Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Đặc điểm nghệ thuật Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.61 KB, 55 trang )

MỤC LỤC

Chương 1: Truyền kì mạn lục - áng thiên cổ hùng văn của văn học Trung đại Việt
Nam 7
1.1.Nguyễn Dữ - con người và thời đại 7
 !"#$%&'#(
Chương 2: Nội dung và giá trị nội dung của Truyền kỳ mạn lục 19
)'*$+$," /0$10234
)30516 7$89:+4
))%;$-603*$3))
<))'=/>?>$1$@$-65$AB?C@$-6+$<D
EF5=$=/,1$5-6$G$H$3IJ#H#,1=/?+
+*$59K, $AL$M$NO$>,PQR0C5@$-H
5$ABNS$,PQR0C5T,UC-H$"#VWX@V
?Y;1: +,# Z:[#L?R'*$C$>[,
*$ 1$ -H$ #,?>$$ 1$MU#\# [,QR$"$ZS$L$-6$,7
5M$,+7?]?=$=$,U;FR^$ #$" B<D
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………56
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam trải qua hàng nghìn năm xây dựng và phát triển, ngày
càng được định hình một cách rõ nét về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Qua các thời
kỳ văn học, nền văn học ngày càng phong phú hơn về mặt thể loại, lẫn nội dung
cũng đã được thay đổi để phù hợp hơn với thời đại. Có thể nói rằng, mỗi thời kỳ
văn học đều để lại những dấu ấn rất riêng trong tiến trình văn học nước nhà. Trong
đó văn học trung đại được coi là đặt nền tảng cho sự phát triển của văn học đến
ngày hôm nay, với nhiều thể loại như thơ, phú, văn tế, hát nói, ngâm khúc đã tạo
ra nhiều màu sắc cho thời kỳ văn học thời bấy giờ, cũng như là bước dạo đầu cho
nhiều thể loại mới ra đời và phát triển sau này.
Văn học Việt nam thời trung đại, do được tiếp thu những tinh hoa của văn
chương Trung Quốc, cộng với những sáng tạo độc đáo của riêng mình nên đã tạo


dựng được một hệ thống thể loại văn học rất đa dạng, phong phú. Thời kỳ văn học
trung đại, bắt đầu từ thế kỷ X, các thể loại văn chương như văn xuôi, thơ ca, đã
từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc. Nói như Nguyễn
Đăng Na - nhà nghiên cứu phê bình: “Văn xuôi tự sự Việt Nam không chỉ là một
bộ phận cấu thành của nền văn học dân tộc mà còn là ánh xạ phản chiếu trình độ
tư duy nghệ thuật của nền văn học đã sản sinh ra nó. Văn xuôi tự sự trung đại
cũng vậy, vừa phản ánh tư duy nghệ thuật của người Việt Nam vừa gắn liền quá
trình phát triển của văn học dân tộc”.
Trong tiến trình đó, thế kỉ XVI được xem là thời kì khởi sắc của văn xuôi
tự sự bằng chữ Hán. Với sự ra đời của thiên cổ kì bút Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ. Với tác phẩm này như Nguyễn Đăng Na nhận xét: “Đến với Truyền kì
mạn lục, Nguyễn Dữ đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào qũy đạo
nghệ thuật, bắt đầu cho việc văn học lấy con người làm đối tượng và trung tâm
phản ánh”.
Với Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã “chủ ý gây hiếu kỳ viết tiểu thuyết để
gửi gắm vào đầu ngọn bút” đưa văn học Việt Nam tiến đến một đỉnh cao mới.
Truyền kì mạn lục được ra đời và trở thành “thiên cổ kì bút”-(Vũ Khâm Lân). Nội
dung chủ yếu của Truyền kì mạn lục là chuyện tình đậm hương son phấn và
chuyện quái dị quỷ thần. Để chuyển tải thành công những nội dung ấy, nhà văn đã
sử dụng những yếu tố nghệ thuật hết sức đặc sắc, và ông đã sử dụng rất thành công
những thủ pháp nghệ thuật ấy. Để có thể biết và hiểu rõ hơn những thủ pháp nghệ
thuật mà Nguyễn Dữ đã sử dụng trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục này, tôi xin đi
đến đề tài “ Đặc điểm nghệ thuật Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”. Hi vọng
với đề tài này, sẽ khẳng định được rõ hơn những thành công và những đóng góp về
mặt nghệ thuật của Truyền kì mạn lục trong tiến trình văn học dân tộc Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Truyền kì mạn lục đã được nhiều nhà nghiên cứu văn học đánh giá cao ở cả
phương diện nội dung, cả giá trị nghệ thuật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm này. Có thể điểm lại
một số ý kiến đánh giá về nghệ thuật trong Truyền kỳ mạn lục:

Hà Thiện Hán trong lời Tựa Truyền kỳ mạn lục viết năm Vĩnh Định sơ niên
(1547): "Xem văn từ của sách thấy không ra ngoài phên dậu của Tông Cát nhưng
có ý khuyên răn, có ý nêu quy cũ phép tắc, đối với việc giáo hoá ở đời, há có phải
bổ khuyết nhỏ đâu!".
Lê Quý Đôn trong Nghệ văn chí phần Truyền kỳ ở Đại Việt thông sử
viết:"… trứ tác Truyền kỳ mạn lục gồm bốn quyển, văn từ trong sáng, mỹ lệ, được
người đương thời ngợi khen".
Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương loại chí" viết: "Sách Truyền kỳ
mạn lục bốn quyển, do dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại lược bắt chước cuốn Tiễn đăng
tập của nhà nho đời Nguyên".
Trong Tạp chí Văn học, số 10-2000, Đinh Phan Cẩm Vân trong bài Cái kỳ
trong tiểu thuyết truyền kỳ đã nhận định: “Nhìn chung yếu tố “kỳ” tạo nên sức hấp
dẫn bề nổi cho câu chuyện và truyền kỳ như được khoác một cái áo sặc sỡ, bắt mắt,
nhưng đó là cái áo trong tay nhà ảo thuật. Biểu hiện của cái kỳ còn ở tầng sâu hơn
chi phối tư duy nghệ thuật tác giả. Nó xử lý những yếu tố không gian, thời gian,
cách xây dựng hình tượng nhân vật theo một con đường riêng, nhuốm màu sắc hư
ảo, thần kỳ làm nên cái đẹp nội tại cho truyền kỳ”. Nguyễn Dữ “thường sử dụng
song song hai đơn vị thời gian: thời gian xác thực và thời gian hư ảo. Thời gian
trần thế là thời gian xác thực còn thời gian nơi cõi tiên, cõi mộng là thời gian hư
ảo”. Đây là những gợi ý quan trọng cho chúng tôi nghiên cứu đề tài này.
Về yếu tố văn học dân gian trong Truyền kỳ mạn lục, Bùi Văn Nguyên đã
khẳng định sự ảnh hưởng tiếp thu nền văn học dân gian trong sáng tác của Nguyễn
Dữ. Ông cho rằng, Nguyễn Dữ từ truyện dân gian đã tiếp thu và sáng tạo có chọn
lọc những yếu tố hoang đường, thần kỳ ấy vào tác phẩm của mình. Thần, tiên, quỷ,
ma quái… Xuất hiện trong tác phẩm của Nguyễn Dữ vừa tỏ ra rất gần gũi với
những hình ảnh dân gian tưởng tượng nhưng lại rất khác biệt bởi bàn tay nhào nặn
của người nghệ sỹ này. Tuy nhiên, sáng tạo của Nguyễn Dữ đã thực sự vươn tới
những đỉnh cao về phản ánh hiện thực, phản ánh con người trần thế, với cả khổ đau
và sung sướng, lo sợ và hy vọng.
Nguyễn Phạm Hùng trong bài Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, khẳng định: “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác
của Truyền kỳ mạn lục là một yêu cầu cần thiết không chỉ đối với việc nhận thức
hợp lý và khách quan những phản ánh nghệ thuật của tác phẩm, mà còn đối với sự
đánh giá thoả đáng vai trò và vị trí của nó trong tiến trình lịch sử”.
Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung Đại tập 1 đã
nhận định: “Không gian, thời gian trong Truyền kỳ mạn lục phát triển lôgic với
phương thức chuyển tải nội dung. Người đọc sẽ cùng các nhân vật của truyện
phiêu lưu trong thế giới huyền ảo ở bốn cõi không gian vừa phi quảng tính vừa cố
đònh và hình thành trong thời gian phi tuyến tính với độ đàn hồi ảo hóa có thể “co”
tám thập kỉ vào một năm hoặc đang từ hiện tại “nhảy” vào quá khứ của kiếp trước
và bước sang tương lai của kiếp sau”.
Giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII nhận định:
Truyền kỳ mạn lục đã “nâng thể loại truyện ngắn lên một bước phát triển mới,
khẳng định những bước đi vững chắc của văn xuôi bên cạnh thơ ca”. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Na cho rằng: bằng Truyền kỳ mạn lục, “Nguyễn Dữ đã phóng
thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người
làm đối tượng và trung tâm phản ánh” (“Đặc điểm văn học trung đại - những vấn
đề văn xuôi tự sự”). Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh trong lời giới thiệu tác
phẩm Truyền kỳ mạn lục đánh giá: “Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục
là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam”.
Trong số các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có công trình
nghiên cứu so sánh rất công phu của nhà nghiên cứu Đài Loan Trần Ích Nguyên:
“Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục” (dịch). Đây là
công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tỉ mỉ, công phu và khá đầy đủ về nguồn
gốc, nội dung, kỹ xảo, nội hàm của Truyền kỳ mạn lục, ảnh hưởng của tiểu thuyết
truyền kỳ Trung Quốc đối với tác phẩm này. Trần Ích Nguyên nhận xét: trong nghệ
thuật xây dựng tiểu thuyết, “Mạn lục ngôn ngữ văn tự thanh tân điển nhã; sự tu sức
điểm trang khiến cho chủ đề thêm sáng tỏ, so với Tân thoại cũng không thể nói đến
hơn thua”.
Những ý kiến đánh giá về Truyền kỳ mạn lục của các nhà nghiên cứu Việt

Nam thời hiện đại được trình bày trong các bài nghiên cứu: “Thử so sánh Truyền
kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại”; “Những biến đổi của yếu tố “kỳ” và “thực”
trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam” của Vũ Thanh; “Về mối quan hệ giữa Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục” của Phạm Tú Châu; “Tìm hiểu khuynh
hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ” của Nguyễn Phạm
Hùng.
Ngoài ra còn có thể kể đến ý kiến của Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký
coi Truyền kỳ mạn lục là áng "thiên cổ kỳ bút".
Trên đây là một số ý kiến đánh giá khách quan, cụ thể trong việc nghiên
cứu đặc điểm nghệ thuật Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, còn rất nhiều những
ý kiến,công trình khác nghiên cứu về tác phẩm,có thể thấy tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam trung đại cũng
như về sau này.
3. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần tìm hiểu những đặc trưng, đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm
- Thông qua việc tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật để thấy được những tư tưởng, quan
niệm của nhà văn. Từ đó có thể khảo sát đúng hơn về những giá trị nghệ thuật và
giá trị nội dung mà tác phẩm mang lại
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
Phạm vi nghiên cứu: Đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề hoàn thiện bài nghiên cứu của mình, tôi sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
NỘI DUNG
Chương 1: Truyền kì mạn lục - áng thiên cổ hùng văn của văn học Trung đại

Việt Nam
1.1. Nguyễn Dữ - con người và thời đại
Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI), năm sinh năm mất của ông hiện nay vẫn chưa
được rõ. Theo Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, Nguyễn Dữ là học trò của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1858), là bạn học của Phùng Khắc Hoan (1528 -
1613) nhưng theo tuổi tác vì ông làm quan trước khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê
(1526) thì có lẽ không phải. . Cha của Nguyễn Dữ là Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ
khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1496) đời Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ
là người làng Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc (nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương). Cũng có tài liệu ghi rằng quê ông ở xã Đoàn Tùng, huyện Ninh Khánh,
tỉnh Hải Dương.
Theo Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục (1777), thì Nguyễn Dữ thi hương
đỗ Hương cống, thi hội nhiều khoa trúng kỳ đệ tam, được tuyển bổ Tri huyện
Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Ông làm quan mới được một năm,
liền lấy cớ xa nhà, xin từ chức để về nhà hầu cha mẹ. Sau nhà Mạc cướp ngôi vua,
ông không thể ra làm quan, ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ bước chân đến
chốn thị thành.
Trong Bạch Vân am cư sĩ phả ký, Vũ Khâm Lâm có nói, sau khi không ra
làm quan ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa Nguyễn Dữ đã làm ra sách Truyền kỳ mạn
lục. Sau khi làm xong sách, Nguyễn Dữ đưa cho thầy xem và được Nguyễn Bỉnh
Khiêm sửa chữa nhiều, phủ chính trở thành “Thiên cổ tùy bút”. Trong bài tựa
Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm 1547 có đoạn: “Tập Lục này là trứ
tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ
triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ
nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi thi đậu Hương
tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng Tam trường, tùng được bổ làm quan Tri huyện
Thanh Tuyền. Mới được một năm, ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến
mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập Lục này để
ngụ ý”.
Về thân thế của Nguyễn Dữ, vì còn nhiều điều không rõ nên đã có hai giả

thuyết được đặt ra cho tác giả của Truyền kỳ mạn lục như sau:
Giả thuyết thứ nhất dựa theo lời của Nguyễn Phương Đề trong Công dư tiệp
kí, Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển
cho rằng Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Giả thuyết thứ hai mà Lại Văn Hùng dẫn theo Trần Ích Nguyên trong
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục lại cho rằng Nguyễn
Dữ là người đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lại Văn Hùng cho rằng “ Nguyễn
Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV và mất vào khoảng thập niên thứ tư
thế kỉ XVI, thọ 50 tuổi” và không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tuy còn nhiều nghi vấn xung quang thân thế của ông, nhưng chúng ta có thể
biết rằng: Nguyễn Dữ sinh ra vào khoảng cuối thế kỉ XV và lớn lên vào nữa đầu
thế kỉ XVI. Đây là thời kỳ nhà nước phong kiến Việt Nam đi vào con đường suy
yếu đã nhanh chóng trở nên trầm trọng. Chỉ trong vòng ba mươi năm từ khi Lê
Thánh Tông mất đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua đã có tới 6 ông vua lên
ngôi rồi bị giết hoặc bị phế truất. Có vị vua bị coi là “vua quỷ”, có vị bị coi là “vua
lợn”. Những gì mà Lê Thánh Tông – vị vua anh minh số một của nền phong kiến
Việt Nam cố công xây dựng đã nhanh chóng sụp đổ. Lê Hiền Tông đã từng than
thở về tình trạng quan trường hư nát và dù đã có chấn chỉnh nhưng vẫn không cứu
vãn được tình trạng suy vi đó. Đại Việt sử ký toàn thư đã viết: “ Sao mà những kẻ
tại chức đều bị vị, không nghĩ đến phép tắc của triều đình. Người vì nước quên nhà
thì ít, người bỏ phận thiếu chức thì nhiều, tha giàu bắt nghèo, không chừa thói cũ,
tham tiền khoét của vẫn theo lối xưa”. Thế rồi “chính sự phiền hà, lòng dân oán
hận”, “thổ méc bừa bãi”, “lại thêm đại hạn, đói khổ, nhân dân thất nghiệp, trộm
cắp nổi dậy. Vua hoang dâm xa xỉ, bất lực hoặc chết yểu. Các quyền thần đánh lẫn
nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, dây máu chốn kinh sư”. Chiến tranh loạn lạc khắp
nơi: năm 1511, Nguyễn Nghiêm loạn ở Sơn Tây, Hưng Hóa, năm 1515 loạn Phùng
Chương ở Tam Đảo, loạn Đặng Hân, Đặng Ngật ở Thanh Hóa, loạn Trần Công
Ninh ở Yên Lãng, Trần Cảo khởi binh đánh nhà Lê. Những cuộc chiến tranh ấy đã
khiến cho suốt cả vùng Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây đến Thanh Hóa và kinh đô
Thăng Long chìm đắm trong khói lửa chiến tranh. Thêm vào nữa là cuộc chiến

tranh Lê - Mạc, một cuộc chiến tranh dai dẳng quyết liệt, một cuộc chiến mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng viết:
Cá đầm, sẻ bụi vì ai đuổi
Núi xương, sông máu thảm đầy vơi
Với tình trạng ấy đã gây nên một sự xuống cấp, suy thoái trong hàng Nho sĩ.
Lê Quý Đôn đã từng than thở: “Từ năm Đoan Khánh trở về sau, lời bàn luận sáng
suốt bẵng đi, thãi cầu cạnh mỗi ngày một thịnh, người có chức ít giữ được phong
độ thanh liêm, nhún nhường, trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp có
việc thì rụt rè, cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dẫu người gọi là
bậc danh nho, cũng đều yên tâm nhận sủng vinh phi nghĩa, rồi nào thơ, nào ca,
trao đổi, khoe khoang, tán tụng lẫn nhau, tập tục sĩ phu thối nát đến thế là
cùng…”
Đứng trước một hiện thực như vậy, những nhà nho có khí tiết không thể
tránh khỏi sự ngơ ngác, sự chán chường bởi sự đổ vỡ của niềm tin, lí tưởng. Không
ít người đã từ quan mà về, trong số ấy có Nguyễn Dữ đã cáo quan mà về - phản
ứng ấy của ông là biểu hiện của một sự “phát phẫn” của một tri thức, một danh sĩ
trước thời cuộc. Nguyễn Dữ cảm thấy xã hội ấy không có chỗ của mình. Cáo quan
về viết Truyền kỳ mạn lục, đấy là một hiện tượng “phát phẩn trứ thư” của ông. Ông
dồn vào tác phẩm của mình những điều mắt thấy tai nghe với một mong muốn
khuyến khích điều thiện, răn phạt cái ác, thương xót kẻ cùng quẩn, oan khuất.
Tóm lại, căn cứ vào những tài liệu hiện còn, có thể biết được Nguyễn Dữ
thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng dùi mài kinh sử, ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi
thi và có thể đã xuất sĩ. Về sau có lẽ vì “đại thế bất an”, Nguyễn Dữ lui về ẩn dật,
viết Truyền kỳ mạn lục để ký thác tâm sự, thể hiện hoài bão của mình.
Truyền kỳ - thể loại văn học mới đặc sắc của văn học Trung đại Việt Nam
Truyền kỳ là thể loại truyện ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh
hành ở đời Đường. Kỳ nghĩa là kỳ ảo, kỳ lạ, nhấn mạnh tính chất hư cấu. Thoạt
đầu là chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc lập thành truyền kỳ. Có loại miêu
tả cuộc đời biến ảo như mộng Có loại ca ngợi tình yêu nam nữ Có loại miêu tả
hào sỹ hiệp khách. Từ đời Đường trở về trước, tiểu thuyết Trung Quốc về cơ bản

mới chỉ là mầm mống, tuy ở thời Hán, Ngụy, Lục triều có chút ít phát triển, nhưng
vô luận nhìn từ góc độ khắc họa nhân vật hay miêu tả tình tiết hãy còn đơn giản,
chưa đạt đến mức độ thành thục. Đồng thời, khái niệm tiểu thuyết cũng còn rất hỗn
loạn, thông thường trở thành tên gọi chung cho các loại ghi chép truyện lạ hoặc
truyện vặt lịch sử. Phải đợi đến đời Đường, tiểu thuyết Trung Quốc mới dần dần
trưởng thành, mới có được hình thức nghệ thuật tương đối hoàn hảo cũng như nội
dung đời sống xã hội tương đối rộng rãi và giành được vị trí không thể xem thường
trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Vào đời Đường, người ta vẫn chưa bỏ được cách nhìn lệch lạc truyền thống
đối với tiểu thuyết, nói chung vẫn gạt nó ra ngoài văn học chính thống. Bởi cách
“cấu tứ chuộng sự li kì”, cho nên nó được gọi là “truyền kỳ”. Có điều những người
sáng tác tiểu thuyết ngày một đông hơn, điều ấy nói rõ con đường sáng tác tiểu
thuyết vốn bị coi là “tiểu đạo” đã ngày một hấp dẫn mọi người, hơn thế, đã bắt đầu
trở thành hoạt động nghệ thuật có ý thức. Một người đời Minh là Hồ ứng Luân đã
có thể nhìn thấy điều đó, từng nói: “Những chuyện biến hoá kì lạ rất thịnh vào đời
Lục triều, có điều phần lớn là ghi chép lại những điều bịa đặt chứ đâu phải truyện
biến hoá, đến người đời Đường mới có sự cấu tứ li kì, mượn tiểu thuyết để gửi gắm
ngọn bút.”
Chúng ta thấy, về đại thể, truyền kỳ đời Đường có nội dung đa dạng, phong
phú xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục thường ngày và
mang đậm khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa. Vì thế, nó có vai trò lớn trong việc
đưa văn học viết hướng tới truyền thống văn hoá dân gian, đời sống hiện thực của
quần chúng nhân dân. Đồng thời, với thủ pháp nghệ thuât độc đáo là lấy kì ảo làm
phương tiện nghệ thuật để truyền tải nội dung về đời sống con người, truyền kỳ đời
Đường góp phần không nhỏ khẳng định giá trị hư cấu và tưởng tượng trong việc
phản ánh và lý giải hiện thực cuộc sống của tác phẩm văn học. Loại hình truyền kỳ
tiếp tục phát triển ở đời Tống, Nguyên (1279-1368). Cuối Nguyên, đầu Minh (thế
kỉ thứ XIV), có Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1341-1427) là tác phẩm truyền kỳ
nổi tiếng, tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ của Trung Quốc và có ảnh hưởng lớn đến
thể loại truyền kỳ các nước trong khu vực như: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…

Sang đời nhà Thanh (1644-1911), Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715)
đã làm rạng danh cho truyền kỳ Trung Quốc… Như vậy, truyền kỳ trải qua quá
trình hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền văn hoá Trung Quốc
đã trở thành một thể loại truyện ngắn cổ điển mang đặc trưng cho truyện ngắn
Trung Quốc nói riêng, truyện ngắn phương Đông thời trung đại nói chung.
Văn học Việt Nam thời trung đại là nền văn học trẻ, được “bứng trồng, cắt
chiết” từ nền văn học già Trung Quốc nhưng phải “hợp thổ nghi” cho nên văn học
trung đại Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của thể loại truyền kỳ Trung Quốc. Ở văn
học trung đại Việt Nam, nếu xét theo tên gọi thể loại mà tác giả gắn cho sáng tác
của mình thì số tác phẩm được gọi là truyền kỳ có khá ít. Trong số này được đánh
giá cao nhất là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVII). Tiếp theo đó là
một số tập sách như Truyền kỳ Tân Phả của Đoàn Thị Điểm, Công dư tiệp ký của
Vũ Phương Đề, Tân truyền kỳ của Phạm Quý Thích, Lan Trì kiến văn lục của Vũ
Trinh, Truyền văn tân lục của Nguyễn Diễn Trai (thế kỷ XVIII), Thánh Tông di
thảo, Hát đông thư dị, Vân nang tiểu sử,…
Tuy vậy nếu xét theo đặc trưng nêu trên của thể truyền kỳ (một truyện ngắn
có môtip kỳ quái, hoang đường) thì văn học truyền kỳ ở Việt Nam thời trung đại
lại khá phong phú. Chưa kể những ghi chép về thần thoại, truyền thuyết và cổ tích
dân gian (như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái lục…), ngay những sách ghi
chép về nhân vật, lịch sử, phong tục, tín ngưỡng,…những sách mà truyền thống
thư tịch học Đông Á trung đại gọi chung là truyện ký, đều có những dấu ấn rõ rệt
của sáng tác truyền kỳ. Một trong những quan tâm hàng đầu của các tác giả là ghi
chép những chuyện lạ, những điều khác thường xung quanh một nhân vật, một địa
danh, điều này khiến cho những ghi chép về nhân vật hoặc địa danh trở thành ghi
chép về các lời đồn đại theo hướng huyền thoại hóa, truyền kỳ hóa về nhân vật
hoặc địa danh ấy (ví dụ trong Nam Ông mộng lục, Tang thương ngẫu lục,hoặc
phần Trưng kỳ trong Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng…). Huyền thoại
hóa là phương thức hữu hiệu cho nhu cầu suy tôn các nhân vật có công xây dựng
các môn phái, chi phái tôn giáo. Ví dụ đối với đạo Phật ở Việt Nam, từ sách Thiền
tuyển tập anh ở thế kỷ XIII đến các thiên “bản hạnh” về sau, đều sử dụng bút pháp

truyền kỳ. Ngay đối với các sách sử ký, sử biên niên mà soạn giả hoặc tập thể soạn
giả chủ yếu đứng trên lập trường Nho giáo, với đầu óc duy lý khá rõ, người ta vẫn
tìm thấy hàng loạt chi tiết có màu sắc dị đoan, hoang đường (ví dụ: các ghi chép về
các hiện tượng mang tính triệu chứng cho sự xuất hiện đế vương, cho loạn lạc, giặc
giã…). Cảm thức vạn vật hữu linh và ý thức huyền thoại hóa như là đặc điểm của
thế giới quan và ý thức xã hội thời trung đại là cơ sở tư tưởng cho những trứ thuật
và sáng tác nêu trên (trạng thái này còn tồn tại cho đến khi tiếp nhận tư tưởng duy
vật và phương pháp thực chứng của phương Tây). Phạm vi của văn học truyền kỳ
theo nghĩa rộng ở thời trung đại, chủ yếu là ở những truyện ký lịch sử, dã sử.
Ở văn học hiện đại (thế kỷ XX), sáng tác truyền kỳ tương đối ít phát triển,
chỉ thấy có những sáng tác cổ tích viết cho thiếu nhi và một số tác phẩm khác, xuất
hiện những năm 80 - 90, ở đây yếu tố huyền thoại hoang đường trở thành một yếu
tố thẩm mỹ.
Di sản văn hóa truyền kỳ Việt Nam các thế kỷ trước chỉ mới trở thành đối
tượng riêng cho sự khảo sát, dịch thuật (ra chữ quốc ngữ) từ những năm 90 (thế kỷ
XX), ví dụ bộ truyện Truyền kỳ Việt Nam, 3 tập, Nxb Giáo dục H, 1999) do
Nguyễn Huệ Chi chủ biên, tuyển chọn được 246 truyện truyền kỳ của tác giả Việt
Nam từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỹ XX.
1.3. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, chia làm bốn tập, mỗi tập năm truyện, các
truyện đều được viết bằng văn xuôi, tản văn xen lẫn với biền văn và thơ ca. Trừ
“Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa”, các truyện còn lại đều có lời bình của tác giả hoặc
của một người có cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện đều xảy ra ở đời
Lý, Trần, Hồ hoặc Lê sơ.
Tên gọi Truyền kỳ mạn lục cho ta thấy tác phẩm được viết theo thể truyền
kỳ. Truyền kỳ là thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở
thời Đường. “Kỳ” nghĩa là ảo, không có thật, nhấn mạnh tính hư cấu. Thoạt đầu,
Truyền kỳ mô tả chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc lập. Có loại miêu tả
cuộc đời biến ảo như mộng, có loại ca ngợi tình yêu nam nữ, có loại miêu tả hào sĩ
hiệp khách… Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có đầy đủ đặc điểm này.

Ở Việt Nam, thuật ngữ truyền kỳ lần đầu tiên được xuất hiện trong đầu đề
tập truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Sau đó là Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích. Ngay từ khi mới ra đời
thể loại truyện ngắn truyền kỳ đã đạt được những thành tựu rực rỡ và là đỉnh cao
của văn xuôi dân tộc như Thánh tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục. Ngày nay, nhìn
lại quá trình phát triển của văn học Việt Nam trung đại, chúng ta thấy Truyền kỳ
mạn lục là đỉnh cao, trước và sau đó không có tác phẩm truyền kỳ nào sánh bằng.
Cũng giống như truyền kỳ đời Đường, Truyền kỳ mạn lục có nội dung đa dạng,
phong phú xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục thường ngày
và mang đậm khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa. Việt Nam và Trung Quốc có mối
quan hệ tương đối đặc biệt, đó là mối quan hệ láng giềng giữa hai nước rất gần gũi.
Hơn nữa, trước thế kỷ X, nước ta chịu ngót ngàn năm đô hộ của phong kiến Trung
Hoa, điều đó đã dẫn đến lẽ tất yếu của ảnh hưởng qua lại giữa văn học hai nước.
Nhiều bài viết và các công trình nghiên cứu đã cho chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng
khá sâu đậm của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam từ chữ viết đến thi
liệu, nhất là về thể loại. Theo PGS. TS Vũ Thanh, Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng
truyện của Cù Hựu chủ yếu là ở bút pháp thể loại. Đó là quá trình “ ăn lá nhả tơ”,
một sự học tập để sáng tạo. Bên cạnh việc ảnh hưởng sâu sắc của truyện truyền kỳ
Trung Quốc, Truyền kỳ mạn lục còn ảnh hưởng các câu truyện cổ có yếu tố kỳ lạ
của Ấn Độ, Campuchia hay Chiêm Thành…
Nhìn lại nền văn học Việt Nam trung đại, bắt đầu từ Việt điện u linh của Lý
Tế Xuyên( đầu thế kỷ XIV), chúng ta thấy, ở tác phẩm này đã chứa đựng những
yếu tố kì ảo. Nhà văn đã xây dựng hình tượng nhân vật của mình bằng bút pháp kỳ
vĩ và trên thực tế, tập truyện là một cuốn thần phả về những linh hồn bất tử của
nước Đại Việt. Nhân vật trong truyện hầu hết là những thần linh vốn là những anh
hùng dân tộc đã hiển thánh. Vì vậy, trong truyện đã thấp thoáng yếu tố của bút
pháp truyền kỳ và có thể đây là giai thoại mầm mống cho sự phát triển của truyền
kỳ sau này. Sau Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên là sự xuất hiện Lĩnh Nam
chích quái lục của Trần Thế Pháp (cuối thế kỉ XIV đầu thế kỷ XV). Đây là tập
truyện chép lại truyện dân gian nhưng đã có sáng tạo, Trần Thế Pháp đã tập trung

chép lại những truyện giàu yếu tố kì như truyện Đổng thiên vương, Truyện Rùa
vàng…
Việt điện u linh tập và Lĩnh nam chích quái lục là những tiền đề văn học cho
sự phát triển của thể loại truyền kỳ và Lý Tế Xuyên, Trần Thế Pháp là những nhà
văn đặt nền móng cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam. Cuối thế kỉ XV, Thánh Tông
di thảo, tương truyền của Lê Thánh Tông, đã là một bước tiến xa hơn nữa cho thể
loại truyền kỳ. Tập truyện là một sáng tạo độc đáo và đặc sắc, mang đầy đủ tính
chất bút pháp truyền kỳ với những truyện tiêu biểu như Lấy chồng dê, Tinh chuột,
Duyên lạ xứ hoa…
Nhưng chỉ đến Truyền kỳ mạn lục thì thể loại truyện ngắn truyền kỳ Việt
Nam mới thực sự được khẳng định. Sự ra đời của Truyền kỳ mạn lục đã đưa thể
loại truyền kỳ Việt Nam tới đỉnh cao và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong văn xuôi
tự sự Việt Nam.
Như trên đã nói, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của văn học
Trung quốc cho nên tất yếu, truyền kỳ Trung Quốc sẽ du nhập vào Việt Nam.
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị của Việt Nam do tác
giả Việt Nam sáng tác và mang tính dân tộc rất đậm nét: đề tài, bối cảnh cốt
truyện, nhân vật đều mang màu sắc Việt Nam. Việc ảnh hưởng văn học Trung
Quốc chỉ là một phần, còn văn học dân gian truyền thống và thành tựu của văn
xuôi tự sự Việt Nam mới là nguồn gốc có ảnh hưởng trực tiếp nhất. Trước đó, các
nhà văn chỉ ghi chép lại các truyện dân gian, các thần phả trong các đền miếu, hoặc
dựa vào truyền thuyết dân gian và ít nhiều thêm chi tiết cho câu chuyện được hoàn
chỉnh như “Lĩnh Nam chích quái lục” của Trần Thế Pháp, “Thiên nam vân lục”
của Nguyễn Hàng. Nhưng Truyền kỳ mạn lục thì khác, tác giả chỉ dựa vào một số
cốt truyện dân gian mà sắp xếp, hư cấu thêm và diễn tả bằng lời văn giàu chất nghệ
thuật khiến cho tác phẩm không phải chỉ là sự ghi chép đơn thuần mà thực sự là
một tác phẩm văn học có tính nghệ thuật cao. Việc sưu tầm, chỉnh lí, sửa chữa,
khai thác đề tài của dân gian là một quá trình có tình kế thừa và nâng cao liên tục.
Người đi sau tiếp bước người đi trước rút lấy những gì là tinh hoa của người đi
trước để thực hiện một bước xa hơn. “Từ Thức lấy vợ tiên” và “Người con gái

Nam Xương” là hai truyện mà Nguyễn Dữ đã tiếp thu trọn vẹn từ truyện cổ dân
gian. Nguyễn Dữ còn mượn môtip từ văn học dân gian như môtip lấy hồn hoa,
môtip người chết sống lại, môtip đồ vật cũ biến thành tinh hoa rồi hóa thành người,
môtip lạc vào thế giới kì lạ… Truyền kỳ mạn lục là sản phẩm của một giai đoạn
mới trong quá trình ảnh hưởng văn học dân gian từ cốt truyện kết cấu, ngôn ngữ
đến tư duy sáng tác. Đó là ảnh hưởng có ý thức. Nguyễn Dữ đã khéo léo khai thác
đề tài dân tộc, đặc biệt trong các truyền thuyết dân gian, đã vượt lên trên sự ghi
chép thông thường như trong “Lĩnh Nam chích quái lục” bằng cách hư cấu qua
hình tượng nghệ thuật. Trong “Lĩnh Nam chích quái lục”, thì sự ảnh hưởng của
văn học dân gian là rõ rệt, tác giả viết lại truyện dân gian một cách thứ tự có sắp
xếp. Truyện “Hà Ô lôi” là đỉnh cao của “Lĩnh Nam chích quái lục”, nhiều nhà
nghiên cứu coi đó là tác phẩm mở đầu cho thể loại truyền kì bởi nó có đầy đủ các
yếu tố của truyền kỳ. Với nhiều thế hệ, từ tác giả của Thánh Tông di thảo đến tác
giả của Truyền kỳ mạn lục, các nhà văn trung đại vẫn tiếp tục con đường của Lý Tế
Xuyên, Trần Thế Pháp nhưng không nhằm phản ánh một thế giới trong truyện cổ
tích, thần thoại hay truyện dã sử nữa mà đã trực tiếp chuyển sang phản ánh những
vấn đề xã hội, những câu chuyện được Nguyễn Dữ và Trần Thánh Tông mô phỏng
viết lại theo ý của mình phù hợp với xu thế đó. Cái thực đã lấn át cái kỳ, cái kỳ
không còn là mục đích chính, đôi lúc nó chỉ còn là phương tiện chuyển tải nội
dung hoặc để gây sức hấp dẫn cho tác phẩm. Đề tài về tình yêu được viết đến nhiều
hơn cả, các tác giả thường viết về truyện tình yêu, về mối quan hệ giữa con người
và ma quỷ, viết về tình yêu nhưng cũng chính là nhằm mục đích tố cáo xã hội, đề
cao đạo đức, công lý, phản ánh về số phận đầy đau khổ của con người, nhất là
người phụ nữ.
Truyền kỳ xuất hiện trong xã hội trung đại và cái kỳ trong xã hội đó là một
mặt của hiện thực đời sống chứ không chỉ là mê tín dị đoan. Bên cạnh đời sống
hiện thực, con người thời trung đại còn có một đời sống tâm linh phong phú với
các vị thần với những điều kỳ lạ, siêu nhiên và một quan niệm về thế giới bên kia.
Xung quanh họ cũng có biết bao điều kỳ lạ xảy ra, họ sống một cách hồn nhiên
trong môi trường như vậy, chính vì thế việc phản ánh cái kỳ cũng là phản ánh một

mặt của hiện thực cuộc sống, đặc biệt là đời sống tâm linh của con người.
Mặc dù Truyền kỳ mạn lục thực sự là tác phẩm văn học viết nhưng hình như
Nguyễn Dữ muốn bộc lộ thái độ khiêm tốn của người cầm bút. Ông muốn lí giải
với độc giả rằng, trước tác của mình không phải là tập sách có tính chất sáng tác
như các thể loại khác đương thời. Ông muốn người đời hiểu rằng công việc ông
làm chỉ “mạn lục” (ghi chép theo cảm hứng của ngòi bút) những sự việc lạ chứ
không phải là một sáng tác thực thụ. Nhưng thực sự, khi đọc toàn bộ tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục thì chúng ta có thể thấy thực sự không phải như vậy. Tập truyện
mặc dù mang tính siêu nhiên hoang đường, nhưng để phục vụ cho mục đích sáng
tác của mình. Nguyễn Dữ không câu nệ, ông sử dụng những yếu tố ấy một cách có
ý thức. Điều đó có thể dễ dàng nhìn thấy, như trong lời bình ở “Chuyện tướng Dạ
Xoa”, ông viết: “Than ôi! Bè bạn là một trong năm đạo thường có thể coi khinh ư?
Câu chuyện quỷ Dạ Xoa này, thật có hay không, không cần phải biện luận cho
lắm, chỉ có một điều đáng nói là sự giao du của Dĩ Thành, khi đã coi ai làm người
bạn chân chính thì sống chết không đổi thay, hoạn nạn cùng gỡ…”. Ông mượn
truyện quái để nói việc thực. Căn cứ vào tính chất của các truyện thì lại thấy rằng
không phải Nguyễn Dữ chỉ “chép ra và truyền lại” những truyện cũ. Và Truyền kỳ
mạn lục có tính chất một sáng tác văn học chứ không phải là một công trình “ghi
chép một cách tùy ý” đơn thuần.
Truyền kỳ mạn lục là một bước tiến lớn về mặt nội dung lẫn nghệ thuật.
Nguyễn Dữ là nhà văn Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ các nhà văn
viết truyền kỳ Trung Quốc, nhất là ảnh hưởng của Cù Hựu, tuy nhiên có điểm khác
về mặt nội dung nghệ thuật câu chuyện, không chỉ ở cái thần mà từ nhân vật đến
tình tiết đều góp sức làm toát lên làm nổi bật lên. Nguyễn Dữ đã dựa hẳn vào các
tích cũ, có trong dân gian và trong cả nền văn học đi trước để viết nên những thiên
truyện mới. Truyền kỳ mạn lục là một bước nhảy vọt về thể loại. Từ chỗ đóng vai
trò người sưu tập ghi chép mặc dù là ghi chép có sáng tạo, đến chỗ tự thân sáng
tác, từ chỗ chỉ phản ánh những hành trạng, sự hiển linh của các vị thần thánh, các
vua chúa, anh hùng dân tộc lấy trong các thần tích đền chùa hoặc trong dân gian
đến những tác phẩm phản ánh sâu sắc những xung đột xã hội, gần gũi với cuộc

sống bình thường của con người là cả một quá trình không đơn giản trong việc
hình thành tư cách nhà văn.
Tóm lại, Truyền kỳ mạn lục là những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian nhưng
thực chất mang tính chất xã hội đương thời. Qua sáng tác, Nguyễn Dữ đã bộc lộ
tâm tư, thể hiện hoài bão, phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề
trong xã hội với thái độ nghiêm khắc, khách quan.
Chương 2: Nội dung và giá trị nội dung của Truyền kỳ mạn lục
2.1. Những nội dung, chủ đề được đề cập trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục
2.1.1. Truyền kỳ mạn lục phản ánh đời sống chính trị và xã hội
Như đã biết, Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, với thời gian xảy ra trong
truyện là vào đời Lý, Trần, Hồ hoặc Lê sơ. Tất cả những sự kiện, khung cảnh bên
trong tác phẩm toàn bộ đều là của trước. Tác phẩm đã phản ánh rất chân thực sâu
sắc những hiện thực của cuộc sống đương thời. Nguyễn Dữ mượn những chuyện
lưu hành từ lâu trong xã hội, những câu chuyện cổ tích để viết lại những thiên
truyện mới nhằm bộc lộ tâm tư, phản ánh bày tỏ quan điểm về những vấn đề nóng
hổi của xã hội, của con người, trong lúc chế độ phong kiến trên đường khủng
hoảng và có đà sụp đổ.
Trong Truyền kỳ mạn lục có loại truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối
hủ bại của giai cấp phong kiến lúc suy thoái, đả kích hôn quân bạo chúa, những
con người tàn bạo, hèn kém, bất tài. Vua chúa hiện lên một cách hết sức thảm hại.
Hồ Hoán Hường trong Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na hiện lên là kẻ
“thường dối trá, tính nhiều tham dục…phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dung
vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong,quan chức có
tiền mua là được…”. Hay trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, con cáo và con
vượn đã hóa thành tú tài họ Viên và xử sĩ họ Hồ để vạch trần việc làm tàn bạo của
ông vua đương thời “giày trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn không phải chỗ,
quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt, không phải lẽ”.
Nếu đối với hôn quân bạo chúa, Nguyễn Dữ chỉ phê phán những hành động
sai trái của chúng, qua lời nói của các nhân vật, thì về bọn tham quan ô lại Nguyễn
Dữ dựng nên những nhân vật gian ác, hiểm độc. Lý Hữu Chi trong Truyện Lý

tướng quân là một tên tướng “có sức khỏe, giỏi chiến trận, nhưng tính vốn dữ tợn”.
Khi “quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép tắc, dựa lũ trộm cướp như
lòng ruột, coi người nho sĩ như kẻ thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không
chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn
đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ đá lạ từ bên huyện khác đem
về”. Khi thấy tướng số mách bảo: “Tướng quân có dữ mà không có lành, khinh
người mà trọng của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông than dục để thỏa
ngông cuồng, đã trái lòng trời tất bị trời phạt…” thì Lý cười một cách chủ quan:
“Ta đã có binh lính, có đồn lũy, tay không lúc nào rời qua mâu, sức có thể đuổi kịp
gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta sao
được”. Rồi khi nhìn thấy tận mắt những hình phạt thảm khốc đối với loại người
đầy tội ác như hắn, thì hắn ra vẻ muốn tìm phương cứu gỡ. Nhưng khi thấy nói cái
kế “cần kíp ngày nay chỉ còn cách đuổi hết hầu thiếp, phá hết vườn ao, trút bỏ
binh quyền quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được, nhưng cũng có thể giảm
trong muôn một”, thì hắn không nghe theo và lập luận rằng : “có ai lại vì lo cái vạ
sau này chưa chắc đã có, mà vứt bỏ công cuộc sắp thành làm hì hục trong mấy
năm bao giờ”. Sau đó “hắn càng làm những sự dâm cuồng, chém giết không kiêng
dè gì cả”. Dưới ngòi bút của tác giả, tính cách tham bạo xuất phát từ bản chất giai
cấp của nhân vật, đã được khắc họa rõ nét bằng nhiều tình tiết có lựa chọn. Khác
với Lý Hữu Chi, Trụ quốc họ Thân trong Truyện nàng Thúy Tiêu, nham hiểm và
thâm độc hơn trong mọi âm mưa của nó. Dư Nhuận Chi là thư sinh nổi tiếng hay
thơ, người vợ là Thúy Tiêu vào hạng sắc nước hương trời. Nàng theo chồng vào
kinh khảo thí, bị quan Trụ quốc bắt đem về. Thúy Tiêu căm uất định tự tử, tên
quan buộc lòng phải hứa hẹn sẽ cho nàng về với chồng cũ. Nhưng khi gọi Nhuận
Chi đến, y giữ Chi trong nhà mà chẳng bao giờ cho đôi bên gặp nhau. Nhuận Chi
đau khổ sợ hại đến thân, nên phải bỏ đi. Về sau nhờ người lão bộc giúp sức, Thúy
Tiêu được giải thoát, cùng Nhuận Chi bí mật trốn đi sống nơi khác. Tên quan Trụ
quốc này vừa tàn ác, trắng trợn vừa nham hiểm độc ác, vì hắn có “uy thế rất lớn,
các tòa, các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử”. Vì hắn “làm
quan đến ngôi thượng công, quyền cao lộc hậu, việc khoản đãi khách khứa, mỗi

ngày tốn phí lên đến hàng chuông thóc”. Nhưng bản chất của hắn thì như Thúy
Tiêu đã thấy: “chỉ là đồ hèn yếu mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy chọt, lúc
nào ở cửa cũng rộn rập những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng
chất đầy rẫy. Trừ ra gặp phải hỏa tai, của cải trong nhà ấy không biết có cách nào
tiêu mòn đi được”. Nguyễn Dữ đã nhìn thấy sự thật: bọn quan lại trong thời ông
nhiều kẻ không hề có lý tưởng trí quân trạch dân, mà lại dùng thủ đoạn xấu xa trèo
lên bậc thang danh vọng để vinh thân phì gia. Truyện đối tụng ở Long cung kịch
liệt tố cáo bọn quyền thần: “như nhà ngươi trước có công lao, nên ta cho coi giữ
một phương, vì dân che chở. Vậy mà ngươi dở thói dâm ngược, như thế là trừ tai
ngừa họa cho dân đấy ư”; “nay nhà ngươi vốn do huân phiệt, lạm giữ phương
ngung, lẽ nên linh hiển, để tỏ đức rộng, sao được tà dâm, làm theo nết rắn”.
Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu nói đến tình cảnh những bề tôi vì: “nói
thẳng mà bị người ta ghen ghét không để lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến
chỗ hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào nơi tử địa”. Bản chất xấu xa của bọn
quyền thần được phản ánh trong Truyền kỳ mạn lục như là một tình trạng phổ biến
thời bấy giờ. Truyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào thì lại qua ý kiến trao đổi
giữu Tử Hư và thầy học của mình mà tóm tắt tình trạng thối nát của quan lại nói
chung: “ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư
tử mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăm dân
mà dân bị tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc
tội oan uổng: lại còn những lúc thường bàn thì nói mồm mép bẻo lẻo, đến lúc trù
tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm
chí không nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng,
lớn thì làm việc bán nước,…nhỏ thì làm việc dối vua,…”. Vua quan thì như thế,
còn sĩ phu thì không ít kẻ cũng bị trụy lạc hư hỏng. Dương Trạm nói với học trò:
“ngày nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho…thường đổi họ để đi
học, thay tên để ra thi…”. Tình hình nho học đã suy đồi, việc học việc thi trở
thành bậc thang công danh bám đầy bùn nhơ. Kẻ sĩ chỉ chạy theo sự hưởng lạc đồi
bại. Trong Truyện kì ngộ ở trại Tây, Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường
lên kinh sư để ăn học, nhưng : “bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng” vì Hà say

sưa yêu dấu hai người con gái. Trong cuộc hoan lạc vụng trộm, Hà đã tán dương
những bài thơ đầy khoái lạc vật chất của tình nhân, rồi tỏ ra vốn là con nhà “thi lễ”,
Hà cũng làm thơ đáp lại sự may mắn trong cảnh bướm giỡn hoa phô với hai cô con
gái trai lơ dâm đãng đó.
Nguyễn Dữ đã phê phán gay gắt những thế lực thống trị tàn bạo nhưng ông
không chủ trương thay đổi triều đại mà mong muốn cải tạo một xã hội tốt đẹp hơn.
Cái ác phải bị trừng trị một cách thích đáng.
Trong cơn khủng hoảng của chế độ phong kiến, trước những biến động của
xã hội, nhiều tệ nạn đã nảy sinh. Chùa chiền vốn tôn nghiêm nhưng lúc này có biết
bao kẻ nấp bóng từ bi để làm điều vô đạo. Truyện nghiệp oan của Đào thị miêu tả
một cuộc tình duyên say đắm giữa một sư bác với một ả ca kỹ. Truyện cái chùa
hoang ở huyện Đông Trào cho ta thấy chân tướng của bọn người ẩn nấp trong
chùa. Đó là bọn vô lại chuyện nghề trộm cắp “từ gà lợn ngỗng ngan đến cá trong
ao, quả trong vườn, phàm cái gì ăn được đều bị mất hết”. Nguyễn Dữ đã thấy rõ:
nhà chùa lúc này hay chứa chấp những gian dâm, du đãng. Thầy chùa phần nhiều
là những kẻ đầy dục vọng, không theo được lối sống chân tu, khổ hạnh.
Nhìn chung thì qua Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã nghiêm khắc phê
phán những tệ lậu của chế độ phong kiến đang mục ruỗng, đã miêu tả rất thực diện
mạo và tính cách của giai cấp bóc lột. Và ít hoặc nhiều, tác phẩm cũng thể hiện
cảnh ngộ cùng cực của nhân dân.
2.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục
Kiệt tác Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du đã từng khái quát
về số phận đầy cay đắng của người phụ nữ trong xã hội xưa:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Trong tư duy của người trung đại, dường như là vạn vật đều có một số
mệnh mà người quyết định số phận ấy chỉ có thể là “xanh kia thăm thẳm từng

trên” phân phát bố trí cho mỗi con người, định trước cuộc đời của mỗi con người.
Con người đành phải an phận bởi lẽ “ phú quý tại thiên, tử sinh hữu mệnh”. Số
phận đã là điều bất khả tri thì đương nhiên sẽ là điều bất khả kháng: vui buồn hay
sướng khổ, phong trần hay thanh cao, thành công hay thất bại, từ thiên tử đến thứ
dân thảy đều có số.
Giữa một thời đại “hoàng hôn thế kỉ phủ bao la” ấy, ông cha ta đã từng
đấm nát tay trước cửa cuộc đời nhưng vẫn không thể tìm ra lối thoát. Cuộc đời
vẫn là một nỗi bi đát khôn cùng và ở đó, những con người yếu đuối nhất, hẩm
hiu nhất, đáng thương nhất vẫn là người phụ nữ.
Cũng như các nhà văn trung đại khác, trái tim tê tái yêu thương của Nguyễn
Dữ đã hướng về người phụ nữ mà đồng cảm, mà xót xa. Nguyễn Dữ đã cố gắng
tìm lời giải đáp căn nguyên của số phận ấy qua Truyền kỳ mạn lục. Truyền kỳ
mạn lục có 11 truyện viết về người phụ nữ thì tất cả đều có những số phận
riêng. Dù họ có xuất thân từ đâu, địa vị xã hội thế nào, dù họ sống tự do hay
tuân theo những đạo đức phong kiến, nếu không có một phép thần, nếu không có
một lực lượng siêu nhiên hay quý nhân phù trợ thì kết cục số phận vẫn vô cũng bi
thảm. Câu chuyện về cuộc đời của họ còn được gọi thẳng ra, trở thành tiêu đề của
truyện, như: Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Truyện nghiệp oan của Đào
Thị, Truyện nàng Thuý Tiêu, Truyện người con gái Nam Xương, Truyện Lệ nương.
Điều đó cho thấy ý thức rất rõ ràng của Nguyễn Dữ trong việc kể chuyện, nếu
không muốn nói rằng số phận của họ, cho dù là từ nguồn sưu tập trong dân gian
hay chính ông sáng tác, cũng là sự ám ảnh sâu sắc trong tâm hồn tác giả. Cho dù
những số phận ấy hiện ra khá đa dạng dưới ngòi bút Nguyễn Dữ, nhưng tất cả đều
giống nhau ở một điều, mà vì nó họ được tác giả "sinh ra", đó là: họ là những
người đồng hành trên hành trình kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Tất cả
đều ba chìm bảy nổi, đều bị dập vùi trong một xã hội phong kiến đã mục nát, suy
loạn, nhưng quyền tự do cá nhân cho con người vẫn là thứ phải trả bằng tính
mạng. Sau những gian truân ấy, có người may mắn tìm được hạnh phúc, có người
bị xô đẩy trong vòng luân lạc, oan trái, thậm chí chết trong bi thảm.
Những người được xem là may mắn thường là nhân vật chính của những

câu chuyện được xem như kết thúc có hậu. Đó là nàng Thuý Tiêu (Truyện nàng
Thuý Tiêu), Dương thị (Truyện đối tụng ở Long cung).
Tuý Tiêu là nàng ca kỹ tài hoa thông tuệ, được một ông quan tặng cho Dư
sinh, được Dư sinh đem lòng yêu thương nên kết duyên vợ chồng và sống hạnh
phúc bên nhau. Sắc đẹp của nàng khiến quan Trụ quốc họ Thân mê mẩn, nên nàng
bị y cướp về. Thương nhớ khôn nguôi, Dư sinh tìm cách liên lạc, hai người gặp lại
nhau, bàn mưu rồi trốn thoát khỏi sự cưỡng bức của Trụ quốc. Sau một thời gian
mai danh ẩn tích, gặp lúc Trụ quốc bị triều đình xử tội xa xỉ, Dư sinh đi thi và đỗ
tiến sĩ, hai người sống hạnh phúc đến già. Đây là câu chuyện duy nhất có một kết
thúc có hậu một cách trọn vẹn: người ở hiền thì sẽ gặp lành, kẻ ác phải bị trừng trị,
hạnh phúc đôi lứa trải qua gian nan lại được vẹn tròn. Cách sắp xếp câu chuyện
mang màu sắc cổ tích.
Bên cạnh ít ỏi những nhân vật phụ nữ được xem là may mắn như Thuý Tiêu,
Dương thị, còn lại phần lớn là những người bị xã hội, số phận đày đoạ trong đau
khổ. Đó là Nhị Khanh (Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Lệ nương (Truyện
Lệ nương), Vũ Thị Thiết (Truyện người con gái Nam Xương). Họ là những người
chung thuỷ, luôn chăm lo hiếu nghĩa, khao khát cuộc sống yên bình. Nhưng sống
trong xã hội loạn lạc, ly tao, họ bị xô đẩy ra khỏi nếp nhà yên bình, phải chịu đoạ
đày, bất công, và cuối cùng bị đẩy tới cái chết. Cay đắng nhất là số phận nàng Nhị
Khanh, một người “khéo biết cư xử với họ hàng rất hoà mục và thờ chồng rất cung
thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền”, lấy phải người chồng chơi bời lêu
lổng, lại gặp cảnh chiến tranh ly loạn, nhưng nàng vẫn một lòng một dạ thuỷ
chung. Được đoàn tụ với chồng sau nhiều năm xa cách, tưởng sẽ hạnh phúc ấm
êm, nào ngờ anh chồng quen thói chơi bời, mang vợ ra đánh bạc, đẩy Nhị Khanh
đến bước đường cùng phải thắt cổ mà chết. Cuộc đời đen bạc của Nhị Khanh có lẽ
điển hình cho cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời, những
người đức hạnh, chỉ biết hy sinh nhưng không bao giờ được đền đáp.
Nhìn lại tất cả các nhân vật phụ nữ được đề cập trong Truyền kỳ mạn lục ta
lại thấy: nếu như các nhân vật ấy là có thực thì dường như nhân vật nào cũng sống
theo những nguyên tắc đạo đức lễ giáo phong kiến (các nhân vật ở nhóm sáu

truyện trên: Ngô Chi Lan, Lệ Nương, Nhị Khanh, Dương thị, Thuý Tiêu, Vũ
Nương). Những nhân vật sống không theo những nguyên tắc đạo đức lễ giáo
phong kiến thì chỉ có thể là hoá thân từ những yếu tố không phải là người như từ
hồn hoa hoặc là người thì nhất thiết phải sau khi đã chết. Những nàng Liễu, nàng
Đào trong Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Giáng Hương (Từ Thức gặp tiên), Thị Nghi
(Truyện yêu quái ở Xương Giang), Nhị Khanh (Truyện cây gạo) Họ là ma, là
tiên, nhập vào đời sống trần gian để tìm bạn tình, tìm người tri âm, hưởng hạnh
phúc, khoái lạc. Nhưng rồi tình yêu và hạnh phúc với họ cũng thật ngắn ngủi,
niềm khát khao rất “người” của họ sớm bị dập tắt, và họ cũng nhận những kết cục
bi thảm như những người phụ nữ trần gian. Có người còn bi thảm đến mức phải
chết hai lần, như Hàn Than (Truyện nghiệp oan của Đào Thị), Nhị Khanh, Thị
Nghi.Vậy là làm người đã bất hạnh, làm ma những mong trì níu lại chút hạnh phúc
riêng mình, thì cũng bị dày xéo dập vùi đến mức thê thảm hơn.
Nói tóm lại, Truyền kỳ mạn lục, mặc dù đã trải qua mấy trăm năm nhưng
vẫn là một tác phẩm có sức hấp dẫn cao và mãi mãi chiếm được cảm tình của
người đọc. Đó là một tác phẩm, tuy mượn hình thức từ nền văn học già Trung
Quốc nhưng rõ ràng nó là sản phẩm của người Việt Nam, do người Việt Nam
viết, mang đậm nét tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam. Trái tim

×