Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP: Thực trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam và giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.58 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
THỰC TRẠNG THÂM HỤT CÁN CÂN THƯƠNG
MẠI CỦA VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thanh Long
Mã sinh viên : 0851010651
Lớp : Anh 15 - Khối 7 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, tháng 6 năm 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ASEAN Chinese Yuan Nhân dân tệ
CCTM South Korean won Won Hàn Quốc
CNY United States dollar Đô la Mỹ
EU Vietnam dong Việt Nam đồng
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA Free-trade agreement Hiệp định thương mại tự do
GDP World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
IMF Balance trade Cán cân thương mại
KRW Export Xuất khẩu
NHNN Import Nhập khẩu
NK Gross domestic product Tổng sản phẩm trong nước
ODA State bank Ngân hàng nhà nước


THB Thai Baht Bạt Thái Lan
USD
Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á
VND Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức
WTO International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
XK Liên minh châu Âu European Union
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
4
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007 đánh dấu một bước tiến lớn trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên bối cảnh kinh tế thế giới sau hơn 5 năm gia
nhập WTO với những biến động khó lường đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta nói chung và cán cân thương mại
nói riêng. Cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị bằng tiền của xuất khẩu so
với nhập khẩu của một nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Đó là mối quan hệ
giữa nhập khẩu và xuất khẩu của một quốc gia. Cán cân thương mại được biết đến
như thặng dư thương mại nếu xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu; ngược lại, nó được
gọi là thâm hụt thương mại.
Cán cân thương mại đóng vai trò quan trọng trong biểu đồ kinh tế của một
quốc gia. Cán cân thương mại phần nào phản ánh sức khỏe của nền kinh tế và tác
động không nhỏ tới các yếu tố kinh tế vĩ mô cũng như vi mô.
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như vai trò của cán cân thương mại
trong nền kinh tế cũng như mong muốn tìm hiểu nguyên nhân gây nên sự thâm hụt
trong cán cân thương mại đồng thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm

khắc phục thâm hụt cán cân thương mại, em đã chọn đề tài “Thực trạng thâm hụt
cán cân thương mại của Việt Nam và giải pháp khắc phục.” làm đề tài khóa luận
tôt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng
cán cân thương mại Việt Nam để từ đó đề xuất một số giải pháp cải thiện cán cân
thương mại Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
Để đạt được mục đích đã nêu ở phần trên, tác giả sẽ lần lượt nghiên cứu các
vấn đề:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cán cân thương mại và cân bằng cán
cân thương mại
- Phân tích thực trạng cán cân thương mại Việt Nam, các nhân tố ảnh hưởng
và nguyên nhân của thực trạng đó
- Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Cán cân thương mại Việt Nam và các yếu tố liên
quan.
- Phạm vi nghiên cứu : Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng cán cân
thương mại hàng hóa Việt Nam trong thời gian từ năm 1995 đến quý I/2012, đồng
thời đưa ra một số đề xuất về các giải pháp cải thiện cán cân thương mại Việt Nam
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở lý luận cơ bản về kinh tế học, các lý thuyết kinh tế vĩ mô và
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Khảo sát số liệu thực tế thông qua các báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết,
đánh giá kinh tế xã hội, các chuyên đề nghiên cứu về thương mại, hoạt động xuất
nhập khẩu của Việt Nam thời gian qua.

- Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Khóa luận gồm có 3 chương như sau :
Chương I : Lý luận chung về cán cân thương mại
6
Chương II : Thực trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam
Chương III : Định hướng và giải pháp khắc phục tình trạng thâm hụt cán
cân thương mại của Việt Nam trong những năm tới
Trong quá trình làm khóa luận, vì thời gian có hạn cũng như lượng kiến thức
chưa đầy đủ để có thể phân tích đầy đủ hết mọi khía cạnh trong đề tài, nên em mong
muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thiện hơn
khóa luận của mình .
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sỹ Nguyễn Xuân Nữ, người
đã trực tiếp giúp đỡ em trong việc lựa chọn đề tài, cũng như hướng dẫn phương
pháp nghiên cứu và triển khai và hoàn thành khóa luận này.
7
CHƯƠNG 1 :
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm cơ bản về cán cân thương mại
1.1.1. Khái niệm về cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một bộ phận cấu thành quan trọng của cán cân thanh
toán quốc tế và được phản ánh cụ thể trong cán cân vãng lai. Cán cân thương mại
ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một
khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) hay mức chênh lệch giữa chúng.
Cán cân thương mại thường được chia làm cán cân thương mại hàng hóa và
cán cân thương mại dịch vụ.
Cán cân thương mại là một bộ phận cấu thành tổng thu nhập quốc dân, cùng
với các yếu tố: chi tiêu dùng, chi tiêu đầu tư, chi tiêu chính phủ hợp thành tổng thu
nhập quốc dân. Do đó, sự biến động của cán cân thương mại sẽ có ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế quốc dân, trạng thái của cán cân thương mại thể hiện động thái

của nền kinh tế ở các thời điểm khác nhau. Chính vì vậy biến động của cán cân
thương mại trong ngắn hạn và dài hạn là cơ sở để các chính phủ điều chỉnh chiến
lược, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, quy hoạch, xây dựng các mô hình
phát triển, đưa ra các phương thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
8
1.1.2. Các trạng thái cơ bản của cán cân thương mại
• Cán cân thương mại thặng dư
Cán cân thương mại thặng dư (xuất siêu) khi tổng lượng hàng hóa và dịch vụ
của một quốc gia xuất khẩu vượt quá tổng lượng hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia
đó nhập khẩu từ nước ngoài về, hay nói cách khác xuất khẩu ròng (mức chênh lệch
của xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) của quốc gia đó lớn hơn 0.
Cán cân thương mại thặng dư cho thấy xuất khẩu tăng trưởng nhanh hơn
nhập khẩu. Khi đó khả năng sản xuất của nền kinh tế là hiệu quả, vì quốc gia đó có
thể sản xuất những sản phẩm, hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của khách hàng trong và
ngoài nước.
Cán cân thương mại thặng dư mang lại rất nhiều lợi ích cho quốc gia như:
tăng nguồn thu ngoại tệ từ đó gia tăng dự trữ ngoại hối của quốc gia, tăng GDP, tạo
công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo… do vậy khoản thu ngoại tệ từ việc xuất siêu
góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước thông qua việc tích lũy
của cải, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Có thế nói, việc thặng dư cán cân
thương mại là một dấu hiệu tích cực với bất kì quốc gia nào trong tiến trình phát
triển kinh tế.
Tuy nhiên, một nền kinh tế có thặng dư thương mại luôn duy trì ở mức cao
cũng chưa hẳn là tốt. Khi thặng dư thương mại cao, dự trữ ngoại hối của nước đó sẽ
gia tăng nhanh chóng, điều này gây sức ép lên tỉ giá hối đoái và cán cân thanh toán.
Đồng thời hàng hóa nước có thể cũng phải đối mặt với các biện pháp bảo hộ khắt
khe từ thị trường nước ngoài khi các nước này cho rằng đồng nội tệ đang bị định giá
quá thấp so với giá trị thực để hỗ trợ xuất khẩu (ví dụ điển hình là đồng nhân dân tệ
của Trung Quốc). Việc một nền kinh tế xuất siêu cũng chưa hẳn là nền kinh tế đó
phát triển, điều này có thể thấy rõ qua các ví dụ về các nước Trung đông - các nước

đang phát triển khi mà các sản phẩm chủ yếu là dầu thô, khoáng sản…Các quốc gia
này đạt được trạng thái thặng dư cán cân thương mại chủ yếu nhờ việc xuất khẩu
các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà nền sản xuất trong nước không thực sự
phát triển.
9
• Cán cân thương mại cân bằng
Cán cân thương mại cân bằng khi tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc
gia bằng tổng kim ngạch nhập khẩu của quốc gia đó trong một thời kỳ nhất định,
hay nói cách khác là lượng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu bằng lượng hàng hóa
dịch vụ nhập khẩu.
Cán cân thương mại luôn luôn biến động xoay quanh trạng thái cân bằng do
những tác động cùng chiều và ngược chiều của các hoạt động xuất nhập khẩu. Sự
biến động trạng thái của cán cân thương mại phần nào phản ánh được trạng thái của
nền kinh tế cũng như có liên quan đến các biến số kinh tế vĩ mô như : cán cân thanh
toán, cán cân vãng lai, nợ nước ngoài, cung cầu tiền tệ, mức tiết kiệm, đầu tư, thu
nhập thực tế…
Tuy cán cân thương mại của các quốc gia khó tránh khỏi mất cân bằng liên
tục theo thời gian nhưng việc cân bằng cán cân thương mại vẫn là mục tiêu dài hạn
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của của nhiều nước.
• Cán cân thương mại thâm hụt
Cán cân thương mại thâm hụt khi tổng kim ngạch hàng hóa dịch vụ nhập
khẩu vượt quá tổng kim ngạch hàng hóa dịch vụ xuất khẩu của một quốc gia, hay
mức chênh lệch xuất khẩu trừ nhập khẩu nhỏ hơn 0.
Thâm hụt cán cân thương mại là yếu tố cơ bản gây nên tình trạng thâm hụt
cán cân vãng lai, qua đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán và gia tăng gánh nặng
nợ nước ngoài. Nếu thâm hụt thương mại trong thời gian dài vượt quá khả năng
chịu đựng của cán cân vãng lai thì sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế như gia
tăng nợ nước ngoài, hạn chế khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, làm mất giá đồng
nội tệ, thay đổi các chính sách chi tiêu chính phủ, hoạt động đầu tư, chính sách
thương mại, tác động tiêu cực đến thu nhập, việc làm, ảnh hưởng đến tăng trưởng

kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thâm hụt cán cân thương mại chưa hẳn
đã mang lại những kết quả tiêu cực, điều này phụ thuộc vào chu kì kinh tế và các
10
mục tiêu kinh tế mà các chính phủ đang theo đuổi. Ví dụ một nền kinh tế có khả
năng tăng trưởng tốt, hứa hẹn nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao trong tương lại,
nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng lên (đặc biệt là máy móc và hàng công nghệ cao), kéo
theo đó cán cân thương mại cũng thâm hụt (nhất là với các nước đang phát triển).
Như vậy nếu có cán cân thương mại có thâm hụt cũng là để tạo tiền đề cho phát
triển kinh tế ở giai đoạn tiếp theo. Thực tiễn đã cho thấy ở một số nước trong tình
trạng thâm hụt cán cân thương mại, nền kinh tế vẫn ổn định và đạt mức tăng trưởng
cao. Vấn đề là thâm hụt cán cân thương mại ở mức nào có thể đảm bảo sức chịu
đựng của cán cân tài khoản vãng lai và nợ nýớc ngoài.
Đối với các nước đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam thì hiếm
khi có thặng dư cán cân thương mại, vì chúng ta vẫn còn yếu kém về cơ chế, chính
sách quản lý xuất nhập khẩu, mặt khác do yêu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi phải
nhập khẩu rất nhiều trong khi chất lượng cũng như khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế còn hạn chế, do đó mức tăng trưởng xuất khẩu không đủ khả năng bù đắp
thâm hụt thương mại.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thâm hụt cán cân thương mại
1.2.1. Các biến số kinh tế
1.2.1.1. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả
giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể nói tỷ giá là giá của một
đồng tiền được biểu hiện bằng một số lượng giá trị của một đồng tiền khác.
Tỷ giá hối đoái là nhân tố rất quan trọng đối với quốc gia, vì nó ảnh hưởng
đến giá tương đối giữa giá hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị
trường quốc tế. Khi tỷ giá giảm đồng nội tệ lên giá, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ
trở nên đắt tương đối so với hàng hóa trên thị trường quốc tế, dẫn đến xuất khẩu có
xu hướng giảm dần. Trong khi đó danh mục các mặt hàng nhập khẩu có xu hướng

mở rộng do người dân có thể sử dụng những mặt hàng với giá rẻ hơn nhờ giá tính
theo đồng nội tệ. Mặt khác doanh nghiệp nhập khẩu có thể tăng doanh thu nhờ việc
mở rộng danh mục, đa dạng hóa các mặt hàng nhập khẩu. Do đó cán cân thương
11
mại cũng biến động theo chiều hướng giảm dần. Ngược lại, khi tỷ giá tăng, đồng
nội tệ mất giá, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ trở nên rẻ tương đối so với hàng hóa
trên thị trường quốc tế, sự gia tăng doanh thu dẫn đến các doanh nghiệp xuất khẩu
mở rộng danh mục hàng xuất khẩu , trong khi việc quy đổi ra nội tệ dẫn đến việc
hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn dẫn đến giảm nhu cầu nhập khẩu một số mặt
hàng, qua đó có tích cực đến cán cân thương mại.
Trên thực tế, các tổ chức tài chính quốc tế thường khuyến nghị phá giá đồng
nội tệ khi các nước gặp khó khăn về cán cân thanh toán quốc tế. Biện pháp này làm
gia tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, thu hút các nguồn lực
đầu tư, mở rộng các ngành xuất khẩu có hiệu quả từ đó gia tăng xuất khẩu đồng thời
hạn chế nhập khẩu, giúp dần cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên, không phải
trong mọi điều kiện phá giá tiền tệ đều giúp cải thiện cán cân thương mại, việc áp
dụng biện pháp này cũng cần có một số điều kiện nhất định. Trong khi Hàn Quốc là
một ví dụ điển hình về thành công trong việc áp dụng hiệu quả chính sách phá giá
tiền tệ thì Thái Lan lại là một điển hình trong việc thất bại khi áp dụng phá giá tiền
tệ. Mặc dù cán cân thương mại có được cải thiện phần nào nhưng hậu quả là nợ
nước ngoài tăng một cách trầm trọng dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
năm 1997.
1.2.1.2. Lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền.
Ảnh hưởng của lạm phát đến cán cân thương mại thể hiện qua cơ chế giá,
thông qua việc tăng hay giảm giá trị đồng tiền của một quốc gia. Lạm phát gia tăng
sẽ làm giá cả nguyên vật liệu đầu vào sản xuất tăng, chi phí sản xuất tăng, do đó giá
cả hàng hóa sản xuất trong nước tăng gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Mặt

khác, lạm phát cao làm cho nền kinh tế bất ổn định, mất niềm tin của nhà đầu tư,
dẫn đến việc đầu tư nước ngoài vào giảm sút, kéo theo việc giảm xuất khẩu từ khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, các mặt hàng nhập khẩu cũng trở nên
12
đắt đỏ hơn, nguồn ngoại tệ thu từ xuất khẩu không đủ bù đắp cho nhập khẩu. Kết
quả là cán cân thương mại bị thâm hụt.
1.2.1.3. Lãi suất
Một trong những yếu tố quan trọng khác tác động đến cán cân thương mại là
lãi suất vay ngân hàng. Vốn vay ngân hàng là một nguồn cung ứng vốn lớn cho các
dự án, các doanh nghiệp, các hộ sản xuất,… kể cả các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài. Lãi suất tăng sẽ làm cho chi phí vốn của các dự án tăng, dẫn đến giảm hiệu
quả của việc sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu cũng cũng
bị suy giảm, gây ảnh hưởng xấu đến cán cân thương mại. Mặt khác, khi lãi suất
tăng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có xu hướng chuyển sang đầu tư tại các thị
trường có mức lãi suất có lợi cho mình hơn. Điều này làm cản trở việc phát triển sản
xuất, kinh doanh nên cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Vì vậy cán cân
thương mại cũng chịu nhiều biến động.
1.2.1.4. Thu nhập quốc dân trong và ngoài nước
Cán cân thương mại tỷ lệ nghịch với thu nhập trong nước: Khi thu nhập
trung bình của người dân trong một quốc gia tăng lên sẽ kéo theo nhu cầu chi tiêu
tăng lên, nhu cầu về hàng hóa xa xỉ cũng tăng lên, xuất hiện thêm các nhu cầu mới.
Đi kèm với nó là nhu cầu nhập khẩu cũng gia tăng tác động tiêu cực đến cán cân
thương mại. Trong khi đó, thu nhập của người dân nước ngoài tăng, nhu cầu về
hàng hóa sẽ tăng lên, xuất khẩu được khuyến khích, tạo điều kiện cải thiện cán cân
thương mại. Điều này có nghĩa là thu nhập nước ngoài tỷ lệ thuận với cán cân
thương mại.
Ngược lại, khi thu nhập trong nước giảm, nhu cầu tiêu dùng của người dân
cũng giảm theo, việc nhập khẩu cũng theo đó mà suy giảm kéo theo sự cải thiện của
cán cân thương mại. Còn thu nhập nước ngoài giảm sẽ kéo theo việc xuất khẩu
giảm, làm xấu đi cán cân thương mại.

1.2.1.5. Giá cả hàng hóa thế giới
13
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các nền kinh tế thường tập chung sản
xuất những gì mà mình có lợi thế so sánh so với các nền kinh tế khác, dẫn đến việc
mỗi nền kinh tế đều phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế thế giới, kim ngạch xuất
nhập khẩu của mỗi quốc gia cũng phụ thuộc chặt chẽ vào giá thế giới. Khi giá thế
giới thấp hơn giá hàng hóa trong nước, hàng hóa nước ngoài sẽ có cơ hội tràn vào
thị trường nội địa, kéo theo đó là kim ngạch nhập khẩu tăng. Ngược lại khi giá hàng
hóa trong nước thấp hơn giá hàng hóa thế giới, quốc gia sẽ có lợi thế so sánh về mặt
hàng đó, dẫn đến việc hoạt động sản xuất được đẩy mạnh, kim ngạch xuất khẩu gia
tăng, tác động tốt đến cán cân thương mại.
Ngoài ra, việc giá hàng hóa thế giới tăng lên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
giá hàng hóa trong nước, gây sức ép đến lạm phát, từ đó tác động đến hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán của quốc gia.
1.2.2. Các chính sách của nhà nước
1.2.2.1. Chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là các quan điểm, nguyên tắc, biện pháp thích
hợp mà chính phủ dùng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc
gia trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo các mục tiêu trong chiến lược phát
triển của quốc gia đó. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế bao
gồm: thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu, các hàng rào kỹ thuật, trợ cấp xuất khẩu,
tín dụng xuất khẩu…
Mỗi quốc gia có chính sách thương mại khác nhau, tuy nhiên chúng đều chịu
sự chi phối của hai xu hướng cơ bản là: Xu hướng tự do hóa thương mại và xu
hướng bảo hộ mậu dịch.
• Xu hướng bảo hộ mậu dịch:
Là quá trình chính phủ các nước tiến hành xây dựng và đưa vào các biện
pháp thích hợp trong chính sách thương mại quốc tế nhằm hạn chế hàng hóa nhập
khẩu từ nước ngoài bằng cách đánh thuế hàng nhập khẩu hay hạn chế lượng hàng
hóa, dịch vụ được phép nhập khẩu.

14
Chính sách bảo hộ thương mại làm giảm lượng hàng hóa nhập khẩu từ đó có
thể giúp cải thiện cán cân thương mại của quốc gia. Tuy nhiên, khi quốc gia áp dụng
chính sách này có thể phải nhận sự trả đũa từ các nước đối tác, gây ảnh hưởng xấu
tới hoạt động xuất khẩu. Việc giảm đồng thời cả nhập khẩu và xuất khẩu có thể
không ảnh hưởng gì đến cán cân thương mại quốc gia.
• Xu hướng tự do hóa thương mại:
Tự do hóa thương mại là quá trình nhà nước dần gỡ bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan của một quốc gia giúp hàng hóa di chuyển qua biên giới các
nước thuận lợi hơn. Đồng thời từng bước đưa vào thực hiện các chính sách, biện
pháp quản lý như quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật, chính sách chống bán phá giá,
đảm bảo cạnh tranh, chống độc quyền, chính sách đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ,
thương hiệu hàng hóa theo các hiệp định đã kí kết và theo chuẩn mực chung của thế
giới.
Chính sách tự do hóa thương mại tạo ra môi trường cạnh tranh tốt hơn cũng
như sự bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, là động lực quan
trọng để các doanh nghiệp trong nước không ngừng nỗ lực nâng cao trình độ về
công nghệ, lao động nếu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó năng lực sản xuất và kinh doanh xuất nhập
khẩu cũng hiệu quả hơn góp phần gia tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, cải
thiện cán cân thương mại. Hơn nữa chính sách tự do hóa thương mại cũng giúp
hàng hóa dễ dàng thâm nhập thị trường nước ngoài hơn, mở rộng thị trường và cơ
cấu hàng hóa xuất nhập khẩu.
Hai xu hướng này không bao giờ được thực hiện một cách triệt để hoàn toàn,
mà thường được kết hợp với nhau trong quá trình xây dựng chính sách thương mại
quốc tế của mỗi quốc gia. Trong đó xu hướng bảo hộ mậu dịch được điều chỉnh
giảm dần đồng thời xu hướng tự do hóa ngày càng được tăng cường.
1.2.2.2. Chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối là một bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia,
một trong những công cụ quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nó

15
bao gồm các quy định điều chỉnh việc thu mua, đầu tư, cho vay và các giao dịch
khác về ngoại hối của các bên có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu quản lý nhà
nước qua từng thời kỳ.
Thông qua các chính sách quản lý ngoại hối, chính phủ điều tiết có hiệu quả
hơn các nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường, chống hiện tượng đầu cơ, lũng loạn
góp phần ổn định tỷ giá hối đoái (như đã nói ở phần 1.2.1.1: tỷ giá hối đoái có ảnh
hưởng đến cán cân thương mại). Mặc khác, việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
bằng cách như miễn thuế đánh vào ngoại tệ chuyển về nước của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy đầu tư sản xuất, từ đó cũng giúp gia
tăng lượng hàng xuất khẩu.
1.2.2.3. Chính sách đầu tư
Các biện pháp và chính sách liên quan đến đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến cán cân thương mại. Nhiều nghiên cứu cho thấy để phục vụ cho
đầu tư trong nước (nhất là các nước đang phát triển) các nước thường gia tăng nhập
khẩu nguyên liệu đầu vào, cũng như các loại máy móc, thiết bị công nghệ. Việc gia
tăng nhập khẩu đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại.
Tùy theo định hướng của mỗi quốc gia lựa chọn hướng đầu tư là sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu hay đầu tư sản xuất định hướng xuất khẩu mà sẽ có tác
động đến cán cân thương mại theo các cách khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy, các
nước thực hiện chính sách đầu tư sản xuất định hướng xuất khẩu có sự cải thiện cán
cân thương mại trong dài hạn.
Việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài có tác
động lớn đến việc cải thiện cán cân thương mại, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển. Một trong những yếu tố có tác động rõ rệt nhất đến cán cân thương mại
là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc gia tăng FDI có tác dụng bù đắp thâm
hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện cán cân thương mại. Luồng vốn FDI chảy
vào thường đi kèm với công nghệ, không những cải thiện khó khăn về vốn mà còn
giúp doanh nghiệp cải thiện sản xuất, cung ứng hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
và sản xuất trong nước giúp giảm nhập khẩu. Đặc biệt khi đầu tư vào các ngành

16
hàng thay thế nhập khẩu, các nguyên phụ liệu đầu vào, công nghiệp phụ trợ một
cách hiệu quả không chỉ giúp giảm nhập khẩu mà còn giúp tăng khả năng cạnh
tranh về giá cho các mặt hàng xuất khẩu sản xuất ra, giúp các doanh nghiệp xuất
khẩu chủ động nguyên liệu sản xuất, từ đó mở rộng việc kinh doanh xuất khẩu.
Không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, FDI còn góp phần thúc đẩy xuất khẩu, sự xuất
hiện của các doanh nghiệp FDI với công nghệ tiên tiến giúp các nước nâng cao chất
lượng và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó thông qua quan hệ, hệ
thống phân phối sẵn có của các nhà đầu tư nước ngoài, hàng hóa trong nước tiếp
cận các thị trường mới dễ dàng hơn, thị trường mở rộng hơn. Tuy nhiên trong giai
đoạn đầu khi đầu tư nước ngoài tăng, sẽ dẫn tới nhập khẩu tăng (đặc biệt là các
nước đang phát triển) do việc nhập khẩu máy móc công nghệ tăng. Tuy nhiên việc
nhập khẩu máy móc công nghệ lại tạo tiền đề cho sản xuất sau này. FDI vừa có tác
động tốt đến việc cải thiện năng lực xuất khẩu, vừa tác động tốt đến việc mở rộng
thị trường xuất khẩu cho các nước nhận đầu tư. Nguồn thu ngoại tệ từ FDI đóng góp
rất lớn vào việc cải thiện cán cân thương mại quốc tế.
Thêm vào đó, việc gia tăng các nguồn thu nhập chuyển giao từ nước ngoài
như viện trợ, thu nhập ròng từ các dự án đầu tư nước ngoài, kiều hối cũng có tác
dụng rất tốt trong việc bù đắp thâm hụt cán cân thương mại hàng hóa.
1.3. Ảnh hưởng của thâm hụt cán cân thương mại đến nền kinh tế quốc dân
Cán cân thương mại đóng vai trò quan trọng trong biểu đồ kinh tế của một
quốc gia. Cán cân thương mại phần nào phản ánh sức khỏe của nền kinh tế và tác
động không nhỏ tới các yếu tố kinh tế vĩ mô cũng như vi mô. Thâm hụt cán cân
thương mại ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế là một vấn đề được rất nhiều
nhà quản lý chính sách phân tích và nghiên cứu.
Thâm hụt cán cân thương mại trong ngắn hạn, đối với những nước đang phát
triển có những tác động tích cực đến đến nền kinh tế. Các nước đang phát triển bắt
đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công nghệ còn lạc hậu hơn
rất nhiều so với thế giới, nguyên liệu sản xuất thiếu thốn. Vì vậy, cần phải nhập một
lượng lớn máy móc, thiết bị kỹ thuật, nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất. Thâm

17
hụt cán cân thương mại trong thời điểm này là điều khó có thể tránh khỏi, và có ảnh
hưởng tích cực đến nền kinh tế. Nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ sản
xuất cùng những nguyên liệu đầu vào chất lượng tốt, giá cả phù hợp giúp giảm giá
thành, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa sản xuất trong nước. Về lâu dài có thể
giúp gia tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu hàng hóa, giúp nền kinh tế không bị phụ
thuộc vào nguồn hàng hóa nước ngoài. Qua đó cũng có tác động ngược trở lại, làm
lành mạnh hóa cán cân thương mại.
Tuy nhiên, mức thâm hụt cán cân thương mại cao trong dài hạn lại tác động
tiêu cực đến nền kinh tế quốc dân. Thâm hụt cán cân thương mại kéo dài sẽ gây ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái, lạm phát, GDP, giá cả, cán cân thanh toán,…làm tình
hình kinh tế vĩ mô trở lên bất ổn định.
Tỷ giá hối đoái của một quốc gia phụ thuộc vào chính sách tỷ giá của quốc
gia đó là chính sách tỷ giá cố định, thả nồi hoàn toàn hay thả nổi có điều tiết mà
chịu ảnh hưởng ít hay nhiều của thâm hụt cán cân thương mại. Khi một nước duy trì
chính sách tỷ giá cố định thì thâm hụt cán cân thương mại làm giảm cung ngoại tệ
trên thị trường, đồng tiền quốc gia đó lên giá so với ngoại tệ. Muốn giữ cố định tỷ
giá, NHNN phải bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối ra để thu về nội tệ. Dẫn đến suy
giảm dự trữ ngoại hối và cung tiền trong nền kinh tế, từ đó làm gia tăng lãi suất,
giảm đầu tư, qua đó gián tiếp làm giảm thu nhập quốc dân. Để đảm bảo cho tỷ giá
được giữ cố định, trong trường hợp này NHNN đã phải hi sinh quyền kiểm soát
cung tiền, một trong những biện pháp quan trọng điều hành kinh tế vĩ mô. Khi
chính sách tỷ giá điều chỉnh theo hướng tự do hóa, giảm dần yếu tố hành chính
trong việc xác định tỷ giá giao dịch trên thị trường thì ảnh hưởng của thâm hụt cán
cân thương mại càng tăng. Nếu tình trạng thâm hụt cán cân thương mại quá cao và
kéo dài, tình hình kinh tế trở nên căng thẳng, gây sức ép lên đồng nội tệ làm cho
đồng nội tệ bị mất giá, ép buộc phải phá giá tiền tệ. Điều này có thể làm gia tăng áp
lực lạm phát, khi giá cả nguồn nguyên vật liệu sản xuất cũng như hàng hóa nhập
khẩu tính theo nội tệ đều tăng lên, qua đó làm sản phẩm sản xuất trong nước cũng
tăng giá theo. Giá nội tệ giảm, lạm phát gia tăng làm mất lòng tin của người dân vào

18
nội tệ cũng như vào các chính sách điều hành vĩ mô của nhà nước, dẫn đến dễ xảy
ra khủng hoảng kinh tế.
Thâm hụt cán cân thương mại còn ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của
nước đó. Đối với các nước đang phát triển, khi mà xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ
trọng nhỏ bé trong tổng kim ngạch xuất khẩu và các khoản chuyển giao còn chưa
đáng kể, thì sự thâm hụt cán cân thương mại quyết định tình trạng của cán cân vãng
lai. Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu như tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu và thu
nhập quốc dân, chỉ số nợ trên xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trên tăng
trưởng xuất khẩu, tỷ lệ mức lãi suất trả nợ trên mức tãng xuất khẩu để đánh giá khả
năng chịu đựng của cán cân vãng lai. Nếu như, chỉ số nợ trên xuất khẩu của một
nước giảm dần theo thời gian phản ánh sự cải thiện của cán cân tài khoản vãng lai.
Ngược lại, nếu chỉ số đó có xu hướng tăng thì tình trạng cán cân vãng lai đang xấu
đi. Would Bank đưa ra chỉ số tuyệt đối là nếu chỉ số nợ lớn hơn 275% thì tại thời
điểm đó một nước đang trong tình trạng khủng hoảng nợ. Hoặc nếu mức tăng xuất
khẩu của một nước lớn hơn mức lãi suất trả nợ, nước đó có khả năng thanh toán các
khoản nợ mà không ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
Thân hụt cán cân thương mại sẽ ảnh hưởng đến GDP: theo phương pháp sản
phẩm, GDP được tính theo công thức sau:
GDP= C + I+ G + NX
Trong đó, GDP : tổng thu nhập quốc nội.
C: Tiêu dùng
I: Đầu tư
G: Chi tiêu chính phủ
NX: Xuất khẩu ròng.
Khi các yếu tố khác không thay đổi mà xuất khẩu ròng giảm xuống sẽ làm
GDP giảm theo. Vì vậy, nếu thâm hụt cán cân thương mại kéo dài sẽ làm cho mức
19
độ trầm trọng mà đầu tư, chi tiêu chính phủ, tiêu dùng không bù đắp nổi sẽ làm tăng
trưởng GDP bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, khi mà thâm hụt cán cân thương mại lâu dài sẽ làm cho nền kinh tế
của nước đó trì trệ, sản xuất trong nước không phát triển được, các lợi thế cạnh
tranh trên thị trường thế giới giảm xuống. Khi một nước ở tình trạng nhập siêu trong
thời gian dài chứng tỏ nền sản xuất của nước đó yếu kém không sản xuất được các
mặt hàng thay thế hoặc chất lượng của hàng thay thế quá kém vì vậy mà mới phải
nhập khẩu lâu dài vậy. Một nước ở trong tình trạng nhập siêu thì nền kinh tế sẽ bị
phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài đặc biệt là các nước bạn thường xuyên xuất
khẩu sang, khi nền kinh tế của nước xuất khẩu sang gặp phải một vấn đề nào đó mà
không thể sản xuất được hay Chính phủ nước đó hạn chế hoặc cấm xuất khẩu mặt
hàng đó thì nước nhập khẩu sẽ không có được nguồn hàng như ban đầu, dễ bị chèn
ép giá khi mua sản phẩm đó ở các nước khác hay sẽ không có hàng để sử dụng. Vì
vậy, khi nước đó có thâm hụt cán cân thương mại kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế
nước đó phụ thuộc vào nước ngoài.
Như vậy, thâm hụt cán cân thương mại trong thời gian ngắn có thể là hỗ trợ
cho sản xuất nhưng trong thời gian dài lại là một điềm xấu với nền kinh tế. Chính vì
thế mà các nước luôn tìm cách cải thiện cán cân thương mại của mình từ thâm hụt
sang thăng dư để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế, trong đó Thái
Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc là những ví dụ điển hình.
1.4. Kinh nghiệm điều chỉnh cán cân thương mại của một số nước trên thế giới
và bài học cho Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước có nền nông nghiệp và công nghiệp phát triển,
hàng hóa xuất khẩu của Thái Lan có khả năng cạnh tranh tương đối tốt, lượng gạo
xuất khẩu của Thái Lan đứng đầu thế giới. Mặc dù vậy, tình trạng cán cân thương
mại của Thái Lan không phải lúc nào cũng thặng dư. Từ năm 1987 đến năm 1995,
kinh tế Thái Lan tăng trưởng mạnh với tốc độ từ 13% trở lên đồng thời mức độ tăng
trưởng của kim ngạch xuất khẩu rất cao, năm 1987 là 7,1 tỷ USD đến năm 1995 đã
20
lên tới 54,7 tỷ tăng gấp 7, 7 lần. Vậy mà, cán cân thương mại trong giai đoạn này
vẫn ở trạng thái thâm hụt do nhu cầu nhập khẩu của Thái Lan rất lớn.

Đến năm 1996, cán cân thương mại của Thái Lan đã bị thâm hụt nghiêm
trọng với trị giá nhập siêu lên tới 16,1 tỷ USD. Trước tình hình tăng trưởng kinh tế
quá nóng IMF đã đưa ra lời cảnh báo rằng nền kinh tế Thái Lan có thể rơi vào
khủng hoảng, và điều đó đã xảy ra. Năm 1997, khủng hoảng tài chính đã xảy ra ở
Thái Lan và nhanh chóng lan rộng ra các nước trong khu vực. Trong 3 năm kể từ
khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan suy giảm
nghiêm trọng, đặc biệt là năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế là âm 2,2%. Tốc độ
giảm sút của kim ngạch nhập khẩu năm 1998 (33,7% so với năm 1997) cao hơn rất
nhiều so với tốc độ giảm sút của kim ngạch xuất khẩu (6,7%). Vì vậy mà năm 1998,
Thái Lan lần đầu tiên đạt thặng dư cán cân thương mại 12,2 tỷ USD. Kể từ năm
1998 đến nay, ngoại trừ năm 2005 thì cán cân thương mại của Thái Lan luôn trong
trạng thái thặng dư. Để có được những thành quả này là nhờ vào các biện pháp khá
hữu hiệu của Chính phủ Thái Lan.
Đầu tiên phải kể đến là chính sách tỷ giá hối đoái khi Thái Lan đã phá giá
đồng Balt. Trước những năm khủng hoảng, Thái Lan đã duy trì một mức tỷ giá hối
đoái gần như cố định, neo đồng Balt vào đồng USD là 25 Balt/USD, đồng Balt bị
đánh giá cao so với USD và các đồng tiền khác. Nền kinh tế của Thái Lan lại bị phụ
thuộc khá lớn vào nền kinh tế của Hoa Kỳ và Nhật Bản, do vậy bất cứ sự bất ổn nào
của đồng Đô la Mỹ và đồng Yên Nhật cũng ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập
khẩu của Thái Lan. Do tình trạng thâm hụt kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng
Balt ngày càng tăng, dẫn đến nhu cầu ngoại tệ tăng đột biến mặc dù rằng Chính phủ
đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ dự trữ ngoại hối nhưng đồng Balt vẫn bị
phá giá. Sự ép phá giá đồng nội tệ gia tăng nghiêm trọng, vượt ra ngoài khả năng
chịu đựng của quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia buộc Thái Lan phải thả nổi đồng Balt
vào ngày 2/7/1997. Ngay lập tức tỷ giá THB/USD tăng lên là 28,8, tăng 17% so với
trước. Sau khi phá giá, đồng Balt liên tiếp bị giảm giá, tình trạng kinh tế sa sút trầm
trọng. Song việc phá giá đồng Balt đã đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải
thiện cán cân thương mại. Chỉ trong vòng 16 tháng cán cân thương mại đã đạt đến
21
trạng thái thặng dư. Như vậy, phá giá tiền tệ đã mang lại một kết quả tốt cho cán cân

thương mại của Thái Lan.
Thứ hai là chính sách đầu tư: Thái Lan tập trung vào phát triển các ngành
công nghiệp mũi nhọn: công nghiệp điện tử, phát triển các sản phẩm nông nghiệp
chất lượng cao, phát triển các hàng dệt may, giày da, đồ gỗ, Thái Lan đã thực hiện
được nhiều biện pháp đầu tư trong nước khá hiệu quả. Các ngành công nghiệp dịch
vụ được chú trọng và đẩy mạnh, bắt đầu giữ vai trò quan trọng hơn trong cơ cấu
kinh tế. Các ngành nghề đều được định hướng phát triển theo hướng phục vụ cho
xuất khẩu. Thái Lan cũng biết cách tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên và
lao động dồi dào, giá rẻ một cách hiệu quả, thu hút FDI vào nông nghiệp, phát triển
công nghiệp chế biến. Điều này góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa
Thái Lan trên thị trường quốc tế.
Cuối cùng là chính sách thương mại: Thái Lan thực hiện chính sách mở cửa
thị trường. Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư, thu hút mạnh các nhà đầu tư
nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất trong nước. Thái Lan tham gia vào
nhiều thỏa thuận, hợp tác song phương và đa phương. Không chỉ duy trì mối quan
hệ thương mại truyền thống với các nước trong khu vực ASEAN mà còn xây dựng
một mạng lưới kinh doanh với những thỏa thuận ưu đãi với nhiều quốc gia khác
như Australia, Peru, New Zealand, Ấn Độ,… Qua đó, mở rộng thị trường xuất khẩu
cho hàng hóa Thái Lan, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
Như vậy, qua chính sách phá giá tiền tệ, chính sách thương mại mở cửa và
chính sách đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn Thái Lan đã cải thiện được
tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trở thành một nền kinh tế có cán cân thương
mại thặng dư.
1.4.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế
giới trong vòng 4 thập kỷ đổ lại đây. Nền kinh tế chuyển biến nhanh chóng, từ một
nước kinh tế kém phát triển trở thành một nước có tổng sản phẩm quốc nội đứng
thứ 10 trên thế giới. Khi ở vị trí xuất phát thì Hàn Quốc là một quốc gia nghèo đói
22
có tình trạng thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng. Tình hình thâm hụt cán

cân thương mại của Hàn Quốc được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1961 – 1971: cuộc nội chiến 1950 – 1953 đẩy Hàn Quốc vào vòng
xoáy của nghèo đói, siêu lạm phát và thất nghiệp. Từ năm 1962 – 1966, Hàn Quốc
bắt tay vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất để cải thiện cán cân thương mại,
Tổng thống Hàn Quốc Park Chung Hee đã tiến hành thay đổi chiến lược phát triển
kinh tế hướng nội trước đó sang chiến lược công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu
(Export Oriented Industrialization – EOI) thông qua nhiều chính sách can thiệp vào
phát triển các ngành công nghiệp chính là các ngành xi măng, phân bón hóa học, sợi
tổng hợp và các ngành đảm bảo tự cung tự cấp lương thực thực phẩm, trong đó xuất
khẩu được đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế. Nhờ đó, giá trị xuất
khẩu trung bình đạt 384 triệu USD (tốc độ tăng bình quân là 38,2%), giá trị nhập
khẩu trung bình đạt 960 triệu USD ( tốc độ tăng bình quân là 21,7%), giá trị thâm
hụt cán cân thương mại trung bình là 567 triệu, tỷ lệ thâm hụt giá trị xuất khẩu trên
giá trị nhập khẩu bình quân là 262%. Tốc độ tăng bình quân của xuất khẩu lớn hơn
nhập khẩu và tốc độ thâm hụt cán cân thương mại giảm dần qua các năm cho thấy
sự chuyển biến tích cực trong trạng thái cán cân thương mại Hàn Quốc do Chính
phủ đề ra kế hoạch phát triển kinh tế hướng ra xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hiệu
quả.
Giai đoạn 1972 – 1979: trong giai đoạn này, lợi thế cạnh tranh trên thị trường
thế giới giảm mạnh vì vậy mà Hàn Quốc đã tập trung vào phát triển các ngành công
nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng nhằm vào các ngành then chốt : sắt và thép,
kim loại màu, chế tạo máy, điện tử và hóa chất nền cần nhập khẩu nhiều máy móc
thiết bị và nguyên liệu với giá trị lớn. Do đó, mức thâm hịt cán cân thương mại bình
quân lại cấp gấp đôi giai đoạn trước nhưng tỷ lệ thâm hụt trong giá trị xuất khẩu lại
giảm đi đáng kể từ mức 262% giai đoạn trước xuống còn 23%.
Giai đoạn 1980 – 1996: tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong thời kỳ
đầu những năm 80 có xu hướng giảm và có thặng dư từ năm 1986 – 1989, song
sang đầu thập kỷ 90 tình trạng thâm hụt cán cân thương mại lại quay trở lại với giá
trị thâm hụt lớn hơn. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997
23

mà Hàn Quốc là quốc gia chịu hậu quả nặng nề nhất đã làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm xuống còn 4,7% nhưng tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu vẫn là 9,3%
trong khi nhập khẩu là 0,3% và thâm hụt cán cân thương mại giảm xuống còn 8,4 tỷ
USD chỉ chiếm 6,2% giá trị xuất khẩu.
Giai đoạn 1997 đến nay: sau khi vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á năm 1997, cán cân thương mại của Hàn Quốc đã có thặng dư. Trong giai đoạn
này tốc độ kinh tế Hàn Quốc giữ ổn định ở mức 4,5 %, giá trị thặng dư cán cân
thương mại bình quân là 22,6 tỷ USD và chiếm 9,6% trong giá trị xuất khẩu.
Trải qua từng giai đoạn trên, mỗi giai đoạn Chính phủ Hàn Quốc đều có
được những biện pháp khắc phục tình hình và hướng đi đúng đắn nên đã đưa nền
kinh tế Hàn Quốc đi lên và cải thiện tình trạng cán cân thương mại từ thâm hụt sang
thặng dư. Các chính sách cải thiện thâm hụt thương mại của Hàn Quốc như sau:
Đầu tiên là chính sách tỷ giá hối đoái: như đã phân tích ở trên, tỷ giá hối đoại
có tác động mạnh mẽ đến trạng thái của cán cân thương mại. Hàn Quốc đã tác động
vào tỷ giá để cải thiện thâm hụt cán cân thương mại. Chính sách tỷ giá hối đoái của
Hàn Quốc được xây dựng từ chính sách kinh tế của từng thời kỳ nhất định để thúc
đẩy được xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện tích cực cán cân thương mại và ổn
định giá trị đồng tiền. Từ năm 1962 – 1980: tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ
cung cầu ngoại tệ. Do sự hạn chế của việc duy trì tỷ giá cố định làm nền kinh tế Hàn
Quốc đi xuống nên từ tháng 3 năm 1965, Hàn Quốc đã thả nổi đồng KRW trên thị
trường ngoại hối và chỉ duy trì một loại tỷ giá hối đoái duy nhất. Nhờ vậy mà xuất
khẩu của Hàn Quốc không ngừng tăng lên. Năm 1964, sau khi tiến hành phá giá
đồng KRW gần 100%, xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng 36,9% so với năm trước,
nhập khẩu giảm 27,9% làm cho thâm hụt cán cân thương mại giảm 32,3%. Đến năm
1970, thâm hụt cán cân thương mại Hàn Quốc giảm xuống còn 316,2 triệu USD. Từ
1980 – nay: tỷ giá được xác định trên “ giỏ ngoại tệ phức hợp”. Tháng 1/1980,
Chính phủ phá giá đồng KRW 20% và hệ thống tỷ giá hối đoái cố định được thay
thế bởi hệ thống hối đoái linh hoạt dựa trên sự chênh lệch lạm phát trong và ngoài
nước và những yếu tố khác như tỷ giá hối đoái của đồng tiền của những đối tác
24

thương mại lớn và các chính sách đối nội. Tác động giảm giá trong thời kỳ này đã
làm giảm thâm hụt cán cân thương mại Hàn Quốc rõ rệt.
Thứ hai là chính sách đầu tư: Hàn Quốc phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn: chính phủ đã đề ra kế hoạch phát triển công nghiệp nặng và hóa chất
nhằm vào các công nghiệp then chốt: sắt và thép, kim loại màu, chế tạo máy, điện tử
và hóa chất. Tạo lập môi trường kinh tế, hỗ trợ hành chính, xây dựng chính sách
khoa học công nghệ Science và Technology để phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn trên.
Thứ ba là chính sách ngoại thương: hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Đối
với xuất khẩu: Chính phủ cho phép các nhà xuất khẩu được thanh toán trực tiếp
bằng tiền mặt, cho phép giữ lại hoặc tùy ý sử dụng ngoại tệ thu được, giành cho các
đặc quyền được vay bằng ngoại tệ. Đối với hàng nhập khẩu: tăng mức lãi xuất lên
gấp đôi với vốn vay cho trả cho hàng hóa nhập khẩu, đánh thuế cao hơn, áp dụng
quota… Mở rộng ngoại thương sang các nước nhằm tạo ra nhiều thị trường xuất
khẩu cho hàng hóa nước mình.
Qua các chính sách của Hàn Quốc ta có thể thấy vai trò của Chính phủ Hàn
Quốc trong quá trình cải thiện tình trạng cán cân thương mại.
1.4.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Năm 1979, Trung Quốc đã thực hiện một cuộc cải cách cải tổ và chuyển đổi
kinh tế. Nhờ có cuộc cải cách này mà nền kinh tế của Trung Quốc đã có những cải
thiện và tăng tiến rõ rệt, tạo ra những bước phát triển nhảy vọt. Năm 1970, tổng giá
trị ngoại thương là 4,6 tỷ USD, nhưng đến năm 1979 đã tăng tới 29,4 tỷ USD, gấp
hơn 5 lần so với năn 1970, đến năm 1984, tăng lên là 53,6 tỷ USD, đứng hàng thứ
18 trong các nước xuất khẩu trên thế giới. Từ năm 1979 đến nay, Trung quốc luôn
có cán cân thương mại thặng dư. Từ năm 1979 - 2004, thặng dư cán cân thương mại
trung bình từ 20 - 40 tỷ USD, từ năm 2005 trở đi đã luôn trên mức 100 tỷ USD. Đặc
biệt là năm 2005 đánh dấu mức tăng trưởng kỷ lục của thặng dư cán cân thương mại
của Trung Quốc đạt tới 102 tỷ USD, tăng 217,79% so với năm 2004. Những năm
gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc luôn ở mức cao trên 8%, hiện
25

nay Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế đứng thứ 2 trên giới chỉ sau
Mỹ và đang là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của
Trung Quốc đạt 1,899 nghìn tỷ USD. (Nguồn: Tổng cục hải quan Trung Quốc
)
Nền kinh tế Trung Quốc, xuất phát từ một nền kinh tế tập trung, quan liêu
bao cấp, vậy mà chỉ trong hơn 30 năm qua, kinh tế Trung Quốc đã có được bước
tăng trưởng ngoạn mục. Kim ngạch xuất khẩu liên tục gia tăng qua các năm và góp
phần nâng cao thặng dư cán cân thương mại. Từ những kết quả nói trên, ta có thể
thấy được đường lối đổi mới và chính sách quản lý của Trung quốc có hiệu quả.
Trước tiên nói đến chính sách ngoại thương và quản lý hành chính của Trung
Quốc là theo đuổi chính sách tự dựa vào sức mình và những nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi trong quan hệ ngoại thương, tích cực phát triển mối quan hệ thương mại
với các nước trên thế giới. Trước năm 1980, chỉ có một số công ty chỉ định được
phép tham gia hoạt động ngoại thương nhưng từ năm 1980 thì Trung Quốc đã tiến
hành công cuộc mở cửa đã chấm dứt tình trạng độc quyền kinh doanh này. Hế thống
ngoại thương không chỉ có sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước mà đã xuất
hiện nhiều công ty liên doanh, công ty có vốn nước ngoài, tập đoàn đa quốc gia,…
Cơ chế xuất nhập khẩu mới đã đẩy nhanh quá trình cải tổ hệ thống phân phối và
thương mại. Hàng hóa được nhập khẩu một cách thận trọng và có chọn lựa dựa trên
cơ sở những nhu cầu cần thiết của thị trường. Xuất khẩu được khuyến khích nhằm
củng cố sự phát triển kinh tế đất nước. Việc giám sát và quản lí hành chính đối với
hoạt động xuất nhập khẩu được thực hiện thông qua hình thức cấp giấy phép và hệ
thống hạn ngạch bên cạnh biện pháp thu thuế. Trong đó, Trung Quốc cho phép xuất
khẩu tự do hàng hóa và công nghệ trừ những hàng hóa phải tuân theo những quy
định và luật lệ khác. Đối với hàng hóa nhập khẩu phải tuân theo những hạn chế của
Chính phủ, Trung Quốc thực thi chính sách quota và giấy phép.
Thứ hai là chính sách đầu tư quốc gia: Trung Quốc đã tiến hành cải cách
pháp luật nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cơ chế kiểm tra giám sát và quản lý
đầu tư nước ngoài cũng được thực hiện đơn giản, cởi mở và hiệu quả hơn. Nhờ đó
mà trong các năm qua vốn FDI vào Trung Quốc liên tục tăng. Đầu tư trực tiếp nước

×