Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế: Khủng hoảng tài chính thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.63 KB, 65 trang )


Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận môn Tài chính Quốc tế 1




Tiểu luận tài chính quốc tế
Khủng hoảng tài chính thế giới

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 2
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh
vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007 cho đến tận nay. Nó
là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009. Thông qua
quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước,
cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ
vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế
giới.
Theo quan điểm của nhóm về đề tài thảo luận, đây là một đề tài hay có tính thời
sự, được rất nhiều người quan tâm. Song với đề tài thảo luận này thì đây là một đề tài
rộng và sâu vì nó mang tính bao quát về nền kinh tế thới giới và nền kinh tế Viêt Nam.
Với những kiến thức đã được học, bài thảo luận của nhóm nói một cách bao quát về
nguyên nhân, diễn biến, tác động và các giải pháp nhằm vượt qua khủng hoảng của các


quốc gia trên thế giới và Việt Nam.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009 bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống
ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy
mô lớn ở nhiều nước trên thế giới. Vậy cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của thế kỷ 21 xuất
phát từ đâu? Điều gì đáng để chúng ta tìm hiểu trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống tài chính. Sau đây nhóm đi vào thảo luận các vấn đề trên.







Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
MỤC LỤC 2
NỘI DUNG 5
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1.1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính 5
1.2. M ột số dấu hiệu của khủng hoảng t ài chính 6
1.3. Các loại khủng hoảng tài chính
2. NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 7
2.1. N guyên nhân 7
2.1.1. Sự suy sập của thị trường bất động sản 7
2.1.2. Cho vay dưới chuẩn 12

2.1.3. Một số nguyên nhân khác 14
2.2. Diễn biến 17
2.2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Mỹ 17
2.2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại các nướ khác 22
2.2.3. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Việt Nam 24
3. TÁC ĐỘN G CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI 28
3.1. Đối với nền kinh t ế M ỹ 28
3.2. Đối với khu vực sử dụng đồng Euro 32
3.3. Đối với khu vực Châu Á 34
3.4. Đối với nền kinh tế Việt Nam 36
4. GIẢI PHÁP NHẰM VƯỢT QUA KHỦNG HO ẢNG 42
4.1. Giải pháp của các quốc gia, tổ chức trên thế giới 42
4.2. Giải pháp của Việt Nam 50
4.2.1. Giải pháp về chính sách tài chính 50
4.2.2. Giải pháp về chính sách tiền tệ 54
4.2.3. Giải pháp nhằm hạn chế thâm hụt ngân sách 59
4.2.4. Giải pháp nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng 59
KẾT LUẬN 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 4
DANH MỤC CÁC B IỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ 8
Biểu đồ 2: Lượng cung nhà ở M ỹ giai đoạn 2000-2007 9
Biểu đồ 3: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 9
Biểu đồ 4: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 11


Biểu đồ 5: Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở 11
Biểu đồ 6: Chúng khoán tài trợ bằng tài sản chưa thanh toán của M ỹ 13
Biểu đồ 7: Chỉ số Dow Jones 2006-2008 28
Biểu đồ 8: Giá dầu 1998-2008 29
Biểu đồ 9: Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp 33
Biểu đồ 10: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của một số quốc gia trong EU 34
Biểu đồ 11: Kim ngạch XNK các thị trường chủ yếu năm 2008-2009 39
Biểu đồ 12 : KNXK sang một số thị trường lớn từ năm 2007 đến năm 2009 39
Biểu đồ 13: Cấu trúc tài sản trong bảng cân đối tài sản của FED, 6/28/2007-1/15/2009 45
Biểu đồ 14: Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007 47





Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 5
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1: Cho vay dưới chuẩn của Mỹ 12
Hình 2: Mức độ ảnh hưởng khủng hoảng của các nước 31
Hình 3: Gói cứu trợ kinh tế của Mỹ 44

DANH MỤC CÁC BẢNG



Bảng 1: Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng
hoảng Mỹ 21
Bảng 2: Số liệu về thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2009 của EU 33
Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ năm 2004-2010 55
Bảng 4: Biến động biên độ dao động tỷ giá USD/VND năm 2007-2009 56








Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 6
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
Cả thế giới đang phải chao đảo gánh chịu hậu quả của cơn bão khủng hoảng tài
chính. Khủng hoảng đem tới thách thức và cơ hội cho những ai biết nắm bắt thời cơ.
Nhưng thực chất, khủng hoảng tài chính là gì?
Hiện chưa có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhưng ở góc độ vĩ mô nhưng
có thể hiểu
khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản
của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Khủng hoảng tài chính

xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá so với nguồn cung. Nhu cầu tiền mặt của người dân hay
của nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính
khiến cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có thể sụp đổ. Trong nền kinh
tế thế giới hiện đại sự lây lan của khủng hoảng tài chính thường đi kèm với sự khủng
hoảng kinh tế kéo dài.
1.2. Một số dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế tài chính
Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây:
- Là sự mất giá của các đồng tiền quốc gia, tình hình nợ nước ngoài mất khả năng
thanh toán mà chủ yếu là nợ ngắn hạn và sự lạm phát gia tăng.
Ví dụ như cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997: Thái Lan đã phải thả nổi đồng Bath
và nó đã mất giá khoảng 20% so với đồng USD.
- Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán suy sụp.

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 7
Cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997 chỉ số chứng khoán các nước giảm nghiêm
trọng như: Hong kong: 27%, Malaysia: 68%, Thái Lan: 75% …
- Phá sản và thất nghiệp tràn lan. Điển hình nước Mỹ, tập đoàn Lemon Brother Bank
phá sản, Citygroup đã phải sa thải hàng ngàn nhân viên…
- Sản xuất đình trệ, tốc độ tăng trưởng giảm sút.
- Đầu tư phát triển không kiểm soát nổi.
1.3. Các loại khủng hoảng tài chính:
 Khủng hoảng ngân hàng: Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt
rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi
khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các
khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách
hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi.

Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống.
Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên do lo
ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố
gây ra khủng hoảng tài chính.
 Khủng hoảng trên thị trường tài chính: Khủng hoảng trên thị trường tài chính
thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại
của các “bong bóng” đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của
Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân
sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào bản tệ,
và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ
cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng.
Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa
nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại
hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu), nhưng không nhằm
mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 8
nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó.
Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các
nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ
mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra
khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá.
 Khủng hoảng tài chính thế giới: Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột
phá giá đồng tiền của mình hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ
quốc gia, gây khủng hoảng tiền tệ.
 Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế: Các tập đoàn thường vướng

vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn,
không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay đầu tư
và phá sản; và do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, các doanh nghiệp
không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng
khủng hoảng.
2. NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
2.1. Nguyên nhân
2.1.1. Sự suy sập của thị trường bất động sản:
Trước khi nghiên cứu nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính, chúng ta nên
tìm hiểu sơ qua về diễn biến thị trường bất động sản và tài chính M ỹ từ năm 2001 để hiểu
rõ hơn về cuộc khủng hoảng này.Đặc điểm của thị trường bất động sản Mỹ vào đầu thế
kỷ 21 tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Ở Mỹ hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn
vốn trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó, với lãi suất thả nổi (điều chỉnh tăng theo
thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất
động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà
cửa lên cao; khi lãi suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng thị trường bất động sản:

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 9
Thứ nhất, từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 tháng 9, khi mà sau
vụ khủng bố giá các cổ phiếu Mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự
trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ
lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là
trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ
còn 1%. Điều này đã dẫn cung tiền cơ sở tăng ở mức 5% đến 10% trong suốt giai đoạn

2001-2004. FED tăng dần và trở lại mức 5,25% vào tháng 6 năm 2006 để kiểm soát lạm
phát, đến gần cuối năm 2007 FED bắt đầu cắt giảm lãi suất để chống suy thoái kinh tế,
đến cuối năm 2008 lãi suất chỉ ở mức 0.25%.
Biểu đồ 1: Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh).

Nguồn:
Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của
Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ
dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo
trợ bởi chính phủ là Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage
Association – gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal
Home Loan M ortgage Corporation - gọi tắt là Freddie M ac). Hai công ty này giúp đổ vốn
vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng
thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 10
chấp
(mortgage-backed securities - MBS)
, rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall,
đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Biểu đồ 2: Lượng cung nhà ở Mỹ giai đoạn 2000-2007

Nguồn:
Biểu đồ 3: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007

Nguồn:

Nguyên nhân: chính là sự thay thế Đạo luật bức tường lửa Glass-Steagall bởi Đạo
luật Glamm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng thương mại được tham gia vào các
lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm như nghiệp vụ chứng khoán hóa và bán các khoản vay bất
động sản khiến nhiều ngân hàng đẩy mạnh cho vay bất động sản dưới chuẩn, nhằm thu về
những khoản lợi lớn. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn nắm giữ một lượng khá lớn các
khoản chứng khoán phái sinh này, một phần do không bán được, một phần do mua của
ngân hàng khác nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư. Các ngân hàng cho vay bất động sản

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 11
thua lỗ khi thị trường bất động sản bị vỡ bong bóng và nhiều khoản cho vay không thu
hồi được, cộng với các khoản chứng khoán bất động sản bị giảm giá không phanh.
Ba là khế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chứng khoán (chứng
khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao dịch mua bán
lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường mua đi bán lại, nhiều người đầu tư
cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này mà họ không
hiểu rõ, chỉ biết hàng năm được tiền lãi.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm M BS là vô
cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính
phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên
phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để
các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm
hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
Bong bóng bất động sản:
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người
thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được
vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới

hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất
6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời
điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất
dưới chuẩn (subprime rate).
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho
nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên
540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong
việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn
từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại M BS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước
năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 12
cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ
các công ty bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng
mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản
liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt
đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà
sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả
năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do
đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Biểu đồ 4: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007

Nguồn:
Biểu đồ 5: Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở.



Nguồn:

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 13
Khi mọi việc kinh doanh đang hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì không ai có thể cản nó
được. Như một cỗ xe đang lao dốc theo đà tham lam và hám lợi đó, không ai có thể cản
lại được cho đến khi khủng hoảng nổ ra. Câu chuyện đó không có gì là lạ đối với thị
trường tự do. C.M ác đã khái quát là nếu tỷ suất lợi nhuận lên 300% thì tự treo cổ mình
lên nhà tư bản cũng sẵn sàng làm.
Khi các ngân hàng chạy theo lợi nhuận một cách quá tham lam, cộng với thể chế tài
chính cho phép, hàng loạt các khoản nợ đã chồng lên nợ và đã được biến thành cổ phiếu
thông qua quá trình trái phiếu hóa. Thực tế, người tiêu dùng M ỹ đã vay khá nhiều để tiêu
dùng, sinh viên trả tiền ăn học nhưng do kinh tế đi xuống, họ khó có khả năng trả được
nợ do đó chính sách giãn nợ và hỗ trợ thị trường này cũng rất cần thiết, thậm chí là vấn
đề cấp bách.
Ví dụ, Fannie M ae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với
gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị giá các khoản vay
này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie M ae có thể biến khoản này thành 100.000 MBS, trị
giá 2.000 USD một phần và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư A mua 10 MBS
thì sẽ trả 20.000 USD.
Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc
được chuyển đến hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung
gian) trong một khoản thời gian nhất định nào đó.
Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công ty bảo
hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các

nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được gọi là credit default swap (CDS), với mục đích
bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền mua nhà
không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường. Trong thời kỳ hoàng
kim, việc kinh doanh bảo hiểm CDS đã đem lại cho AIG nhiều món lợi khổng lồ. Tuy
nhiên, chúng trở thành rắc rối chính của người khổng lồ này khi thị trường bất động sản
đi xuống và rủi ro tín dụng vùn vụt tăng cao.
2.1.2. Cho vay dưới chuẩn:

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 14
Hình 1: Cho vay dưới chuẩn của Mỹ

Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín
dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm làm nảy sinh những dòng
vốn vay giá rẻ và gia tăng một lượng lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ
làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dễ dàng trong việc
định giá lại tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh
đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất
thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ những
tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân
hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi. Về phía ngân hàng, tuy hình thức
cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi
suất rất cao. Mặt khác các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một
cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài
chính gọi là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”.
Biểu đồ 6: Chúng khoán tài trợ bằng tài sản chưa thanh toán của Mỹ


Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiết khấu
cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hoá các khoản phải

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 15
thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro
chồng rủi ro, và đương nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng
thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín
nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản M ỹ
và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các
nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất động sản không bán
được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các ngân hàng
không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản.
Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân cho cuộc
khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn.
Nguyên nhân: Năm 1995, chính phủ nới lỏng quy định về nhà đất bằng cách sửa
lại Luật Tái đầu tư Công cộng. Điều luật gia tăng sức ép lên các ngân hàng, buộc họ phải
tạo điều kiện cho những người có thu nhập thấp vay tiền mua nhà.
Và người có ảnh hưởng nhất trong cuộc khủng hoảng này theo tạp chí Time của
Mỹ bình chọn Agelo Mozilo đồng sáng lập ra Countrywide – nhà cho vay thế chấp lớn
nhất nước Mỹ đã hưởng ứng nhiệt tình phong trào “cho vay thế chấp”.Trong phong trào
này, Countrywide đã giúp bất cứ người M ỹ nào cũng có thể vay tiền dù người đó chưa
chắc có khả năng trả nợ, từ giám đốc 1 công ty cho tới một cậu sinh viên Hardvard ngay
cả nhưng người sống ở những khu phố ổ chuột.
2.1.3. Một số nguyên nhân khác
2.1.3.1. Mua bán khống

Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay
dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp
lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua
và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng
trọn. Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale),

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 16
tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi
dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
2.1.3.2. Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư
cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này
trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền. Danh mục cho
vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn
theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao
nhưng rủi ro cũng lớn. Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là
công ty tài chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ
vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở M ỹ tăng nóng.
Quá trình này đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán có tính
thanh khoản cao.
Các món vay dưới chuẩn được chứng khoán hoá đưa ra giao dịch trên thị trường
nhưng chưa có một quy trình, phương pháp đánh giá một các đúng đắn làm giá cả của các
loại chứng khoán này trên thị trường cao hơn giá trị thực của nó. Điều này là kết quả của
sự móc nối, liên kết giữa ngân hàng và các công ty định mức tín nhiệm trong việc đánh
giá giá trị của các loại chứng khoán.
Với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các công cụ chứng khoán tái sinh và

hoạt động mở rộng chứng khoán hoá làm cho các đơn vị kiểm toán và phân tích tín dụng
gặp khó khăn trong việc thu thập và phân tích, xử lý thông tin xuyên qua nhiều lớp thao
tác kỹ thuật để đánh giá về giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản của các
công ty và ngân hàng.
Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa K ỳ trước khủng hoảng không đủ
năng lực giám sát các rủi ro này. Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi
sự cố đối với bong bóng thị trường bất động sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất
lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân
hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 17
hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền
gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh
chóng hơn.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế
2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm
chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không
làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người
Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà
khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
2.1.3.3. Khủng khoảng niềm tin
Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ đã
làm người dân M ỹ và tiêu dùng ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là khi ở các nước phát
triển là một nền kinh tế tiêu dùng.
Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên mong manh khi mà ba
trong năm ngân hàng lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch, Lehman

Brothers, Bearstearns.
Thị trường tài chính dựa trên nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói
mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman Brothers là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy
đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. Một ngân hàng tồn tại hơn
158 năm đã cùng người Mỹ trải qua rất nhiều khó khăn, trải qua các cuộc suy thoái cùng
nước M ỹ lại sụp đổ. Quả thật là một cú sốc lớn đối với toàn bộ người dân Mỹ.
2.1.4. Sự lầm tưởng sức mạnh của nước Mỹ
Đã từ lâu từ sau chiến tranh thế giới thứ II, người dân Mỹ vẫn nghĩ họ là một quốc
gia hùng mạnh với kinh tế “khỏe mạnh”. Họ vẫn nghĩ mình là nước giàu có hơn bất kỳ
quốc gia nào. Cùng với những hình thức thanh toán mới, người tiêu dùng nhiều hơn
trong khi bản thân họ không thể sản xuất đáp ứng được nhu cầu đó. Hàng năm người dân

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 18
Mỹ tiêu thụ một lượng hàng hóa mà họ không có khả năng chi trả khoảng 80 tỷ USD.
Người dân Mỹ không có xu thế tiết kiệm trước khi khủng hoảng diễn ra.
2.2. Diễn biến
2.2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Mỹ:
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét
nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự kiện
chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào:
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% /năm. Sự bùng nổ nhà đất ở M ỹ bắt đầu.
Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở M ỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất
tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị
trường.

Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại M ỹ hồi
giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho
vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi tịch thu để thế chấp
nợ, tăng 79% từ năm 2006.
 Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp
và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ -
quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay
bất động sản dưới chuẩn ở M ỹ.

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 19
 Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ
USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
 Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và
vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân
hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá
lớn.
 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư M ỹ JP Morgan Chase
với giá 2 đôla một cổ phiếu.
 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ
trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các
chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
 11/7/2008: Chính quyền liên bang M ỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyM ac

Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau
khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
 31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ
USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một
trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát
hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
nhà đất Mỹ.
 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính
mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
 14/9/2008: Bank of America cho biết sẽ mua M errill Lynch với giá 29 USD/cổ
phiếu sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 20
 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở
lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Lehman
Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại M ỹ; Merrill Lynch bị Bank of America
Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất
khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các
thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của
hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm
85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một
phần tài sản tại Bắc M ỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và M organ Stanley giảm mạnh; Tập đoàn
Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán M ỹ kiềm chế tình

trạng bán khống.
 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế
hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch
hệ thống tài chính.
 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân
hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa
năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm
hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và
Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất
Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan
Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaM u và sau đó bán
các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPM organ Chase & Co. với giá 1,9
tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 21
trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc
hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính
Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm
gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
 1/10/2008: Thượng viện M ỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-
25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập
cho doanh nghiệp và cá nhân (dự tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn
mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên

250.000 USD.
 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần
thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó,
Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.
 Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên
bang M ỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các
nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
 Ngày 14/10/2008: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải cứu 700
tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các ngân
hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban đầu
Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần.
 Ngày 11/12/2008: giới tài chính quốc tế phải xôn xao vì vụ gian lận tài chính lên tới
50 tỷ USD ở Phố Wall, mà “tác giả” lại chính là một trong những nhà giao dịch chứng
khoán huyền thoại của nước M ỹ, đồng thời là một cựu chủ tịch của sàn chứng khoán
Nasdaq - ông Bernard L. Madoff.
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối quan hệ tín dụng
đan xen nhau chằng chịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đã

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 22
nhanh chóng lây sang các nước khác. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiện nay ẩn chứa
nhiều nguyên nhân sâu xa và sẽ gây ra nhiều tác động lớn hơn nhiều so với những cuộc
khủng hoảng tài chính trước đây.

Bảng 1: Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng hoảng Mỹ


Tên

Quy mô

Thi

t h

i

Gi

i pháp



1

Lehman
Brothers
T

ng tài s

n: 639 t


đôla

Tổng vốn góp cổ phần: $22490

tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 26200
người
Là một trong 4 ngân hàng đầu tư

lớn nhất của Hoa Kỳ
Nợ ngân hàng: 613 tỷ
đôla
Nợ trái phiếu: 155 tỷ
đôla
Cổ phiếu mất giá trên
90% vào ngày
15/09/2008
15/09/2008: nộp đơn phá sản theo
chương 1 Luật Phá sản Mỹ
Là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử
Hoa Kỳ
2 Merrill Lynch
T

ng tài s

n: 1,02 nghìn t


đôla

Số lượng nhân viên: 60.000
người
Xếp thứ 32 trong danh sách

Global 2000 (các công ty lớn
nhất thế giới)
Thua l


quý IV/2007:
9,83 tỷ đô
Thua lỗ ròng quý
I/2008: 1,97 tỷ đôla
mất giá tài sản (2007):
16,7 tỷ đôla
Bán cho ngân hàng Mỹ (BoA) với giá
50 tỷ đôla
3
AIG

T

ng tài s

n: 1,05 nghìn t


đôla

Tổng vốn góp ổ phần 78,09 tỷ
đôla
Số lượng nhân viên: 116.000
người
Xếp thứ 6 trong danh sách

Global 2000 (các công ty lớn
nhất thế giới)
Cổ phiếu mất giá 60%
vào ngày 16/09/2008
Thua lỗ 6 tháng đầu
năm 2008: 13,2 tỷ đôla
16/09/2008: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ

(FED) cấp tín dụng 80 tỷ tương
đương 79,9 % cổ phần
4
Countrywide
Financial
T

ng tài s

n: 211 t


đôla

Là tập đoàn chiếm 20% tổng thế
chấp của Mỹ, tương đương
3,5 GDP
Tổ chức tiết kiệm và cho vay lớn
thứ 3, đồng thờ
i là ngân hàng có
tốc độ phát triển nhanh nhất
trong lịch sử nước Mỹ

Thua lỗ (2007): 2,5 tỷ
đôla
Mất giá tài sản (2007):
1 tỷ đôla
01/07/2008: Bán cho ngân hàng Mỹ
với giá 4,1 tỷ đôla
5 Bear Stearns
T

ng tài s

n: 350,4 t


đôla

Tổng vốn góp cổ phần: 66,7 tỷ
đôla
Số lượng nhân viên: 15.500
người
Là công ty chứng khoans lớn thứ

7 thế giới
Thiệt haiij quý IV/2007:
859 triệu đôla
Mất giá tài sản (2007):
1,9 tỷ đôla
30/05/2008: Bán cho
JP Morgan Chase
với giá 1,1 tỷ đôla

6 IndyMac
Tổng tài sản: 32 tỷ đô
Là tổ chức cho vay và gửi tiết
kiệm lớn nhất ở Los Angeles.
Đồng thời là tổ chức thế chấp
Ti

n g

i khách hàng: 19
tỷ đô
Chi phí 8,9 tỷ đô cho
bảo hiểm tiền gửi
Chi phí 541 triệu đô cho
11/07/2008: Tập đoàn Bảo hiểm Tiền
gửi Liên bang Mỹ FDIC tiếp quản

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 23
l

n th


7



Hoa K


các kho

n ti

n g

i
vượt mức bảo hiểm
7 Freddie Mac
T

ng tài s

n: 794,4 t


đôla

Tổng vốn góp cổ phần: 26,7 tỷ
đôla
Số lượng nhân viên: 5.281
ngườich
Là công ty công lớn thứ 20 trên
thế giới
là công ty tài chính lớn thứ 2 về
thế chấp tại Mỹ
Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ

đôla
Thua lỗ
quý II/2008: 821
triệu đôla
07/09/2008: FED kí hợp đồng bỏ ra 1
tỷ đô hỗ trợ cho Freddie Mac, đổi lại
giành quyền kiểm soát các cổ phiếu
ưu đãi đặc biệt của công ty này.
8 Fannie Mae
T

ng tài s

n: 882,5 t


đôla

Tổng vốn góp cổ phần: 44 tỷ
đôla
Là tổ chức hàng đầu trong thị
trường thế chấp dưới chuẩn
của Mỹ
Thua lỗ (2007): 2 tỷ
đôla
Thua lỗ quý II/2008: 2,3
tỷ đôla
07/09/2008: cùng với Freddie Mac bị
FED tiếp quản
9

New Century
Financial Corp
T

ng thu nh

p (năm 2006): 417
triệu đôla
Giá bán trên thị trường: 1,75 tỷ
đôla
Số lượng ngân viên: 7.200 người

Là tập đoàn cho vay dưới chuẩn
lớn nhất của Mỹ
Cổ phiếu mất 90% giá
trị (tháng 03/2007)
Giá trị thị trường giảm
xuống còn 55 triệu đôla
Nộp đơn phá sản theo chương 11
Luật Phá sản Mỹ
10
Ameri Bank
Tổng tài sản: 115 triệu đôla
Ti

n g

i khách hàng:
102 triệu đôla
Chi phí 42 triệu đôla

cho quỹ bảo hiểm tiền
gửi
19/09/2008: Tập đoàn Bảo hiểm Tiền
gửi Liên Bang Mỹ FDIC tiếp quản
11
Washington
Mututal Inc
T

ng tài s

n: 307 t


đôla

Washington Mutual là ngân hàng
tiết kiệm lớn nhất Mỹ
Thua l


53 t


đôla đ


từ tháng 6 và 17 tỷ đôla
trong 2 tuần gần đây
26/09/2008: Chính ph



ti
ế
p qu

n và
sau đó bán lại cho JP Morgan Chase &
Co với giá 1,9 tỷ đôla
12 Wachovia
Là ngân hàng lớn thứ 6 ở Mỹ
Tổng tài sản: 327,9 tỷ đôla
Giá c


phi
ế
u c

a
Wachovia đã sụt giảm
tới 81,6%, còn 1,84
USD/ cổ phiếu
Thua lỗ 9,7 tỷ đôla
trong nửa đầu năm nay
30/09/2008: bị bán lại hco Citi Group
với giá 2,16 tỷ đôla

Nguồn: IRIC tổng hợp
2.2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại các nước khác:

 Hệ thống ngân hàng
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 24
tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở
của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ
chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nhất là Anh,
Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền
gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng thẳng các ngân
hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford & Bingley plc của Anh phải
chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao
gồm Catholic Building Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và
Dunfermline Building Society phải chịu sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I
năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm
này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu hóa.
Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan giám sát tài
chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá cổ
phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3 Năm 2008
giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc
hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải
chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để

củng cố.
Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan
cho vay.
Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những
khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Sau đó, ngân
hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức.

Khủng hoảng tài chính thế giới



Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 25
 Thị trường chứng khoán
Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82. Chỉ số DAX ngày
2/3/2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 ngày 27/12/2007. Chỉ số CAC 40 ngày
2/3/2009 cũng xuống mức thấp kỷ lục 2534,45 điểm.
Tại TTCK châu Á chỉ số Sensex (Ấn Độ) giảm 3,4%, Taiwans Banchmark (Đài
Loan) giảm 4,1%, Singapore giảm 3,2%…
Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ tái
cơ cấu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính
Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối loạn. Chỉ số giá cổ phiếu
bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các ngày 8 và 10 / 10/ 2008.
 Thị trường tiền tệ
Trước hết, có thể khẳng định, khác với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á
năm 1997 - 1998 là khủng hoảng cơ cấu mang tính khu vực, cuộc khủng hoảng tài chính lần
này có mức độ trầm trọng hơn, không chỉ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà còn lan
sang các ngành sản xuất, dịch vụ, tác động ở quy mô toàn cầu, có khả năng kéo dài; không
đơn thuần trong lĩnh vực kinh tế (tài chính, thương mại, việc làm) mà còn là khủng hoảng
về thể chế, mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều chính
phủ trên thế giới đã bị sụp đổ do tác động của cuộc khủng hoảng này (Ai-xơ-len, Séc,

Hung-ga-ri ).
2.2.3. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Việt Nam:
 Hệ thống ngân hàng
Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng
hoảng tài chính đang diễn ra nhưng không phải là không có vấn đề. Những vấn đề mà hệ
thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh từ những yếu tố nội tại.
Nhiều ngân hàng thương mại và các công ty tài chính đã “không ngần ngại” đầu tư
vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần

×