376

2

67

33

14

57

43

81.8

73

27

2.2


100

71

29

Bảng 4-2. Chi tiêu của một học sinh, năm 1998
Chỉ tiêu
Chi tiêu của 1 học
sinh (USD)
% trong tổng chi phí
Cấp cao đẳng
Cấp trung học
Cấp tiểu học
Người lớn
3.287

525

143

43

27.7

26.3

45.1

0.06


Cấp cao đẳng, đại học
Những học sinh tốt nghiệp cấp trung học sẽ được học tiếp lên cao đẳng, tuy nhiên có sự
không cân đối ngân sách trong chi tiêu cho giáo dục tại cấp cao đẳng này. Các bài kiểm
tra đầu vào có tính chọn lọc cao, chỉ những học sinh tốt nghiệp từ những trường tư và
những trường công có chất lượng mới được thừa nhận. Học phí rất thấp (75 Pesos mỗi
học kỳ), và những sinh viên học tại đây được nhận khoản trợ cấp sinh hoạt, chiếm phần
lớn trong tổng Ngân sách trung ương cấp cho trường. Thị trường đang có nhu cầu lớn về
y tá, giáo viên và những người quản lý đào tạo cho các trường công lẫn trường tư. Tuy
nhiên, các trường đại học chỉ dạy nhiều về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn và thiếu trang
thiết bị, dụng cụ học tập cho các ngành khoa học kỹ thuật.
Giáo dục tại cấp cao đẳng đang trong tình trạng rất xấu. Tính bình quân 5 tỉnh thì mới có
một trường, tuy nhiên các trường này đều trong tình trạng thiếu giáo viên, thiếu nguồn tài
trợ, lớp học rất đông và trang thiết bị, dụng cụ học tập lại càng thiếu. Tuy nhiên, tại các
trường kỹ thuật và trường chuyên ngành là trường tư nhân và có mức học phí cao. Bởi vì
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
15

hầu hết những sinh viên tại trường đại học công được tuyển vào những ngành khoa học
xã hội hơn là những ngành về khoa học, kỹ thuật, quản lý; những học viện có ưu thế hơn
trong việc đào tạo những kỹ năng chuyên ngành cho cả khu vực công và tư. Tại 5 trường
đại học công lập, lương cho các giáo sư bị cắt giảm và việc tăng số lượng quản lý làm
giảm đi nguồn tiền dành để sửa chữa, bảo trì những trang thiết bị, dụng cụ học tập.
Cấp trung học
Cấp trung học (từ lớp 8 -> 12) chỉ được xây dựng tại thành phố và những tỉnh lớn. Miễn
phí phần học phí, và học sinh có cơ hội tiếp cận việc học tập tốt nhưng sẽ không đủ chỗ
cho tất cả những học sinh muốn tham dự. Một vài nơi, việc thu nhận học sinh có sự cạnh
tranh nhau, những học sinh có gia đình giàu có thường được ưu tiên hơn. Có một số

trường trung học được thành lập bởi những tổ chức tôn giáo và những tổ chức phi chính
phủ (NGOs) dành cho những học sinh ở tỉnh xa và không có điều kiện vào trường công.
Một nhóm gia đình và cộng đồng đã đóng góp để mua những trang thiết bị và dụng cụ
học tập. Nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn có thể không thể tiếp tục học nếu
không có tiền mua sách vở và dụng cụ học tập. Số liệu về giáo dục bậc trung học được
tổng kết tại bảng 4-3.
Bảng 4-3. Bậc trung học, 1988
Tiêu chí Tỷ lệ/Số tiền
Tỷ lệ nhóm tuổi được trúng tuyển
Trường công
Trường tư
Chi tiêu cho sách, dụng cụ học tập
Tỷ lệ chi phí hoạt động chính phủ bỏ ra cho giáo dục
Nhân sự
Trợ cấp
Chi phí cho một học sinh
22%
12.5%
9.5%
3.33USD/Học sinh

54%
39%
525USD
Cấp tiểu học
Giáo dục tiểu học thì miễn phí, và có những trường tiểu học miễn phí hoàn toàn nhưng
chỉ tập trung ở một số địa phương. Thực tế, những đứa trẻ đi học lúc 6 tuổi nhưng chỉ
40% hoàn thành được chương trình 8 năm. Nhiều học sinh phải ở lại lớp hoặc có điểm số
rất thấp khi hoàn thành khóa học. Có nhiều giáo viên thiếu kinh nghiệm, không được đào
tạo bài bản hoặc được đào tạo trong thời gian quá ngắn. Bên cạnh đó, việc thiếu dụng cụ

học và thiếu sách giáo khoa cũng là một trở ngại lớn. Trường tiểu học, nhìn chung rất
đông học sinh, xây dựng thành những phòng học lớn và được duy trì bởi chính quyền địa
phương và đuợc sự hỗ trợ của những tổ chức công cộng và gia đình học sinh. Trong khi
NGOs và một nhóm phụ huynh học sinh ra sức lấp đầy những kẻ hở trong giáo dục đã tạo
ra những áp lực lên những gia đình nghèo và rất có thể những đứa trẻ nghèo sẽ không thể
đi học được. Với sự cạnh tranh gay gắt để có thể lên được bậc trung học cơ sở, học sinh
giỏi thì vượt qua các kỳ thi một cách dễ dàng. Trong khi đó, có một số trường sẽ nhận
những học sinh dựa vào tình hình tài chính mạnh của gia đình, kể cả khi học sinh đó bị
rớt trong những kỳ thi.


Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
16

Người lớn
Có một nhu cầu rất lớn cho việc học tập của những người lớn nhằm để họ biết đọc, chăm
sóc sức khỏe và những kỹ thuật về nông nghiệp. Khoảng 27% những ngừơi lớn tuổi bị
thất học. Giáo dục cơ bản ở những người lớn tuổi là trách nhiệm của chính quyền Trung
ương, nhưng kinh phí cho những chương trình này thường không tương xứng. NGOs đã
lắp đầy những lỗ hỏng tại một số khu vực, nhưng phần lớn dân cư lớn tuổi thất học vẫn
không thể tiếp thu được.
Chăm sóc sức khỏe
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, những dịch vụ quan trọng bao gồm việc cung cấp đến
những vùng quê xa xôi hẻo lánh nhất cho tới những khu vực thích hợp đều được chăm
sóc từ bước cơ bản (dinh dưỡng, miễn dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và những
chương trình tương tự) đến bước 2, bước 3, bao gồm cả việc điều trị tại bệnh viện và
chăm sóc sức khỏe dài hạn. Việc tìm ra làm thế nào quản lý việc khôi phục lại chi phí
trong khi những bệnh nhân quá nghèo. Hiện tại, những dịch vụ chăm sóc bổ trợ mang lại

lợi nhuận cao hơn hoặc bằng với chi phí chăm sóc sức khỏe cơ bản cho người nghèo. Tại
những thành phố lớn có những bệnh viện có những trang thiết bị hiện đại với sức chứa có
giới hạn; những bệnh việc được nhà nước trợ cấp thì số giường bệnh cũng có hạn. Một
vài bệnh viện thực hành cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, bao gồm việc chăm
sóc sức khỏe cho bà mẹ trẻ em tại những vùng nông thôn và dân nghèo thành thị, nhưng
hầu hết chỉ cung cấp những loại thuốc thiết yếu (vắc xin, và những vật dụng sơ cấp cứu)
và rất thiếu nhân viên y tế.
Sự phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe
Giống như giáo dục, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng tồn tại song song hai hệ thống
công cộng và tư nhân. Khu vực tư nhân được chia thành hai lĩnh vực: Khu vực thương
mại với những chuyên gia và những bác sĩ đa khoa có tay nghề cao, điều này đã mang
đến những thuận lợi, phí cho việc cung cấp những dịch vụ cho bệnh nhân. Một quỹ được
thành lập bởi NGOs nhằm tập trung ngăn chặn những căn bệnh và bảo vệ sức khỏe (dinh
dưỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản và miễn dịch) sẽ rất có giá trị
đối với những người dân tại khu vực nông thôn. Khu vực công cung cấp hầu hết những
dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại những trung tâm và những bệnh viện (Có hai bệnh viện tư,
một ở tại Thủ đô của Lafrasia và một ở tại Bahia Linda). Nhiều cư dân tại nông thôn sống
xa những trung tâm chăm sóc sức khỏe và họ phải dùng những phương pháp cổ truyền để
chữa bệnh hoặc phải đi một quảng đường thật xa mới có thể chữa trị được. Kết quả là
những ngừơi này nhận được rất ít các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và thường là trong tình
trạng cấp cứu.
Vấn đề sức khỏe
Dấu hiệu của vấn đề sức khoẻ phổ biến và nổi bật rất dễ dàng nhận thấy ở Lafrasia (điều
này thể hiện ở bảng 1-1). Tỉ lệ tử vong trẻ là 8% cao hơn so với hầu hết các nước có mức
thu nhập bằng với Lafrasia. Khoảng 10% dân số trẻ bị nhiễm HIV. Những căn bệnh khác
không được kiểm soát bởi vì thiếu các phương tiện phòng ngừa, phương pháp vệ sinh,
nước sạch, và thuốc men. Chưa đến 60% người trẻ nhận được sự tiêm ngừa bệnh. Sự suy
dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ nữ, phụ nữ có thai, và người già, đang phổ biến ở những khu
nhà ổ chuột và một số vùng quê nghèo.
Thành phần của chi tiêu.

Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
17

Bảng 4-4 cung cấp những dữ liệu tương đối trong sự chỉ định chi tiêu cho việc chăm sóc
sức khoẻ. Chi tiêu cho bệnh viện chiếm gần 55% ngân sách sức khoẻ công. Sự can thiệp
mang lại kết quả như sự tiêm ngừa trước khi sinh, sự tiêm ngừa bệnh tật đang được xem
xét. M ặc dù có sự tồn tại song song của mảng dịch vụ tư và công, nhưng những dịch vụ
này vẫn giữ nguyên trong khi đó dịch vụ tư phát triển để đáp lại sự suy giảm về chất
lượng của những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ công. Vì vậy, hệ thống đã thay đổi quá
nhiều phương tiện khác nhau từ dịch vụ phòng ngừa và những dịch vụ chữa trị cho những
người có thu nhập thấp và thu nhập cao để phục vụ cho cả người nghèo lẫn người giàu
hiệu quả. Trong lĩnh vực chi tiêu đầu tư, lĩnh vực giáo dục sức khoẻ và giáo dục bậc cao
đang chịu áp lực phải xây dựng lại những phương tiện thuận lợi thay vì sữa chữa và trang
bị kiến thức sử dụng các phương tiện tồn tại tốt hơn.
Bảng 4-4. Sự phân chia chi tiêu cho việc chăm sóc sức khỏe.
Khoản mục Lafrasia
Các nước có thu
nhập tương đương
Chi tiêu tính trên đầu người (USD)
Chi tiêu đầu tư 3.07 1.88
Nhân sự 7.88 14.54
Phương tiện chữa bệnh 1.69 3.62
Khác 1.12 1.15
Tỉ lệ phần trăm (%)
Chi tiêu khám chữa bệnh 54 33
Chi tiêu cho phòng ngừa 37 59
Khác 9 8
5. CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC SỞ HỮU NHÀ NƯỚC

Có nhiều doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước ở Lafrasia. Ba lĩnh vực nhận được sự trợ
cấp lớn nhất là: điện, nước và xi măng
Ngành điện.
Ngành điện của nhà nước nhận được sự trợ cấp đáng kể từ ngân sách của trung ương,
chính yếu là chi tiêu đầu tư. Bởi vì những điều chỉnh về thuế xuất nhập khẩu đi chậm
phía sau lạm phát, ngành điện đã ghi nhận lại sự thiếu hụt điện trong 3 năm qua. Có sự
cản trở về chính trị đối với sự tiêu thụ điện quá mức và các nhà quản lý của ngành điện
tin rằng sự tiêu thụ điện quá mức cần được giảm và tránh những cấu trúc với dung tích
cao. Gần đây 35% những dụng cụ gia đình đã dùng đến điện năng. M ục đích chính của
chính quyền là giảm sự gia tăng tốc độ tiêu thụ điện của những dụng cụ gia đình.
Ngành nước
Ủy ban về vấn đề nước của Lafrasia (LWC) chịu trách nhiệm quản lý nguồn nước, cấu
trúc hệ thống, quản lý việc chế hóa, và những phương tiện chứa nước. Sự dẫn nước vào
ruộng cho sự phát triển của cây mía và một số vụ mùa khác được cung cấp trong 2 tỉnh
bởi LWC. Những thành phố và những ngôi làng lớn mua nước đã được xử lý từ LWC để
phân phối tới người dân, duy trì hệ thống phân phối, và thu gom sự chi trả từ người sử
dụng. Nước giếng và sông ngòi cung cấp cho hầu hết những ngôi làng nhỏ, và nó liên kết
với nước được xử lý được sử dụng trong những ngôi làng nhỏ và những vùng nghèo
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
18

trong thành phố. Chính quyền trung ương chỉ trợ cấp giảm đi đối với sự vận hành hàng
loạt, ngoại trừ trợ cấp không đủ cho việc duy trì và sữa chữa. Nguồn nước không đáp ứng
30% số lượng nước hiện tại. Chính quyền địa phương đã gây nên sự thiếu hụt, không đáp
ứng đựợc nhu cầu của cộng đồng. Nước đã được xử lý để sử dụng khoảng 12 pesos 1
tháng cho trung bình 1 cá nhân trong hộ gia đình. Hệ thống nước thành thị thì quá cũ,
nước rỉ ra đang gia tăng, và áp lực nước chậm trong nhiều phần của hệ thống. Hệ thống
tưới nước cũng chịu đựng từ sự thiếu nguồn cung cấp nước.

Ngành công nghiệp xi măng
Chính quyền đảm trách ngành công nghiệp từ nhiều cty tư nhân quy mô nhỏ và chưa phát
triển cách đây khoảng 10 năm. Xi măng là thành phần thiết yếu trong sự phát triển cơ sở
hạ tầng, vì thế chính quyền đã đảm trách việc cung cấp xi măng tới SOEs và những người
sử dụng tư với mức giá trợ cấp. Không giống như điện và nước, ngành công nghiệp này
không đạt hữu dụng mà nó có thể đòi hỏi sự trợ cấp của chính quyền. Ngành công nghiệp
xi măng thuê gần 8000 công nhân ở trong, gần và những vùng lân cận khác. Ngành công
nghiệp chịu sự giám sát của bộ thương mại, mà nó kiểm soát giá và trợ cấp từ ngân sách
chính quyền trung ương. Ngành công nghiệp xi măng bây giờ đã tiêu tốn khoảng 30 triệu
pesos 1 năm. Những bảng sao kê tài chính đã tiết lộ rằng sự thiếu hụt bắt nguồn từ giá
của xi măng thấp một cách giả tạo và sự quản lý không hiệu quả mà nó đã cho phép
lượng công nhân đầu ra cao hơn ở ngành sản xuất xi măng tư nhân trong những vùng lân
cận. Các nhà thầu tư nhân và chính quyền tỉnh đang phản đối một cách mạnh mẽ việc trợ
cấp giá đối với xi măng.
Vận tải ngoại thương
Dịch vụ hàng không công cộng đang hoạt động rất tốt, nhưng nó vẫn không có thặng dư.
Lợi nhuận đang được tái đầu tư để mở rộng & cải tiến sân bay quốc tế ở thủ đô của
Lafrasia và sân bay nội địa tại Bahia Linda. Sân bay ở thủ đô thì khá tốt, khách du lịch là
lượng khách hàng tương đối ổn định cho doanh nghiệp thương mại. Phí hạ cánh, phí đậu
xe, phí cấp phép cho tài xế đã hợp thành nguồn thu chính cho 2 sân bay, mặc dù phí cho
mỗi lần hạ cánh là 25$. Có một vài áp lực về chính trị trong việc phát triển sân bay địa
phương để du lịch trong số các thành phố nhỏ. Các phương tiện đang vận hành hết công
suất, tuy nhiên chúng cần được xem xét sửa chữa cũng như mở rộng.
Vận tải nội địa
Phí xe buýt cực kỳ thấp, khoảng 2 pesos và 15 pesos cho chuyến đi dài 100 miles giữa
các thành phố và tỉnh. Những xe buýt thì cũ và được bảo trì một cách không đầy đủ
Đường ray xe lửa đã kết nối thủ đô với bờ biển và những vùng lân cận của Andaria, đã
đưa ra những dịch vụ hành khách và vận chuyển hàng hóa. Phí xe lửa được ước tính sẽ
phục hồi lại hầu hết chi phí, mặc dù đa số những khách có thu nhập thấp chọn xe buýt bởi
vì nó được trợ cấp rất lớn. Bởi vì cước phí vận chuyển có giới hạn, nên trợ cấp đường sắt

tương đối bình thường, nhưng hầu hết các kho thì đã cũ và cần được thay thế.
Doanh nghiệp công cộng khác
Dịch vụ bưu điện đang có sự thiếu hụt nhất, do dịch vụ bưu điện miễn phí cung cấp cho
chính quyền trung ương. Hệ thống điện thoại trả phí khá cao và tiêu hao hết ngân sách
của khu vực công. Phần lớn chi phí chỉ dùng cho đầu tư vốn, nó không bù đắp đươc sự
thiếu hụt trong ngân sách. Mặc dù trợ cấp thấp, nhưng dịch vụ điện thoại vẫn nhận lời chỉ
trích bởi vì giá khá cao, dịch vụ thì không tốt, và chỉ có 18% dân số có điện thoại trong
nhà của họ.
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
19






PHẦN 2






Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
20


Câu 1. Thông qua quy mô của khu vực công, đánh giá xem khu vực công chiếm
bao nhiêu % trong toàn xã hội
Chi tiêu khu vực công gồm 2 phần là chi đầu tư và chi thường xuyên.
Chi tiêu thường xuyên tính chung cho chính quyền trung ương và địa phương
chiếm khoảng 19% GDP. Cụ thể tồng chi thường xuyên của chính phù trong khu vực
công năm 1988-1989 là 42.767 triệu pesos, trong đó chi cho khu vực xã hội chiềm tỷ lệ
cao nhất 29.7%, theo sau là chi cho khu vực kinh tế (27.5%). Sự phân bổ chi tiêu công
của chính phủ cho các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, xã hội cũng không chênh lệch nhau
đáng kể, thể hiện định hướng phát triển đồng đều cân bằng trong tổng quan chung nền
kinh tế. Trong lĩnh vực xã hội chi cho giáo dục chiếm tỷ trọng cao nhất, trong lĩnh vực
kinh tế chi có phát triển ngành điện chiếm tỷ trọng cao nhất. Điều này thể hiện một xu thế
tất yếu trong sự nghiệp phát triển con người và điều kiện hạ tầng cơ sở để phát triển kinh
tế.
Tuy nhiên với thực tế số lượng lao động trong khu vực công ước tính khoảng 1.8
triệu người chiếm 11% số người trong độ tuổi lao động (cao hơn 3% so với các nước
trung bình cùng trình độ phát triển), thì việc chi quản lý cho khu vực công đang gặp vấn
đề cấp thiết cần phải giải quyết, trong đó việc tinh giảm biên chế cần thực hiện sớm để
giảm bớt áp lực lên quỹ lương khu vực công. Điều này cũng được các tổ chức hỗ trợ đa
phương và viện trợ khuyến cáo.
Chi đầu tư khu vực công chiếm khoảng 7%GDP và 60% tổng đầu tư (công và tư)
cả nước. Trong đó đầu tư cho khu vực kinh tế chiếm tỷ tọng cao nhất 65.7% và thủy điện
nhận được tỷ lệ đầu tư rất lớn (43%) bởi cam kết sẽ cung cấp điện đến mỗi hộ gia đình.
Trong khi đó đầu tư cho tu bổ hệ thống đường xá chiếm tỷ trọng nhỏ (1%), chi phát triển
hệ thống đường sắt chiếm tỷ lệ khoảng 2%. Cụ thể ngân sách được chủ yếu các công
trình xây dựng chủ đạo và việc tu bổ cải tạo hệ thống đường xá không chủ yếu thì phải
sử dụng vượt ngân sách. Bên cạnh đó có nhiều dự án còn dang dở, cho nên mức độ tu bổ
và bảo dưỡng hệ thống đường xá cũng hạn. Nhìn chung chính phủ đang tập trung nguồn
lực quá lớn vào thủy điện mà không quan trọng hóa hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông
vốn rất cần thiết để phát triển kinh tế.
Thu ngân sách

Trong cơ cấu thu ngân sách, tương tự như các quốc gia khác, nguồn thu từ thuế
chiếm tỵ trọng cao nhất 55.3% trong đó thu từ hoạt động xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao
nhất. Với điều kiện khí hậu tự nhiên thổ nhưỡng thích hợp cho ca cao phát triển, ca cao
chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu và thuế xuất khẩu cao cao đóng góp 30% nguồn
thu thuế của chính phủ trong khi đó chi phí sản xuất ca cao ở Lafrasia vào diện thấp nhất
thế giới việc trồng cây ca cao không đòi hỏi đầu tư lớn về kỹ thuật, tưới tiêu hay điện khí
hóa. Tuy nhiên với tình trạng xấu của đường bộ và đường sắt hiện tại thì cần có sự nâng
cấp hệ giao thông để có thể phát triển hơn nữa sản phẩm kinh tế này.
Một cây nông nghiệp thứ 2 mang lại nguồn thu ngân sách lớn là cây mía (sản
phẩm đường tinh luyện chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu). Tuy nhiên để tăng trưởng thị
phần của ngành mía đường trên thị trường thế giới đòi hỏi nguồn đầu tư công cho tưới
tiêu, công cụ cơ khí, phương tiện cất trữ và vận tải đến các cảng biển để xuất khẩu. Trong
khi đó hệ thống thủy lợi, đường xá chưa được đầu tư đúng mức để phát huy tối đa nguồn
lực kinh tế này.

Câu 2. Hãy chỉ ra phương pháp đánh giá mà trong "case study" đã sử dụng?
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
21

 Trình tự phân tích của tình huống trên về quốc gia Lafrasia là đi từ giới thiệu tổng
quan, nêu khái quát hình hình kinh tế xã hội đến việc đánh giá nêu thực trạng trong khu
vực công, sau đó mới phân tích chi tiết các khu vực kinh tế, xã hội, doanh nghiệp nhà
nứơc.
 Phương pháp đánh giá trong tình huống này là phân tích thực trạng kèm theo số
liệu thực tế.
 Hình thức trình bày và phân tích số liệu: phân tích cơ cấu, so sánh (so sánh với
quốc gia khác).


Câu 3. Quốc gia trong “case study” giống Việt Nam ở những điểm sau:
1. Về lịch sử và địa lý.
Là một quốc gia nhiệt đới với sự đan xen của rừng và nông trang cộng với 1 phần
diện tích là núi, biển đã thu hút một lượng khách du lịch. Nguồn năng lượng là thủy điện,
than đá.
Dân số: Chủ yếu sinh sống ở các thành phố lớn và vùng đồng bằng, Các tỉnh miền
núi có mật độ dân số thưa thớt nhất. Tỷ lệ di cư đến thành phố đang tăng dần, nơi mà họ
sống trong những căn nhà lụp xụp tồi tàn và kiếm sống bằng những việc làm thời vụ, bấp
bênh, không đòi hỏi kỹ năng
Chỉ số xã hội: Quốc gia có mức thu nhập trung bình; một số chỉ tiêu xã hội thể
hiện sự không đáp ứng những nhu cầu tối tiểu về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, và những
dịch vụ khác( tỉ lệ tử vong trẻ cao, tỉ lệ phụ nữ chết khi sinh cao, )
An ninh quốc phòng: Chính phủ là dân chủ và đa đảng, một số những đảng thiểu
số dường như không chống lại những nỗ lực đảo chính. Nhưng chính phủ vẫn muốn duy
trì một lực lượng quân đội mạnh để bảo vệ đất nước và chống lai một số vụ xung đột có
nguyên nhân từ tôn giáo và sắc tộc.
Kinh tế vĩ mô: Lạm phát vẫn tiếp diễn, tỷ giá hối đoái giảm liên tục, thu nhập
bình quân đầu người thấp; tỷ lệ sinh đẻ cao - đặc biệt là vùng nông thôn, thu nhập bình
quân đầu người thực tế chỉ tăng trưởng với tốc độ thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao.
2. Về phân cấp hành chính.
Chia thành 2 cấp:chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
Chính quyền trung ương: Chính quyền trung ương chịu trách nhiệm trong việc
giải quyết các vấn đề thuộc những lĩnh vực thiết yếu và quan trọng
Chính quyền địa phương:Các tỉnh không có quyền lực độc lập, họ đóng vai trò
là cấp hành chính của chính quyền trung ương. Địa phương nhận nguồn vốn chủ yếu từ
chính quyền trung ương, phần vốn bổ sung còn lại từ các khoản thuế địa phương được
phép thu và các khoản phí, lệ phí
3. Về cơ cấu chi tiêu công.
Chi tiêu điều hành:Chi chủ yếu vào khu vực xã hội ( giáo dục, sức khỏe, văn hóa,
dịch vụ xã hội khác), khu vực kinh tế ( điện, nước , vận tải, hàng không, vịễn thông, bảo

quản đường xá, …), chi quốc phòng, và các dịch vụ công thông thường.
Chi đầu tư: Chi chủ yếu vào khu vực xã hội ( giáo dục, sức khỏe, văn hóa, dịch
vụ xã hội khác), khu vực kinh tế ( điện, nước , vận tải, hàng không, vịễn thông, bảo quản
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
22

đường xá, …), chi quốc phòng, và các dịch vụ công thông thường. Hầu hết các khoản chi
của chính quyền địa phương đều dùng cho việc bảo dưỡng hơn là đầu tư mới
Chi thường xuyên cho các dự án: Dành một khoản chi tiêu bắt buộc cho việc
bảo dưỡng và điều hành, bao gồm nhân sự, thiết bị và các nguồn cung ứng.
Quản lý ngân sách: Không có cơ chế ngân sách và kế hoạch chính xác.
4. Về các vấn đề mang tính xã hội và kinh tế nổi bật.
Hạ tầng đô thị: Có một lượng lớn dân di cư đến các thành phố lớn Giao thông
cộng cộng trở nên quá tải và xuống cấp; tỉ lệ tiếp cận với nguồn cung nước sạch còn
thấp, hệ thống cấp nước đang trong điều kiện hư hại cần sửa chữa. Các khu ổ chuột xuất
hiện tại các thành phố lớn. Một hậu quả của việc bùng nổ dân số và thiếu hụt dịch vụ bảo
vệ sức khỏe, cấp nước là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm,
Hệ thống đường giao thông: Ngân sách dùng cho các công trình xây dựng chủ
đạo và nâng cấp như việc tu bổ và cải tạo hệ thống đường xá không chủ yếu thì phải sử
dụng vượt ngân sách,có nhiều dự án còn dang dở. Các con đường chính cũng ở trong tình
trạng xấu cần cải thiện bề mặt. Một vài cây cầu không chịu được trọng tải nặng và phải
được xây dựng lại hay ít nhất gia cố lại để cho phép xe tải lưu thông
Tu bổ sửa chữa: Đội ngũ nhân viên kỹ thuật không được đào tạo đầy đủ, kế
họach chương trình ngân sách không nhận được số liệu dự thảo hay từ nhà quản lý
DNNN, và họ cũng không đánh giá được các nhu cầu cần bảo dưỡng
5. Về nhân sự và quản lý trong khu vực hành chính và kinh tế công
Lương khu vực công: Số lượng lao động trong khu vực công chiếm tỉ trọng cao
trong lĩnh vực quốc phòng, giáo dục và DNNN. Lương trong khu vực này còn thấp.

Kỹ năng và huấn luyện: Nhiều lao động thời vụ không có kỹ năng, họ được nhận
làm việc để giảm tình trạng thất nghiệp, nhưng hầu hết có năng suất lao động thấp. Nhiều
người được đào tạo tốt thì rời khỏi đất nước việc; thiếu các phương tiện làm việc cũng đã
hạn chế trong công tác đào tạo nhân viên.
Chế độ đãi ngộ: Tiền lương thực tế đã giảm đi nhiều so với tiền lương danh nghĩa
do lạm phát, và các nhu cầu chi tiêu cao (nhà cửa, xe hơi, du lịch nước ngoài) là 1 nhân tố
đẩy tiền lương lên mức mong đợi cao hơn. Những người được đào tạo và có trình độ tốt
vẫn tìm cơ hội ở khu vực tư nhân vốn sẽ có thu nhập cao hơn. Nhiều nhân viên chức có
trình độ thấp phải cải thiện đồng lương bằng cách làm thêm công việc khác
6. Về khu vực kinh tế nông nghiệp và công nghiệp.
GDP được tạo ra chủ yếu từ nông, lâm, ngư nghiệp.
Nông nghiệp: Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nông-lâm- ngư nghiệp
chiếm tỉ trọng lớn trong GDP và lao động trong nông nghiệp cũng chiếm tỉ trọng cao.Chi
tiêu cho nông nghiệp còn thấp điều này chưa tương xứng với vai trò đóng góp chính của
lĩnh vực này trong GDP, xuất khẩu và sử dụng lao động. Thiếu chuyên gia kỹ thuật và
nguồn vốn tạo ra sự khó khăn cho việc giúp đỡ người nông dân vốn đang rất muốn thử
nghiệm các giống cây trồng và phương pháp trồng trọt mới.
Công nghiệp: Ngành công nghiệp xuất khẩu chính là dệt may
7.Về lĩnh vực xã hội: giáo dục và sức khỏe.
Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng

Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16
23

Giáo dục: Khu vực tư cũng đóng góp một phần khá quan trọng trong giáo dục ở
tất cả các cấp độ khác nhau. Thị phần của trường tư ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở cấp
tiểu học và trung học. Chi tiêu cho giáo dục tại chính quyền địa phương chủ yếu là cho
việc xây dựng trường học. Các trường đại học chỉ dạy nhiều về lý thuyết, thiếu tính thực
tiễn và thiếu trang thiết bị, dụng cụ học tập cho các ngành khoa học kỹ thuật. Cấp trung
học (từ lớp 8 -> 12) chỉ được xây dựng tại thành phố và những tỉnh lớn, sẽ không đủ chỗ

cho tất cả những học sinh muốn tham dự.
Chăm sóc sức khỏe: Tại những thành phố lớn có những bệnh viện với những
trang thiết bị hiện đại nhưng sức chứa có giới hạn. M ột vài bệnh viện chỉ cung cấp dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản. Việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em tại những vùng
nông thôn và dân nghèo thành thị chưa được quan tâm nhưng hầu hết chỉ cung cấp những
loại thuốc thiết yếu(vắc xin, và những vật dụng sơ cấp cứu) và rất thiếu nhân viên y tế.
Sự phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe: Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng tồn
tại song song hai hệ thống công cộng và tư nhân. Nhiều cư dân tại nông thôn sống xa
những trung tâm chăm sóc sức khỏe và họ phải dùng những phương pháp cổ truyền để
chữa bệnh hoặc phải đi một quảng đường thật xa mới có thể chữa trị được
Vấn đề sức khỏe: Tỉ lệ tử vong trẻ, thiếu các phương tiện phòng ngừa, phương
pháp vệ sinh, nước sạch, và thuốc men Sự suy dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ nữ, phụ nữ có
thai, và người già, đang phổ biến ở những khu nhà ổ chuột và một số vùng quê nghèo.
Ngoài những điểm giống ở trên còn có điện, nước là lĩnh vực nhận được sự trợ cấp
của nhà nước. Nguồn nước không đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Hệ thống nước thành
thị thì quá cũ, nước rỉ ra đang gia tăng,…
Vận tải ngoại thương: Khách du lịch là lượng khách hàng tương đối ổn định cho
doanh nghiệp thương mại. Các phương tiện đang vận hành hết công suất, tuy nhiên chúng
cần được xem xét sửa chữa cũng như mở rộng.
Vận tải nội địa: Quốc gia này cũng có hệ thống xe buýt công cộng. Phí xe buýt cực
kỳ thấp bởi vì được sự hỗ trợ của nhà nước.

Câu 4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Về phân cấp hành chính thì chính quyền trung ương nên tập trung nghiên cứu và
phát triển nông nghiệp nhiều hơn nữa bởi vì nước ta hiện tại là nước nông nghiệp và chi
tiêu cho đầu tư vào nông nghiệp chưa được tương xứng với vai trò đóng góp chính của
lĩnh vực này trong GDP, xuất khẩu và sử dụng lao động
Về quản lý nguồn thu ngân sách: Quản lý nguồn lực công là một quá trình kỹ
thuật cao đòi hỏi một hệ thống cơ quan được vận hành tốt và nguồn nhân lực nhiều kỹ
năng. Hệ thống lập kế hoạch và ngân sách với sự kết hợp của 3 nhân tố chính:

Lập kế hoạch và chi ngân sách phải được cân nhắc trên cơ sở nguồn lực hạn
chế giữa các chương trình theo cách phù hợp giữa các mục tiêu toàn diện và các chính
sách vĩ mô.
Tổng nguồn thích hợp được xây dựng từ các nhà làm chính sách phải được đưa
vào ngân sách và chi tiêu cho chương trình đã dự định.
Tiền chi tiêu phải được ghi nhận do đó việc sử dụng nguồn lực công có thể
được tính toán một cách minh bạch và đúng lúc.

×