Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Giáo trình quản trị nghiên cứu và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.96 KB, 74 trang )

Giáo trình
QUẢN TRỊ NGHIÊN CỨU
VÀ PHÁT TRIỂN
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
1
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NGHIÊN CỨU- PHÁT TRIỂN
TRONG KINH DOANH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
Sau khi nghiên cứu Chương I, học sinh cần nắm những nội dung cơ bản sau :
- Bản chất của công tác nghiên cứu và phát triển;
- Vai trò của công tác nghiên cứu và phát triển đối với các hoạt động kinh
doanh và sự phát triển của doanh nghiệp;
- Vị trí của công tác nghiên cứu và phát triển trong các hoạt động của
doanh nghiệp;
- Sự khác biệt giữa nghiên cứu- phát triển trong các lĩnh vực kỹ thuật-
công nghệ và khoa học xã hội.
I- Bản chất của công tác nghiên cứu và phát triển
1. 1- Khái niệm nghiên cứu và phát triển
Xét về bản chất, nghiên cứu là quá trình tìm tòi, phát hiện các tri thức, nhận
thức mới của con người về bản chất, cấu trúc, đặc điểm, quy luật vận động và
tác động của các hiện tượng, các sự kiện, các đối tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy (cùng với hành vi, ứng xử) của chính bản thân con người. Chúng có
thể giúp khẳng định, nhưng cũng có thể giúp phủ định những tri thức mà con
người đã có được trước khi tiến hành nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu còn có
thể được định nghĩa như một “quá trình sản xuất ra tri thức” và phát triển là quá
trình nghiên cứu nhằm ứng dụng các nhận thức của con người vào sản xuất và
đời sống thông qua các hình thức, phương pháp và công cụ, phương tiện cụ thể
khác nhau. Phát triển là giai đoạn tiếp theo, có nhiệm vụ chuyển hoá các tri thức
mới được phát hiện thành các phương án ứng dụng cụ thể vào đời sống.
Hiện nay, khái niệm nghiên cứu- phát triển thường được đặt trong mối quan hệ


chặt chẽ với khái niệm “đổi mới” (innovation) và thay đổi (change). Khái niệm
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
2
đổi mới được hiểu là quá trình và những hoạt động tạo ra sự thay đổi có tính
tích cực
1
. Điều kiện để thực hiện đổi mới, cũng là khởi nguồn cho các kết quả
của các hoạt động nghiên cứu- phát triển là hoạt động sáng tạo và tính sáng tạo
của đội ngũ nhân sự hoạt động trong những lĩnh vực này. Do tác động và ảnh
hưởng to lớn của chúng tới kết quả kinh doanh và sự phát triển của doanh
nghiệp, quản lý sự thay đổi, quản lý quá trình đổi mới đang trở thành một
nhiệm vụ quan trọng của quản trị kinh doanh và quản trị doanh nghiệp hiện đại,
thậm chí được coi là một chức năng của quản trị kinh doanh.
Nghiên cứu và phát triển là hai giai đoạn trong toàn bộ quá trình nhận thức các
quy luật vận động của tự nhiên, xã hội, tư duy và ứng dụng chúng vào các hoạt
động sản xuất cũng như đời sống của con người. Các hoạt động nghiên cứu-
phát triển là những hoạt động sáng tạo, là động lực và xuất phát điểm cho mọi
cải tiến, thay đổi trong tất cả các lĩnh vực sản xuất vật chất cũng như các lĩnh
vực quản lý. Sản phẩm của các quá trình nghiên cứu- phát triển là tri thức mới
hoặc những ứng dụng của các tri thức trong sản xuất và đời sống mà mức độ
ứng dụng cụ thể có thể khác nhau. Kết quả của các hoạt động nghiên cứu- phát
triển có thể là:
- Các phát minh. Những phát minh này có thể là những nhận thức mới
hoặc mở rộng về bản chất, các quy luật vận động của các hiện tượng tự
nhiên, xã hội và tư duy, các công dụng, tính chất và khả năng ứng dụng mới
của các hiện tượng và nguồn lực tự nhiên cũng như xã hội, … Các phát minh
tạo ra tri thức mới và làm giàu thêm cho kho tàng kiến thức chung của nhân
1
Luecke và Katz (2003) định nghĩa: “Đổi mới … được hiểu là sự ứng dụng thành công những vật phẩm hoặc
phương pháp mới. …Đổi mới là sự hiện thực hoá, tổ hợp hoặc tổng hợp các tri thức mới vào các sản phẩm, quy

trình hoặc dịch vụ mới, có giá trị, thích ứng tốt hơn” (Xem: Luecke, Richard; Ralph Katz (2003). Managing
Creativity and Innovation. Boston, MA: Harvard Business School Press. ISBN 1-59139-112-1). Baregheh và
đồng nghiệp (2009) lại định nghĩa “Đổi mới là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn trong đó các tổ chức
chuyển hóa các ý tưởng thành các sản phẩm, dịch vụ hoặc quy trình mới/ hoàn thiện hơn để thúc đẩy, cạnh
tranh và đa dạng hoá chính mình một cách thành công trên thị trường của mình (Xem: Baregheh A, Rowley J
and Sambrook S.(2009): Towards a multidisciplinary definition of innovation, Management decision, vol. 47,
no. 8, pp. 1323–1339).
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
3
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
loại và được sử dụng chung cho cả cộng đồng. Tuy nhiên, chúng cũng có thể
được công bố hoặc đăng ký để được bảo hộ, tuỳ thuộc vào 1) khả năng ứng
dụng vào thực tế, 2) lợi ích vật chất và tinh thần mà người nghiên cứu có thể
có được và 3) chính sách, các quy định pháp lý và môi trường pháp lý- xã
hội của quốc gia có liên quan.
- Phát hiện mới về những công dụng của các hiện tượng tự nhiên- xã hội,
của các tài nguyên tự nhiên hoặc nhân tạo, của các sản phẩm và dịch vụ
đang được sản xuất và sử dụng. Những phát hiện này cũng có thể là các tri
thức thuần tuý hoặc những hiểu biết mới có khả năng ứng dụng vào thực tế ở
những mức độ khác nhau.
- Các giải pháp kỹ thuật. Những sản phẩm này của quá trình nghiên cứu
thường có khả năng ứng dụng cao và thường được đăng ký với các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền để lợi ích của người đề xuất giải pháp được
đảm bảo. Tại hầu hết các quốc gia, các giải pháp kỹ thuật thường là đối
tượng của các quy định về sở hữu trí tuệ.
- Các công nghệ, kể cả phương pháp công nghệ lẫn các trang thiết bị, các
phương tiện và dụng cụ sản xuất, tiêu dùng. Chúng có thể bao gồm những
sản xuất ra những sản phẩm hiện có trên thị trường (hoàn thiện và phát triển
công nghệ mới để sản xuất sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn) hoặc
những công nghệ mới để sản xuất những sản phẩm hoàn toàn mới. Những

kết quả nghiên cứu này thường có xu hướng được sớm ứng dụng vào thực
tiễn, nhưng thường cũng có một tỷ lệ công nghệ khá lớn chưa thể ứng dụng
ngay sau khi được phát minh.
- Các sản phẩm (sản phẩm hoàn chỉnh hoặc các bộ phận, chi tiết của các
sản phẩm hoàn chỉnh) mới hoặc sản phẩm được cải tiến/ hoàn thiện, được bổ
sung thêm tính năng hoặc khắc phục các nhược điểm vốn có trước đó (đối
với người sử dụng, người sản xuất hoặc cộng đồng nói chung).
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
4
- Phương pháp khai thác, sử dụng các sản phẩm, công nghệ hoặc các điều
kiện khai thác, sử dụng chúng.
Ứng với mỗi loại kết quả nghiên cứu trên là những hướng nghiên cứu- phát
triển chuyên sâu. Do tính phong phú và đa dạng của đối tượng nghiên cứu- phát
triển cũng như kết quả của chúng và việc ứng dụng các kết quả đó trong các
lĩnh vực cụ thể khác nhau mà các hoạt động nghiên cứu- phát triển cũng được
chuyên môn hoá. Quá trình chuyên môn hoá dẫn tới sự hình thành các ngành
khoa học, các lĩnh vực kỹ thuật- công nghệ. Quá trình này cũng dẫn tới sự xuất
hiện, tồn tại và phát triển của đội ngũ chuyên gia trong từng lĩnh vực. Sự
chuyên môn hoá đó đồng thời cũng làm nảy sinh nhu cầu trái ngược: sự hình
thành và hoạt động của một đội ngũ cán bộ nghiên cứu- phát triển có tri thức
rộng về nhiều lĩnh vực và những cán bộ hoạt động trên những “vùng giao thoa”
của vài ba ngành hoặc một số ngành khoa học hoặc một số lĩnh vực kỹ thuật-
công nghệ
2
.
Tuỳ thuộc vào mức độ đầu tư và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu- phát
triển mà số lượng kết quả nghiên cứu nhiều hay ít, chất lượng của chúng cao
hay thấp và chúng được ứng dụng vào thực tế nhanh hay chậm. Khoảng cách
thời gian giữa thời điểm thu lượm được một kết quả nghiên cứu với thời điểm
ứng dụng được kết quả đó vào thực tiễn được gọi là “độ trễ” của việc ứng dụng

kế quả nghiên cứu- phát triển. Rút ngắn độ trễ là mục tiêu của tất cả các công
trình nghiên cứu và cũng là xu hướng đã diễn ra trong vài thập kỷ vừa qua. Tuy
nhiên, với các kết quả nghiên cứu cơ bản, xu hướng này diễn ra không rõ và
không phải trong tất cả các hướng tiến bộ khoa học- công nghệ đều có thể ghi
nhận được mối tương quan tỷ lệ thuận giữa nguồn lực dành cho nghiên cứu-
2
Bản thân các “vùng giao thoa” này nhiều khi cũng tạo ra những ngành khoa học, những lĩnh vực kỹ thuật-
công nghệ mới.Ví dụ được biết đến một cách rộng rãi và khá sớm là sự giao thoa giữa ngành sinh học với lĩnh
vực cơ khí (sau đó là tự động hoá) làm xuất hiện một ngành khoa học và một lĩnh vực kỹ thuật- công nghệ đã có
sự phát triển mạnh mẽ và sâu rộng là phỏng sinh học.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
5
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
phát triển với số lượng, chất lượng kết quả nghiên cứu và việc rút ngắn độ trễ
của việc ứng dụng chúng vào thực tế.
Quá trình nghiên cứu- phát triển có thể được chia thành 6 giai đoạn và được mô
tả như sau:
Hình 1: Quá trình nghiên cứu- phát triển
Tuy nhiên, các khái niệm nghiên cứu- phát triển và một số khái niệm liên quan
có thể được định nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, Luật Công nghệ nêu 8 định
nghĩa có liên quan tới nghiên cứu và phát triển. Những khái niệm này được tiếp
cận theo hướng gắn một cách hữu cơ công tác nghiên cứu với khoa học và phát
triển với công nghệ (xem hộp 1).
Hộp 1. 1: Các khái niệm về nghiên cứu- phát triển trong Luật Công
nghệ năm 2000
Để xác định rõ phạm vi điều chỉnh, căn cứ vào thực tiễn hoạt động trên các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học và kinh doanh, Luật Công nghệ 2000 đã định
nghĩa 8 phạm trù liên quan tới nghiên cứu- phát triển như sau:
“1. Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy;

2. Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm;
3. Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
6
Nghiên
cứu cơ
bản
Nghiên
cứu ứng
dụng
Thiết kế,
chế thử
sản
phẩm/
công
nghệ
Ứng dụng
thử nghiệm
sản phẩm/
công nghệ
Ứng dụng
thương
mại (đại
trà) sản
phẩm/
công nghệ
Cải tiến, hoàn
thiện và phát
triển sản

phẩm/ công
nghệ
Nghiên cứu Phát triển
cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác
nhằm phát triển khoa học và công nghệ;
4. Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự
vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng
dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng;
5. Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ
mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và
sản xuất thử nghiệm;
6. Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới;
7. Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực
nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản
phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống;
8. Dịch vụ khoa học và công nghệ là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng,
phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực
tiễn”.
(Luật Công nghệ, 2000, Điều 2)
Nghiên cứu phát triển cũng được định nghĩa, quan niệm là một giai đoạn cuối
cùng của quá trình nghiên cứu, trong đó các kết quả nghiên cứu được chuyển
hoá thành các ứng dụng cụ thể trong thực tế (sản phẩm hoặc dịch vụ, thiết bị
hoặc công nghệ sản xuất, …). Theo đó, nghiên cứu- phát triển là những hoạt
động bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn trong việc ứng dụng các kết quả nghiên
cứu cơ bản. Nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan, chẳng hạn năng lực nhận

biết khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu (hoặc lợi ích của việc chuyển giao
kết quả nghiên cứu cho sản xuất và đời sống), vào khả năng nhận biết nhu cầu
của xã hội về sản phẩm/ công nghệ do kết quả nghiên cứu mang lại, vào năng
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
7
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
lực vật chất và tài chính của các đơn vị, tổ chức có liên quan (để đầu tư ứng
dụng kết quả nghiên cứu) và vào môi trường cũng như cơ sở hạ tầng kinh tế- xã
hội và kỹ thuật- công nghệ liên quan tới việc sử dụng chúng.
Theo cách phân loại truyền thống, các hoạt động nghiên cứu khoa học được
chia thành 2 nhóm: Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Nghiên cứu cơ
bản hướng tới các mục tiêu giải quyết các vấn đề lý thuyết, lấy tri thức làm kết
quả của các hoạt động nghiên cứu. Những tri thức này, khi thu được, sẽ được
công bố công khai và rộng rãi để chia xẻ miễn phí với cả cộng đồng. Trong
nhiều trường hợp, cộng đồng khoa học tiếp nhận những tri thức này và có thể
kiểm định lại chúng.
Nghiên cứu ứng dụng cũng là những hoạt động nghiên cứu nhưng không đi vào
các vấn đề lý thuyết, mà giúp giải quyết những vấn đề thực tế, chuyển hoá các
kết quả nghiên cứu lý thuyết, các tri thức mới thành các kết quả cụ thể có thể
ứng dụng và sản xuất và đời sống được. Những kết quả nghiên cứu ứng dụng
thường là những sáng chế công nghệ, những thiết kế sản phẩm mới, những ứng
dụng mới của các tài nguyên và phương án cũng như phương tiện khai thác
chúng. Khác với kết quả của nghiên cứu cơ bản, các kết quả nghiên cứu ứng
dụng thường được đăng ký bảo hộ và có thể không được chuyển giao miễn phí.
Chẳng hạn, nghiên cứu, phát hiện ra sự phân rã hạt nhân, hiện tượng siêu dẫn và
lý giải nguyên nhân, cơ chế dẫn tới các hiện tượng trên giúp nhân loại hiểu rõ
một số khía cạnh khác nhau trong cơ chế vận động của vật chất. Những nghiên
cứu này chưa thể ứng dụng cụ thể vào thực tế và thuộc nhóm nghiên cứu cơ
bản. Tuy nhiên, khi tiến hành các nghiên cứu nhằm khai thác, sử dụng năng
lượng nguyên tử hoặc sử dụng hiện tượng siêu dẫn để giảm hao hụt điện năng

hao tổn trong quá trình chuyển tải điện thì chúng lại là những nghiên cứu ứng
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
8
dụng, cho phép những tổ chức cụ thể khai thác thương mại có thể có những lợi
ích kinh tế và phi kinh tế từ các tri thức nói trên.
1. 2- Nội dung của nghiên cứu- phát triển
Khái niệm “nghiên cứu và phát triển” còn được dịch là “nghiên cứu và triển
khai”, được coi là đồng nhất với “nghiên cứu khoa học” và được xem là khái
niệm được dùng với “hàm ý nhấn mạnh vai trò của sáng tạo công nghệ”
3
. Dù
được định nghĩa như thế nào thì khi nói tới nghiên cứu và phát triển, người ta
vẫn phải đề cập tới và thực hiện các nội dung sau đây:
- Nghiên cứu- phát triển sản phẩm. Mục đích của việc nghiên cứu- phát
triển sản phẩm là tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới hoặc hoàn thiện
hơn so với các sản phẩm hiện doanh nghiệp đang sản xuất- kinh doanh.
Trong nhiều trường hợp, các sản phẩm do công tác nghiên cứu- phát triển
tạo ra có thể chưa được đưa vào sản xuất kinh doanh ngay, thậm chí sẽ
không được đưa vào kinh doanh. Chúng cũng có thể hoặc sẽ không được
chuyển giao cho đơn vị, tổ chức khác, kể cả các tổ chức kinh doanh hoặc
các tổ chức không thực hiện chức năng kinh doanh.
- Nghiên cứu và phát triển quy trình. Quy trình thể hiện thứ tự/ trình tự
thực hiện các giai đoạn, các công việc hay bước công việc để sản xuất
một sản phẩm hoặc cung cấp một dịch vụ hoặc thứ tự các bước để chế tạo
các bộ phận cấu thành một sản phẩm hoàn chỉnh (từ sản xuất cho tới lắp
ráp và hoàn thiện). Một sản phẩm có thể được chế tạo theo những quy
trình khác nhau, kể cả khi nó được sản xuất theo cùng một công nghệ. Lý
do là bởi quy trình chế tạo sản phẩm còn tuỳ thuộc cả vào điều kiện sản
xuất lẫn bản thân việc tổ chức sản xuất sản phẩm/ cung cấp dịch vụ.
3

Nguyễn Sĩ Lộc (chủ biên): Tài liệu học tập bồi dưỡng kiến thức kinh tế- kỹ thuật. NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Hà Nội, 2007. Tr. 111.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
9
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
- Nghiên cứu và phát triển công nghệ. Đối tượng của các chương trình
nghiên cứu và phát triển công nghệ có thể là từng bộ phận cấu thành công
nghệ riêng rẽ hoặc toàn bộ các yếu tố cấu thành công nghệ (phần cứng,
phần mềm, yếu tố tổ chức và nhân lực liên quan). Để nghiên cứu- phát
triển công nghệ, các tổ chức có thể tự mình tổ chức và thực hiện toàn bộ
quá trình từ nghiên cứu cơ bản- nghiên cứu ứng dụng cho tới thiết kế-
chế thử- thử nghiệm- hoàn thiện và thích ứng công nghệ. Tuy nhiên,
nhiều tổ chức cũng kết hợp việc kế thừa các kế quả nghiên cứu đã được
tạo ra trước đó (từ các hoạt động “tình báo công nghệ”) với việc tiếp tục
tự nghiên cứu- thiết kế công nghệ. Từ khoảng 2 thập kỷ trở lại đây, một
hình thức cũng được một số tổ chức, đặc biệt là nhiều doanh nghiệp Đài
Loan, sử dụng hình thức thuê các tổ chức bên ngoài tham gia, đảm nhận
một số giai đoạn trong toàn bộ quá trình nghiên cứu- thiết kế công nghệ.
- Nghiên cứu và thiết kế, ứng dụng các quy trình sản xuất kinh doanh, các
phương án tổ chức hoạt động của doanh nghiệp/ tổ chức và các bộ phận
cấu thành của nó.
Với những nội dung trên, các hoạt động nghiên cứu và phát triển không chỉ
được thực hiện ở các cơ sở nghiên cứu chuyên nghiệp hoặc tại các bộ phận
nghiên cứu thuộc các doanh nghiệp lớn, mà nó được thực hiện ở tất cả các
doanh nghiệp thuộc mọi quy mô, với mọi trình độ kỹ thuật- công nghệ khác
nhau. Chẳng hạn, IBM là một công ty lớn, hàng năm đầu tư nhiều tiền cho
nghiên cứu, thiết kế để sản xuất những loại máy tính, các linh kiện máy tính
mới hoặc các phương pháp công nghệ, các trang thiết bị đặc thù mới nhằm đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường hoặc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của họ. Nhưng ngay trong một xưởng mộc gia đình ở Việt Nam, người chủ

xưởng hoặc người thợ cả cũng phải có những tìm tòi để cải tiến mẫu mã theo thị
hiếu của khách hàng, tìm cách tận dụng các loại gỗ ít giá trị hơn thay thế các
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
10
loại gỗ quý hiếm khi sản xuất những chi tiết sản phẩm bị che khuất và không
cần tới gỗ cao cấp. Mặt khác, họ cũng phải cải tiến các dụng cụ, công cụ và
công nghệ/ phương pháp sản xuất của mình để có thể tạo ra được những sản
phẩm tinh xảo hơn, có chất lượng cao hơn hoặc đơn giản chỉ là để sản xuất
nhanh hơn, chi phí thấp hơn. Họ cũng phải suy nghĩ để thay đổi cách bố trí nhà
xưởng, phân công lại nhiệm vụ cho công nhân nhằm có quy trình sản xuất phù
hợp, thuận lợi hơn. Tất cả những nội dung trên đều là những biểu hiện cụ thể
của các hoạt động nghiên cứu- phát triển mà một doanh nghiệp có thể và càn
phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.
Các hoạt động nghiên cứu và phát triển có nhiều đặc điểm cần lưu ý, xem xét
khi tổ chức thực hiện hoặc quản lý chúng, đặc biệt là những đặc điểm cơ bản
sau đây
4
:
- Tính khoa học, tính sáng tạo, tính mới;
- Tính hữu ích, đa lợi ích;
- Tính trễ;
- Tính hiện thực;
- Tính phổ cập;
- Tính rủi ro, không chắc chắn.
1. 3- Hệ thống các tổ chức nghiên cứu- phát triển
Trong xã hội hiện đại, khi hàm lượng khoa học- công nghệ trong sản phẩm và
dịch vụ chiếm tỷ trọng và giá trị ngày càng cao, nhiều nhà khoa học và quản lý
coi tri thức là đặc trưng cho nền kinh tế và xã hội (“xã hội tri thức” và “nền
kinh tế tri thức”). Từ đó, họ cho rằng năng lực nghiên cứu- phát triển, năng lực
ứng dụng kết quả của các hoạt động nghiên cứu- phát triên trở thành những yếu

tố quan trọng cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của các
4
Nguyễn Sĩ Lộc (chủ biên): Tài liệu học tập bồi dưỡng kiến thức kinh tế- kỹ thuật. NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Hà Nội, 2007. Tr. 112- 113.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
11
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
quốc gia. Thậm chí, trong một thời gian dài, người ta coi tiềm lực khoa học-
công nghệ là một cơ sở quan trọng tạo nên sức mạnh của quốc gia và các thành
tựu của các hoạt động nghiên cứu- phát triển là một thước đo quan trọng phản
ánh trình độ phát triển của một đất nước. Do vậy, các hoạt động nghiên cứu-
phát triển được tổ chức một cách có hệ thống trên phạm vi toàn quốc. Hiện nay,
trong ngân sách của bất kỳ quốc gia nào đều có một khoản đáng kể dành cho
các hoạt động nghiên cứu- phát triển. Tỷ lệ ngân sách dành cho nghiên cứu-
phát triển so với GDP thậm chí còn được sử dụng như một tiêu chí so sánh,
đánh giá sự phát triển của quốc gia.
Ở các nước phát triển, hệ thống nghiên cứu đã được hình thành và phát triển
qua một quá trình lịch sử lâu dài, hiện cấu thành bởi các trường đại học, các
viện, trung tâm nghiên cứu chuyên nghiệp, các phòng thí nghiệm độc lập hoặc
phòng thí nghiệm/ trung tâm nghiên cứu thuộc các doanh nghiệp. Các trường
đại học là những cơ sở triển khai các hoạt động nghiên cứu- phát triển một cách
có tổ chức, có hệ thống và thường xuyên sớm nhất. Từ cuối thế kỷ XIX, các
trường này tổ chức những viện nghiên cứu để tập trung nhiều hơn vào công tác
nghiên cứu- phát triển. Hình thức tổ chức này đã được mở rộng vào đầu thế kỷ
XX. Cho tới nay, các trường đại học tại các nước phát triển thường bao gồm rất
nhiều viện nghiên cứu chuyên ngành. Nhiều trường thậm chí tổ chức cả các
viện nghiên cứu trực thuộc các khoa chuyên ngành để tổ chức các hoạt động
nghiên cứu và tư vấn
5
.

Từ những năm 30- 40 của thế kỷ XX, một số viện và trung tâm nghiên cứu độc
lập đã được thành lập, lấy công tác nghiên cứu- phát triển chuyên nghiệp làm
5
Xu hướng này được củng cố và tăng cường bởi cách đánh giá và xếp hạng các trường đại học. Theo đó, các
trường đại học được đánh giá bằng cách chấm điểm theo một hệ thống các tiêu chí. Một lĩnh vực cấu thành hệ
thống tiêu chí đánh giá đó là công tác nghiên cứu khoa học, thể hiện qua 1) số lượng, chất lượng và ảnh hưởng
của các kết quả nghiên cứu khoa học (công bố trên các tạp chí chuyên ngành hoặc tại các hội thảo khoa học); 2)
số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được triển khai và số lượng cán bộ, nhân viên tham gia các hoạt
động nghiên cứu- phát triển; 3) số lượng các giải thưởng về kết quả nghiên cứu- phát triển cho cán bộ và sinh
viên/ cựu sinh viên của trường; 4) chất lượng hoạt động học thuật, ….
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
12
chức năng hoạt động. Ban đầu, các trung tâm này được thành lập trên cơ sở tài
trợ của các cá nhân hoặc tổ chức, hướng các hoạt động của mình vào các nghiên
cứu vì mục đích nhân đạo. Vào nửa sau của thế kỷ XX, một số trung tâm
nghiên cứu- phát triển được thành lập như những tổ chức hoạt động vì mục tiêu
lợi nhuận (tương tự như các doanh nghiệp), được hình thành trên cơ sở góp vốn
của các nhà khoa học, các nhà quản lý sáng lập ra chúng. Hiện nay, hệ thống
các viện, các trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm độc lập như thế đã
hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực khoa học- công nghệ, tạo thành một nhánh
quan trọng trong hệ thống nghiên cứu- phát triển quốc gia và quốc tế. Trong số
các tổ chức nghiên cứu- phát triển như vậy, hiện có cả những tổ chức tư nhân.
Nhánh thứ 3 trong hệ thống nghiên cứu- phát triển là hệ thống các viện, trung
tâm nghiên cứu- phát triển và các phòng thí nghiệm thuộc các doanh nghiệp.
Hầu hết những tập đoàn kinh tế lớn, các công ty đa quốc gia hoặc xuyên quốc
gia đều có những cơ sở nghiên cứu như thế, thậm chí có cả một hệ thống các cơ
sở nghiên cứu- phát triển và phục vụ nghiên cứu- phát triển (các phòng thí
nghiệm chuyên dùng, các cơ sở sản xuất thử, các cơ sở thử nghiệm sản phẩm và
công nghệ mới, …). Những cơ sở này thường tổ chức nghiên cứu ứng dụng,
nhằm vào các sản phẩm và công nghệ có khả năng sinh lời cho công ty.

Tại Việt Nam, hệ thống nghiên cứu- phát triển chỉ mới được hình thành từ hơn
một thế kỷ trở lại đây. Dưới thời Pháp thuộc, các cơ sở nghiên cứu đáng kể nhất
ở Việt Nam là Viện Viễn đông bác cổ, tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực
khoa học tự nhiên và lịch sử, một số bệnh viện nghiên cứu về y.
Sau khi hoà bình được lập lại, trong thời kỳ bao cấp, ở miền Bắc, Nhà nước tự
nhận trách nhiệm đứng ra thành lập các cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu- phát triển, xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan,
tổ chức như vậy (theo phương thức “giao nhiệm vụ”), cung cấp các nguồn lực
cần thiết để duy trì nhiệm vụ của chúng và tiếp nhận kết quả (sản phẩm) nghiên
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
13
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
cứu của họ. Về cơ bản, các doanh nghiệp không tổ chức cơ sở nghiên cứu- phát
triển riêng, nhưng có bộ phận quản lý kỹ thuật chịu trách nhiệm phát động cán
bộ công nhân viên đề xuất các sáng kiến cải tiến kỹ thuật và công nghệ. Họ
cũng chịu trách nhiệm tập hợp, đánh giá và tổ chức ứng dụng các sáng kiến đó
trong phạm vi doanh nghiệp mình và giới thiệu những sáng kiến có giá trị ứng
dụng chung cho các doanh nghiệp khác qua hệ thống khoa học- công nghệ quốc
gia và hệ thống cơ quan chủ quản ngành. Cho tới 1975, về cơ bản, hệ thống các
cơ sở nghiên cứu- phát triển đã được xây dựng cho tất cả các ngành, bao gồm
hầu hết các lĩnh vực khoa học- công nghệ và đã có những kết quả được ứng
dụng trong đời sống, tập trung vào các lĩnh vực cải tiến thiết bị kỹ thuật do các
nước chuyển giao để thích ứng với điều kiện sử dụng trong nước, cải tiến và
hoàn thiện các phương pháp công nghệ, đặc biệt là những công nghệ truyền
thống, … Trong khi đó, ở miền Nam, một số cơ sở nghiên cứu- phát triển cũng
đã được thiết lập và hoạt động theo cơ chế thị trường là chính. Các cơ sở này
bao gồm một số viện nghiên cứu, các cơ sở nghiên cứu thuộc các trường đại
học và các pòng thí nghiệm trong các doanh nghiệp lớn.
Khi đất nước thống nhất, hệ thống nghiên cứu- phát triển hai miền có sự bổ
sung cho nhau, được tổ chức lại và tiếp tục được duy trì, phát triển. Việc tổ

chức và quản lý toàn bộ hệ thống được chuyển sang áp dụng cơ chế thống nhất
(theo mô hình đã được tổ chức, vận hành ở miền Bắc). Các cơ sở nghiên cứu
của các doanh nghiệp ở miền Nam đã hình thành trước đó được chuyển giao
cho các cơ sở nghiên cứu chuyên nghiệp của Nhà nước.
Hộp 1. 2: Hệ thống nghiên cứu- phát triển của Việt Nam
Trong thời kỳ bao cấp, cũng tương tự như ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa
khác, đặc biệt là Liên Xô, Việt Nam cũng đã từng bước xây dựng một hệ
thống các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học- kỹ thuật.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
14
Ở Trung ương, Nhà nước thành lập một Uỷ Ban Khoa học- Kỹ thuật Nhà
nước với tư cách là một cơ quan ngang Bộ, chịu trách nhiệm quản lý chung
các hoạt động nghiên cứu- phát triển (được định nghĩa là “ứng dụng tiến bộ
khoa học- kỹ thuật vào sản xuất và đời sống), đồng thời trực tiếp thực hiện
những công trình, đề tài nghiên cứu có tầm quan trọng, có tác động ở cấp độ
quốc gia. Trong quá trình phát triển, Nhà nước đã thành lập một số viện
nghiên cứu trực thuộc Uỷ ban Khoa học- Kỹ thuật Nhà nước.
Ở cấp Bộ, cũng có những viện nghiên cứu hoặc các trung tâm nghiên cứu,
chịu trách nhiệm triển khai các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ
khoa học- kỹ thuật trong phạm vi chuyên môn của mình. Tại những bộ quản
lý nhiều ngành kinh tế- kỹ thuật, Nhà nước có thể thành lập một số viện,
trung tâm nghiên cứu như thế. Do quá trình sáp nhập các bộ chuyên ngành,
cho tới khi thực hiện chính sách Đổi mới, hầu hết các Bộ đều có nhiều viện
nghiên cứu, bao gồm cả các viện nghiên cứu về kinh tế- quản lý và kỹ thuật-
công nghệ.
Ở mức độ hạn chế hơn, một số tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương cũng
tổ chức các viện nghiên cứu hoặc trung tâm nghiên cứu- ứng dụng tiến bộ
khoa học- kỹ thuật (các đơn vị nghiên cứu của nhà nước) để thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu theo yêu cầu phát triển của địa phương.
Một nhóm các chủ thể quan trọng khác tham gia hoạt động nghiên cứu khoa

học- kỹ thuật là các trường đại học. Tất cả các trường đại học đều có 2 chức
năng chính là đào tạo và nghiên cứu khoa học. Cho tới nay, trong ngân sách
Nhà nước cấp cho các trường đại học công lập, vẫn luôn có khoản mục kinh
phí dành cho nghiên cứu khoa học.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
15
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước (xí nghiệp quốc doanh) cũng có
những trung tâm nghiên cứu- ứng dụng kỹ thuật- công nghệ riêng của mình.
Theo sự phân cấp, Uỷ ban khoa học- kỹ thuật và các tổ chức, cơ quan nghiên
cứu- ứng dụng tiến bộ kỹ thuật của các bộ, các địa phương, các xí nghiệp
quốc doanh sẽ tập trung vào các hoạt động nghiên cứu ứng dụng là chính,
còn các trường đại học, các viện nghiên cứu thuộc Uỷ ban khoa học- kỹ
thuật sẽ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu cơ bản.
Toàn bộ hệ thống nghiên cứu- ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật đều là
những đơn vị của nhà nước, nhận nhiệm vụ do các cơ quan quản lý nhà nước
giao và được ngân sách nhà nước cấp kinh phí đầu tư ban đầu cũng như kinh
phí hoạt động thường xuyên.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước không bao cấp cho việc nghiên cứu
phục vụ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Các cơ sở nghiên cứu hoạt
động theo hướng này được chuyển cho các doanh nghiệp hoặc chuyển sang cơ
chế tự hạch toán, tự đảm bảo kinh phí hoạt động cho mình bằng cách bán kết
quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp. Nhà nước cũng giảm dần việc trực tiếp
tổ chức và duy trì sự vận hành của các tổ chức nghiên cứu- phát triển phục vụ
nhu cầu của chính Nhà nước theo phương thức hành chính, mà dùng chính sách
tạo môi trường chung và sử dụng cơ chế đặt hàng để giao nhiệm vụ cho các cơ
quan, tổ chức nghiên cứu- phát triển. Các tổ chức này có thể được Nhà nước
thành lập ban đầu, nhưng càng ngày càng có nhiều tổ chức được thành lập và
duy trì bởi các cá nhân hoặc các tổ chức kinh doanh, các tổ chức chính trị- xã
hội.

Tuy nhiên, ngoài việc tạo lập và duy trì môi trường hoạt động thuận lợi cho các
hoạt động nghiên cứu- phát triển, Nhà nước vẫn tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ tổ
chức xây dựng tiềm lực khoa học- công nghệ quốc gia bằng cách 1) xây dựng
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
16
và chủ trì tổ chức thực hiện chiến lược phát triển khoa học- công nghệ; 2) hỗ trợ
việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực nghiên cứu- phát triển; 3) trực
tiếp đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và cho một số ngành khoa học- công nghệ
trọng điểm (bao gồm cả cơ sở vật chất- kỹ thuật, ngân sách hoạt động thường
xuyên và nhân sự); 4) tài trợ trực tiếp cho các chương trình, đề tài nghiên cứu;
5) tạo ra và hỗ trợ, thúc đẩy sự gắn kết giữa các chủ thể có liên quan tới công
tác nghiên cứu- phát triển và 6) hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
trong việc tiếp nhận, sử dụng thành quả của các hoạt động nghiên cứu- phát
triển
6
.
Tuy còn chưa phổ biến nhưng hiện ở Việt Nam cũng có một số doanh nghiệp tổ
chức bộ phận nghiên cứu- phát triển riêng của mình, đặc biệt là những tập đoàn,
tổng công ty lớn và những doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghệ
cao. Trong phạm vi doanh nghiệp, các hoạt động nghiên cứu- phát triển có thể
được thực hiện trên các lĩnh vực sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề kinh tế- xã hội liên quan tới sự phát triển và các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
- Nghiên cứu thị trường- nhu cầu và các vấn đề liên quan nhằm phục vụ
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
- Nghiên cứu và phát triển công nghệ, bao gồm cả nghiên cứu, thiết kế và
sản xuất các sản phẩm mới lẫn nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm đang
được sản xuất.
- Nghiên cứu các vấn đề khác mà xã hội có nhu cầu và doanh nghiệp có

khả năng.
6
Nhiều “mô hình” quan hệ đã được đề xuất, thử nghiệm và hoàn thiện, mở rộng áp dụng trên thực tế, chẳng hạn
các mô hình “kết hợp 3 nhà” giữa Nhà nước, nhà nông và nhà khoa học trong nông nghiệp. Việc chuyển một số
viện nghiên cứu trực thuộc các cơ quan quản lý Nhà nước (các Bộ chuyên ngành) cho các Tổng Công ty/ Tập
đoàn, hay cổ phần hoá một số cơ sở nghiên cứu công lập trước đây cũng nằm trong xu hướng này.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
17
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không thiết lập bộ phận nghiên cứu- phát
triển riêng của mình, mà sử dụng dịch vụ của các tổ chức nghiên cứu- phát triển
chuyên nghiệp, nếu cần. Một số ít các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm
chính xác hoặc các sản phẩm sinh học cũng có đầu tư năng lực nghiên cứu- ứng
dụng tiến bộ khoa học- công nghệ riêng cho mình dưới dạng các phòng thí
nghiệm quy mô nhỏ. Các cơ sở này thường đảm nhận chức năng kiểm tra chất
lượng sản phẩm, kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn
vệ sinh thực phẩm chứ chưa hoặc chưa đủ sức thực hiện các nghiên cứu có tính
sáng tạo để tạo ra sản phẩm, quy trình mới.
Các tổ chức nghiên cứu- phát triển và các trường đại học đã có nhiều năm xây
dựng và phát triển năng lực nghiên cứu theo định hướng chuyên môn hóa của
Nhà nước. Họ tổ chức, thực hiện các hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn
đã được phân công. Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các tổ chức này chuyển
dần từ đơn vị hành chính sự nghiệp sang hình thức đơn vị hành chính sự nghiệp
có thu, trong đó phần ngân sách cấp chiếm tỷ trọng ngày càng giảm. Tuy chưa
có những số liệu thống kê chính thức nhưng có thể quan sát thấy rằng trong
những năm gần đây, các tổ chức này có xu hướng mở rộng lĩnh vực hoạt động
của mình.
Như vậy, trong điều kiện hiện nay, các hoạt động nghiên cứu- phát triển ở Việt
Nam đã được thực hiện bởi nhiều chủ thể với nhiều phương thức khác nhau
theo hướng bám sát hơn nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên, dù theo phương thức nào

thì Nhà nước cũng là chủ thể chịu trách nhiệm tổ chức hệ thống nghiên cứu và
phát triển. Bởi lẽ chính hệ thống này đang tạo ra lợi thế so sánh, lợi thế cạnh
tranh đích thực và bền vững, tạo ra sức mạnh cho mỗi quốc gia.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
18
II- Vị trí của công tác nghiên cứu và phát triển trong các hoạt động của
doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, vị trí của công tác nghiên cứu- phát triển có thể được xem
xét dưới 2 giác độ chủ yếu: trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và trong chu kỳ kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ cụ thể.
Trong toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, công tác nghiên cứu-
phát triển là một mảng hoạt động hoặc một chức năng được thực hiện liên tục
và ổn định. Trong một quá trình sản xuất kinh doanh với mỗi sản phẩm/ dịch vụ
cụ thể (trong chu kỳ sống của sản phẩm và dịch vụ), các hoạt động nghiên cứu-
thiết kế được xem như giai đoạn đầu của chu kỳ này (xem hình 1.2).
Hình 1.2: Chu kỳ kinh doanh một sản phẩm, dịch vụ
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
19
Nghiên
cứu
nhu
cầu
Nghiên
cứu- thiết
kế sản
phẩm
Nghiên
cứu- thiết
kế công
nghệ và kỹ

thuật
Tổ
chức
sản
xuất
Tổ chức
tiêu thụ
Hỗ trợ
sau bán
hàng
Đánh giá
sản phẩm
Hoàn
thiện, cải
tiến sản
phẩm
Đổi mới,
thay thế
sản phẩm
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
Trong chu kỳ kinh doanh
7
với các sản phẩm và dịch vụ cụ thể, công tác nghiên
cứu- phát triển luôn nằm trong giai đoạn đầu tiên, là sự kết nối giữa nghiên cứu
nhu cầu sử dụng và phát triển sản phẩm nhằm đáp ứng những nhu cầu này. Khi
nhu cầu này đủ lớn, doanh nghiệp sẽ tổ chức nghiên cứu- thiết kế công nghệ và
kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất sản phẩm này.
Nhìn chung, trong toàn bộ quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, các
nhà quản lý từng coi các hoạt động nghiên cứu- phát triển như một hoạt động
trong giai đoạn chuẩn bị sản xuất.

- Nghiên cứu nhu cầu và
thị trường
- Nghiên cứu, thiết kế sản
phẩm
- Nghiên cứu, thiết kế hệ
thống kinh doanh
- Đầu tư tạo lập và duy trì
hệ thống cơ sở vật chất- kỹ
thuật và mặt bằng
- Hoạch định và xây dựng
cơ sở nguyên liệu
- Thiết kế và duy trì hệ
Gia công, chế biến
các yếu tố đầu vào
thành sản phẩm/ dịch
vụ theo công nghệ và
nhu cầu của thị
trường
- Tiêu thụ sản
phẩm
- Cung cấp các
dịch vụ bảo trì,
bảo hành và hỗ
trợ khách hàng
sau tiêu thụ
- Thanh quyết
7
Cần phân biệt khái niệm chu kỳ kinh doanh một sản phẩm và chu kỳ sống của sản phẩm đó. Chu kỳ kinh
doanh là sự biến đổi theo chu kỳ của việc kinh doanh một sản phẩm trên thị trường. Nó được thể hiện qua số
lượng sản phẩm (hoặc doanh thu sản phẩm) được tiêu thụ trên thị trường. Chu kỳ kinh doanh một sản phẩm

không chỉ tuỳ thuộc vào nhu cầu của thị trường về sản phẩm, mà còn tuỳ thuộc vào chiến lược kinh doanh, vào
công tác tiêu thụ/ marketing và sự đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm. Chu kỳ sống của sản phẩm cũng là sự biến
đổi theo chu kỳ của sản phẩm trên thị trường. Lâu nay, chu kỳ sống của sản phẩm thường chỉ được xem xét về
khía cạnh kinh tế. Nó cũng được đo bằng số lượng sản phẩm/ dịch vụ được tiêu thụ trên thị trường (hoặc doanh
thu từ sản phẩm trên thị trường, giống như với chu kỳ kinh doanh sản phẩm này). Kinh tế học phân chia chu kỳ
sống của sản phẩm thành 4 giai đoạn. Thực ra, khi phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, đặc biệt là từ góc độ
nghiên cứu- phát triển, cần xem xét cả khía cạnh kỹ thuật- công nghệ của sản phẩm, dịch vụ, đặc biệt là các sản
phẩm vật chất. Trên giác độ này, chu kỳ sống của sản phẩm (về mặt kỹ thuật) là sự biến đổi có tính chu kỳ của
sản phẩm về mặt vật chất- kỹ thuật và công nghệ, bao gồm các giai đoạn nghiên cứu- phát triển- sản xuất- sử
dụng- cải tiến và thay thế.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
20
thống cung ứng vật tư-
nguyên liệu
- Chuẩn bị đội ngũ nhân sự
- Quảng bá doanh nghiệp
toán và thu hồi
vốn
Giai đoạn chuẩn bị Giai đoạn sản xuất Giai đoạn thực hiện
Bảng 1.1: Vị trí của nghiên cứu- phát triển trong hoạt động của doanh nghiệp
Bởi nghiên cứu- phát triển là loại hoạt động tìm tòi, khám phá và tạo ra tri thức
nên toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp, kể cả chính bản thân công tác
nghiên cứu- phát triển, đều là đối tượng của công tác nghiên cứu- phát triển.
Các hoạt động nghiên cứu- phát triển giúp cho doanh nghiệp có công nghệ, bản
thiết kế sản phẩm và dịch vụ để sản xuất cho thị trường, có các phương án tổ
chức sản xuất kinh doanh và quản lý sản xuất kinh doanh. Công tác nghiên cứu-
phát triển cũng có thể được tổ chức để xây dựng, đánh giá và lựa chọn các
phương án kinh tế- kỹ thuật và tổ chức để thực hiện các chức năng cũng như
những hoạt động cụ thể của doanh nghiệp, các phương án và giải pháp để tiến
hành đổi mới, cải tiến và hoàn thiện, tái cấu trúc chính bản thân doanh nghiệp.

Là một nhóm hoạt động trong doanh nghiệp, nghiên cứu- phát triển cũng được
xem như một chức năng- chức năng sáng tạo của doanh nghiệp. Với chức năng
này, doanh nghiệp không chỉ tiến hành các hoạt động nghiên cứu- phát triển
phục vụ lợi ích của bản thân mình, mà còn trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần
phục vụ lợi ích của toàn xã hội.
Trên thực tế, dù quy mô và tính chất có khác nhau, dù do tự doanh nghiệp thực
hiện bằng nội lực hay phải sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài, các hoạt động
nghiên cứu, phát triển hiện đều được thực hiện tại tất cả các doanh nghiệp
8
.
8
Từ khoảng 20 năm trở lại đây, một xu hướng xuất hiện khá rõ nét và đang được triển khai ngày càng rộng là
các doanh nghiệp tăng cường sử dụng các dịch vụ nghiên cứu- phát triển thuê ngoài, trong khi cắt giảm khá
mạnh năng lực nghiên cứu- phát triển nội bộ. Ngay vừa qua, khi tái cấu trúc lại, tập đoàn Samsung trước tiên
cũng cắt giảm nhân sự trong các lĩnh vực nghiên cứu- phát triển. Quá trình này diễn ra song song với việc các
tập đoàn lớn chuyển dần một bộ phận khá lớn năng lực nghiên cứu của mình ra nước ngoài. Đây là hậu quả của
quá trình toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế cũng như là của việc khai thác lợi thế cạnh tranh từ nguồn
nhân lực có chi phí thấp tại một số nước hơn là hậu quả của suy thoái kinh tế. Bởi vì các hoạt động này diễn ra
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
21
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
Ngay tại những doanh nghiệp không tổ chức bộ phận nghiên cứu- phát triển
chuyên nghiệp thì những hoạt động nghiên cứu- phát triển cũng vẫn được tiếp
tục duy trì. Chẳng hạn, trong thời kỳ trước đây, các doanh nghiệp thường tổ
chức phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” nhằm động viên, khuyến
khích và thu hút người lao động đề xuất các sáng kiến, các ý tưởng giúp cải
tiến, hợp lý hóa công nghệ- kỹ thuật và quá trình tổ chức sản xuất. Hiện nay,
những hoạt động loại này đã được đa dạng hoá tại nhiều doanh nghiệp, thậm chí
đã từng bước đi vào chiều sâu.
Tại nhiều quốc gia khác, các doanh nghiệp cũng áp dụng chính sách tương tự.

Tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển, chiến lược và thực trạng kinh doanh, tiềm
lực của doanh nghiệp, thị trường tiến bộ khoa học- công nghệ, môi trường kinh
tế- chính trị- xã hội (trong đó có mức độ tham gia vào phân công lao động quốc
tế và mức độ hội nhập quốc tế) và yếu tố chủ quan của các cán bộ lãnh đạo,
quản lý doanh nghiệp mà mức độ ưu ái, quan tâm và mức độ cũng như phương
thức đầu tư cho nghiên cứu- phát triển của doanh nghiệp cũng có thay đổi (xem
hộp 3).
Hộp 1. 3: Thăng trầm R&D (đọc thêm)
Thời hoàng kim của Bell Labs
Các công ty công nghệ chỉ chú trọng "triển khai" mà xem nhẹ "nghiên cứu", nhất là nghiên
cứu đột phá. Thời hoàng kim của các phòng thí nghiệm công ty (corporate raboratory) như
Bell Labs, PARC của Xerox đã qua?
Những ngày cuối cuộc Đại chiến thế giới II, Vannevar Bush, cố vấn khoa học của tổng
thống Rosevelt đã viết một bản báo cáo, sau này được xem là bộ khung tạo nên những
thành công rực rỡ của nền công nghiệp công nghệ thông tin của nửa sau thế kỷ 20. Dưới
đầu đề hoành tráng "Khoa học, biên giới bất tận", Bush (không có họ gì với tổng thống Mỹ
hiện nay) đưa ra viễn cảnh nền khoa học công nghệ do nhà nước tài trợ sẽ gắn kết giới
nghiên cứu, doanh nghiệp và quân đội (trong thời chiến). Để đạt được điều này, trên thực
tế, lại phải tạo một khoảng cách giữa ba khối.
Theo kế hoạch của Bush, trường đại học sẽ nghiên cứu cơ bản, sau đó doanh nghiệp sẽ
triển khai những gì mà họ thấy có thể sinh lời. Khái niệm R&D như là hai hoạt động riêng
biệt ra đời. Các doanh nghiệp nhanh chóng tổ chức lại theo mô hình tách biệt này. Vì thế
kéo dài, kể cả khi kinh tế rơi vào khủng hoảng cũng như giai đoạn phục hồi và phát triển đã diễn ra. Hơn nữa,
việc chuyển những năng lực ra nước ngoài hoặc thuê thực hiện một số đơn hàng chỉ được giao cho các cơ sở
nghiên cứu ở một số nước nhất định.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
22
mà các nhà nghiên cứu của công ty "thoát khỏi" đám kỹ sư lem luốc.
Mô hình này thành công bất ngờ. Bell Labs của AT&T đoạt 6 giải Nobel cho những phát
minh như laser và bán dẫn. IBM đoạt 3 giải, trong đó 2 từ Phòng thí nghiệm Zurich. Và

Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto của Xerox (PARC) phát minh ra những thành phần cơ bản
của máy tính cá nhân như chuột, giao diện đồ họa và mạng máy tính giao thức Ethernet
(mặc dù bị chỉ trích vì thất bại trong thương mại hóa một bước nhảy vọt như vậy).
Nay các phòng thí nghiệm công ty lớn đều chỉ còn cái tiếng do lãnh đạo công ty thích "cải
tiến" sản phẩm hơn là đầu tư để có những ý tưởng lớn. Công ty nào cần sản phẩm sáng tạo
sẽ sáp nhập với công ty sở hữu sáng tạo, liên kết với trường đại học hay tiếp quản những
công ty khởi nghiệp được quỹ mạo hiểm tài trợ. Sự tách biệt truyền thống giữa nghiên cứu
và phát triển được Bush minh tạc từ năm 1945 nhanh chóng biến mất, đặc biệt trong ngành
công nghệ thông tin.
Phải chăng thời các công ty nổi lên bằng phát minh đột phá đã qua? Không hẳn vậy. Chỉ có
cách thức R&D đang thay đổi. Thời hoàng kim, những công ty lớn thống lĩnh thị trường.
AT&T bá chủ mạng điện thoại, IBM thống trị ngành kinh doanh máy tính lớn (mainframe-
computer) và Xerox đồng nghĩa với máy photocopy. Các công ty đó xem khoản chi cho
nghiên cứu cơ bản là chuyện nhỏ để đạt được sức mạnh như vậy.
Ngày nay, công ty công nghệ lớn thích sử dụng mạng các nhà cung cấp và lắp ráp bên
ngoài. Bộ phận nghiên cứu dần thành thừa. Và dù các công ty lớn của Mỹ vẫn đang tiêu
hàng tỷ cho R&D, thì cũng không có bất kỳ ý định nào lấp chỗ trống mà Bell Labs hay Xerox
PARC bỏ lại. Nghiên cứu và phát triển từng được Bush tách ra, nay lại bện chặt. R&D giờ
đã mất dấu "&".
"Bài học rút ra là đừng tách biệt các nhà nghiên cứu"- Eric Schmidt - nhà lãnh đạo của
Google, từng là nhà khoa học nghiên cứu máy tính ở Bell Labs và sau đó là Xerox PARC-
nói. Phương pháp "người thông minh đơn độc" không còn tác dụng, Schmidt bổ sung. Thay
vào đó, nhà nghiên cứu trở thành "trí thức đánh thuê" (intellectual mercenary) cho bộ phận
kinh doanh: họ đến để giải quyết yêu cầu cấp bách.
Quan điểm đó được John Seely Brown, giám đốc của Xerox PARC hơn 1 thập kỷ, cho tới
tận năm 2000, chia sẻ: "Những phòng thí nghiệm công ty kiểu cũ sẽ không đáng kể nữa".
Bề ngoài, chưa bao giờ đầu tư cho sáng tạo ở Mỹ lại mạnh như hiện nay. Các công ty Mỹ
tiêu khoảng 200 tỷ USD/năm cho R&D, phần lớn cho tính toán và truyền thông. Như năm
qua, Microsoft chi 6,6 tỷ USD, IBM và Intel đều chi khoảng 6 tỷ; Cisco System và Hewlett-
Packard (HP), mỗi công ty khoảng 4 tỷ. Phần lớn đầu tư này để cải tiến nhỏ và nhanh

chóng thương mại hoá ý tưởng mới.
Ví dụ, IBM có 8 phòng thí nghiệm ở 3 châu lục. Mới vài năm trước, công bố hay đăng ký
phát minh của họ còn được coi là nghiên cứu cơ bản. Nhưng ngày nay, họ xắn tay áo và
làm việc cùng các nhà tư vấn của công ty - Douglas Dykeman, một trong những nhà quản lý
của Phòng thí nghiệm IBM diễn giải. Điều này phản ánh triết lý chuyển dịch sang "khoa học
dịch vụ" (services science) của IBM. Kinh doanh dịch vụ đang được "hàng hóa hóa"
(commoditised), giống như phần cứng máy tính trước đây, và IBM biết phải gia tăng chất
xám vào đó. Trong trường hợp này, sự xuất hiện của các nhà khoa học là một cách để
khách hàng phải trả thêm khoản phụ trội.
"Thỉnh thoảng tôi nghĩ: có còn ai thực sự quan tâm?"- Dykeman nhắc lại vài dự án cũ. Giờ
đây, phòng thí nghiệm phải gắn khoa học với "thực tại" và "lập tức". Điểm khác biệt giữa "R"
và "D" bị xóa mờ. Ví dụ, một công bố mới đây của Phòng thí nghiệm IBM về liên kết nguyên
tử vàng nghe như khoa học thuần túy. Nhưng khi bán dẫn nhỏ tới tầm nguyên tử thì nghiên
cứu kiểu đó sẽ giải quyết được vấn đề về chế tạo suốt 10 năm qua.
Ở Redmond, Washington, trung tâm Nghiên cứu Microsoft có tới 400 nhà nghiên cứu
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
23
Giáo trình Quản trị nghiên cứu và phát triển
thường trực, thêm 300 nữa từ khắp thế giới. Hầu hết ngân sách dành cho các dự án hướng
ra thị trường. Trong phòng làm việc kín nhỏ xíu, chuyên viên nghiên cứu ứng dụng truyền
thông Steven Drucker vạch ra một thế giới mà người ta có thể gọi điện thoại qua ti-vi, tương
tác với nội dung trực tuyến và nhận những quảng cáo thích hợp. Về kỹ thuật, thực hiện điều
đó rất khó. Giới hàn lâm- Drucker nói- không thể thực hiện được vì phải vật lộn xin tài trợ.
Điều đó buộc họ vào những dự án nghiên cứu chỉ 1 hay 2 năm, thậm chí ngắn hơn cả
những dự án trong khu vực doanh nghiệp. "Đúng là điên"- Drucker ám chỉ các dự án nghiên
cứu trong khu vực doanh nghiệp đang có tầm nhìn xa hơn, làm lớn hơn, mạo hiểm nhiều
tiền hơn để có được kết quả vĩ đại.
Sự khác biệt giữa nghiên cứu và phát triển cũng bị xóa mờ ở HP, một công ty điển hình về
khuynh hướng nghiên cứu. Trong số các nhà khoa học cao cấp của HP, có Bernado
Huberman từng là nhà vật lý tại PARC, giờ làm việc kết nối khoa học với kinh tế, xã hội.

Thay vì những câu hỏi cơ bản về vũ trụ, một loạt những nghiên cứu của Huberman là về
"dự đoán thị trường" thế nào để xác định các dự án của công ty; về giá của một máy tính
toán lưới (grid-computing) và về giành giật sự chú ý người dùng internet. Mô hình nghiên
cứu cũ "đi mây về gió" đã hết thời - Huberman nói. Phần hấp dẫn nhất của nghiên cứu giờ
đây là "công nghệ tìm đường đến với con người bằng cách nào".
Khi nhà nghiên cứu tiếp cận khách hàng thì còn phát sinh nhiều lợi ích khác. Ví dụ, hãng
phim hoạt hình Dream Work đặt HP làm hệ thống hội nghị qua video rất phức tạp để các
thành viên ban quản trị có thể thường xuyên trao đổi mặt đối mặt mà không cần lên máy
bay. Sau đó, phòng thí nghiệm HP đáp ứng thành công đến mức công ty đã thương mại
hóa hệ thống đó thành một sản phẩm có tên Halo. Giờ Halo được nhiều công ty sử dụng,
trong đó có công ty Pepsi và công ty sản xuất bộ vi xử lý AMD.
Sự hòa trộn giữa nghiên cứu và phát triển còn bổ khuyết cho kế hoạch của Bush: làm thế
nào để biến ý tưởng thành sáng tạo thương mại. Một ý tưởng lớn có thể vỡ vụn trong quá
trình triển khai. Ở Mỹ, mối liên kết giữa doanh nghiệp và nghiên cứu do nhà nước tài trợ
được thắt chặt bằng Đạo luật Bayh - Dole. Đạo luật này khuyến khích những cơ sở nghiên
cứu của doanh nghiệp nhận tài trợ của liên bang đăng ký sáng chế, xem đó như một động
cơ để các kết quả nghiên cứu rời khỏi phòng thí nghiệm. Nhưng trong các công ty lớn, sự
chuyển giao khó đến mức cần động lực lớn để kéo hai pháo đài "R" và "D" xích gần nhau.
"Ý tưởng sẽ mất giá nếu anh không nhanh chóng đưa nó ra thị trường" - Paul Horn, giám
sát nghiên cứu của IBM nói. "Tất cả những gì chúng tôi làm là tránh "chuyền tay". Không có
cái gọi là "chuyển giao công nghệ". Đó là cụm từ xấu ở IBM". Các nhóm nghiên cứu đi cùng
ý tưởng của mình cho tới tận khi nó tới xưởng sản xuất.
Một thí dụ điển hình nữa là Intel. Phần lớn nghiên cứu cơ bản của nhà sản xuất chip này là
từ các trường đại học, Intel áp dụng những nguyên tắc ngặt nghèo khi lựa chọn và giám sát
các dự án mà họ tài trợ. Các nhà khoa học gắn chặt với khâu sản xuất. Nhiều đăng ký bản
quyền của Intel là về chế tạo chip, không phải khoa học cơ bản. Nghiên cứu càng "ứng
dụng được trong thị trường nghiệt ngã" càng chất lượng - Sean Maloney, một uỷ viên quản
trị Intel nói. "Người của chúng tôi khắc cốt ghi tâm điều đó".
Một lý do để nghiên cứu của các công ty công nghệ ngày càng mang khuynh hướng thương
mại là nền công nghệ thông tin đã thay đổi quá nhiều. Thời Vannervar Bush viết báo cáo, tin

học là khoa học cơ bản. Cũng nhờ đó mà nhiều câu hỏi lớn về tin học đã được trả lời, ít
nhất đủ cho các công ty hiện nay khỏi phải trả tiền mua phát minh mới. Phát minh của Dell
là mô hình kinh doanh tận dụng tối đa hiệu quả của chuỗi cung cấp để sản xuất máy tính
giá thành hợp lý nhất. Tương tự, Ipod của Apple chỉ là đỉnh cao về giao diện.
Đề xuất của Bush dựa trên giả định rằng nghiên cứu sẽ tốn kém chỉ bởi vì các cỗ máy tính
sẽ to lớn và đắt đỏ. Hơn nữa, Bush giả định thời gian triển khai sẽ lâu dài. Ngày nay, phát
minh về phần mềm nhiều hơn phần cứng, giá máy tính cực rẻ và thời gian triển khai rất
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
24
nhanh - gần như lập tức, khi mà internet được sử dụng để phân phối. Điều đó giải thích tạo
sao ranh giới giữa nghiên cứu và triển khai bị xóa mờ ở hầu hết các công ty tin học, nơi có
sự cạnh tranh gay gắt và thời gian sản phẩm ra thị trường có thể trong nháy mắt.
Phương thức của Google là: Các nhà nghiên cứu là một phần của hoạt động triển khai-
Shmidt nói. Công ty thuê những nhóm rất nhỏ để thực hiện một số ý tưởng nhỏ, vài ý tưởng
có thể sẽ gây tác động lớn. Thất bại là thành phần không thể thiếu của tiến trình đó. "Có thể
nói thế này: Làm ơn hãy thất bại nhanh lên để còn thử lại". Các nhà nghiên cứu ở Yahoo
cũng đặc biệt gần gũi với kinh doanh. Ngày khai trương trung tâm nghiên cứu mới ở
Barcelona tháng 10 vừa qua, người ta thấy phòng thí nghiệm chiếm ngay vị trí trung tâm,
giữa hai bộ phận kinh doanh và tiếp thị.
Mô hình R&D thời hậu chiến cần được làm mới không chỉ bởi sự sáng tạo kiểu mới, mà còn
bởi các công ty giờ đã có rất nhiều nơi mua ý tưởng. "Nếu quay lại thời AT&T, sẽ không có
kiểu tiếp cận các trường đại học như ngày nay, và Bell Labs không thể dựa vào lực lượng
ngoài cho nghiên cứu của họ. Họ thực sự phải tự lực" - Charles Giancarlo của Cisco nói.
Thừa nhận công ty của mình từ lâu bị xem là "Nghiên cứu và triển khai bằng mua đi bán lại"
(R&D by M&A), song Giancarlo không thấy có vấn đề gì. Cùng với việc khai thác các công
ty khởi nghiệp đang dùng vốn từ quỹ mạo hiểm, mỗi năm Cisco chi 4,3 tỷ USD để thuê hơn
16.000 kỹ sư trên khắp thế giới. Theo ông, trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, các
công ty không thể nghiên cứu cơ bản. "Chúng ta có thể trách móc chính sách thỏa mãn
cộng đồng, nhưng ít nhất thị trường cũng giống môi trường đấu tranh sinh tồn của Darwin:
Vì nó mà bạn sống hay chết".

Mô hình R&D mới biến các nhà nghiên cứu thành đội lính sáng tạo đột kích (shock-troops of
innovation). Bell Labs, giờ là một phần của công ty Pháp Alcatel - Lucent, đang tập trung tất
cả vào khâu triển khai. Năm 2003, Bell Labs chỉ còn 1.000 nhà nghiên cứu với ngân sách
115 triệu USD. Nửa thế kỷ trước, nó có tới 25.000 nhà nghiên cứu và có phòng thí nghiệm
vật lý riêng. Năm 2002, Xerox PARC trở thành một công ty con độc lập chuyên cung cấp
dịch vụ nghiên cứu và bản quyền cho các khách hàng bên ngoài, không chỉ cho công ty mẹ
như trước.
Một vài viện nghiên cứu tư nhân đã tìm đường vào lĩnh vực theo như họ nói, là "nghiên cứu
cơ bản kết hợp kinh doanh". Nhưng thành công còn phải chờ. Những năm 90, Paul Allen,
nhà đồng sáng lập Microsoft đã đánh trống mở cờ dựng nên trung tâm Nghiên cứu Interval,
rồi đóng cửa sau khi nó tiêu tốn 100 triệu USD với rất ít kết quả. Gần đây, Nathan Myhrold,
cựu lãnh đạo kỹ thuật của Microsoft đã lập nên Intellectual Ventures để nghiên cứu các
công nghệ cho tương lai và cấp phép rộng rãi, song không có sáng tạo lớn nào được công
bố.
Thực tế này có lẽ khiến Bush phải khóc. "Giới kinh doanh thường bị giới hạn bởi các mục
đích định trước, các chuẩn mực rõ ràng và sức ép thị trường liên tục"- Bush viết như vậy từ
năm 1945. "Nghiên cứu cơ bản được tiến hành mà không có ý nghĩ phải áp dụng kết quả".
Song thông điệp từ giới công nghiệp lại khác hẳn. "Khi bắt đầu điều hành PARC, tôi nghĩ
99,9% công việc sẽ là phát minh, sau đó ném qua cửa sổ để bọn doanh nhân ngu ngốc tìm
cách đưa ra thị trường" -ông Brown nói. "Và giờ tôi nhận ra, ngay sau khi ý tưởng xuất hiện
là có các sáng tạo, không ít thì nhiều, để tìm cách đưa ý tưởng đó ra thị trường. Tôi đã
không lãng phí thời gian nếu sớm nhận ra điều đó".
Việt Anh dịch (The Economist. 3,2007)
Tia Sáng ngày 17/ 04/ 2007
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
25

×