Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh quảng ngãi trong kháng chiến chống thực dân pháp 1948 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 152 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trương Thị Thúy Hoanh

UỶ BAN KHÁNG CHIẾN HÀNH CHÍNH
TỈNH QUẢNG NGÃI TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1948 – 1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trương Thị Thúy Hoanh

UỶ BAN KHÁNG CHIẾN HÀNH CHÍNH
TỈNH QUẢNG NGÃI TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1948 – 1954)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 82 29 013
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN ĐẠT

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi, Trương Thị Thúy Hoanh xin cam đoan: Luận văn “Ủy ban Kháng
chiến Hành chính tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1948 – 1954)” là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của tơi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Văn Đạt. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng
trong luận văn có dẫn nguồn rõ ràng, khơng sao chép hoặc sử dụng kết quả của
đề tài nghiên cứu khác.
Tác giả luận văn.


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Văn Đạt – người đã tận tình
hướng dẫn cũng như giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo của Khoa Lịch
Sử -Trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM, phòng Sau Đại học và các thầy, cô trực
tiếp giảng dạy các chuyên đề của tồn khóa học đã tạo điều kiện và hướng dẫn
cho tơi trong q trình học tập.
Và tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cấp, ban ngành của tỉnh Quảng
Ngãi đã hỗ trợ, cung cấp các nguồn tài liệu q giá và tạo điều kiện thuận lợi
để tơi có thể nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Với khả năng nghiên cứu cịn hạn chế nên luận văn khơng tránh khỏi
những sai sót, vì vậy tơi rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ giáo để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng!
Tác giả luận văn

Trương Thị Thúy Hoanh


MỤC LỤC

Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục sơ đồ, bảng số liệu
MỞ ĐẦU… ....................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH QUẢNG NGÃI TRƯỚC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM 1945 VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ỦY BAN
KHÁNG CHIẾN HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NGÃI ......... 8
1.1. Tỉnh Quảng Ngãi trước Cách mạng tháng Tám 1945 ............................ 8
1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, lịch sử và con người tỉnh Quảng Ngãi .... 8
1.1.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi từ khi thực dân
Pháp xâm lược đến Cách mạng tháng Tám 1945 ........................... 14
1.2. Quảng Ngãi trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và sự ra đời vùng tự do Quảng Ngãi .................................... 22
1.2.1. Tình hình Quảng Ngãi trong những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp ............................................................. 22
1.2.2. Sự ra đời của vùng tự do Quảng Ngãi. ........................................... 24
1.3. Sự ra đời của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi ......... 27
1.3.1. Chủ trương của Đảng, Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban kháng
chiến hành chính ............................................................................. 27
1.3.2. Sự ra đời Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi .......... 29
1.3.3. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh Quảng Ngãi ........................................................... 34
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 42
Chương 2. HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÀNH CỦA ỦY BAN KHÁNG
CHIẾN HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NGÃI VÀ THÀNH
TỰU TRONG XÂY DỰNG VÙNG TỰ DO VỮNG MẠNH



TỒN DIỆN (1948 – 1954)......................................................... 43
2.1. Về xây dựng chính quyền các cấp ......................................................... 43
2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân................................................. 49
2.3. Về xây dựng kinh tế phục vụ kháng chiến và đời sống dân binh .......... 55
2.3.1. Sản xuất nông nghiệp ...................................................................... 55
2.3.2. Về công nghiệp, thủ công nghiệp .................................................... 69
2.3.3. Về giao thông vận tải ...................................................................... 75
2.3.4. Về tài chính - tiền tệ ........................................................................ 77
2.3.5. Về thương mại ................................................................................. 82
2.4. Về văn hóa, giáo dục, y tế ..................................................................... 86
2.4.1. Về giáo dục ...................................................................................... 86
2.4.2. Về văn hóa và xây dựng đời sống mới ............................................ 93
2.4.3. Về y tế .............................................................................................. 97
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 101
Chương 3. HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÀNH CỦA ỦY BAN KHÁNG
CHIẾN HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NGÃI VÀ THÀNH
TỰU TRONG BẢO VỆ VÙNG TỰ DO, CHI VIỆN CHO
CHIẾN TRƯỜNG (1948 – 1954) ............................................. 103
3.1. Công tác bảo vệ vùng tự do ................................................................. 103
3.1.1. Công tác bố phịng, an ninh ......................................................... 103
3.1.2. Cơng tác chiến đấu bảo vệ vùng tự do .......................................... 108
3.2. Trong huy động sức người, sức của góp phần cho cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi .......................................................................... 115
3.2.1. Góp phần huy động sức người cho kháng chiến ........................... 116
3.2.2. Góp phần huy động sức của cho kháng chiến .............................. 119
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 122
KẾT LUẬN................................................................................................... 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 129
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

NXB

: Nhà xuất bản

TTLT

: Tài liệu lưu trữ

UBHC

: Ủy ban hành chính

UBKC

: Ủy ban kháng chiến

UBKCHC

: Ủy ban kháng chiến hành chính

UBKCHC MNTB : Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ
UBND

: Ủy ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU TRONG LUẬN VĂN
Bảng 1.1. Phân công công việc của các uỷ viên UBKCHC tỉnh Quảng Ngãi ..... 35
Bảng 2.1. Thống kê Diện tích ruộng tưới được đảm bảo của bốn tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trước và sau Cách mạng
tháng Tám ...................................................................................... 59
Bảng 2.2. Sản lượng sản xuất vải tỉnh Quảng Ngãi những năm 1951 - 1954 .... 70
Bảng 2.3. Sản lượng sản xuất chén, bát hàng tháng của tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 1951 - 1954 .................................................................... 71
Bảng 2.4. Sản lượng muối của tỉnh Quảng Ngãi những năm 1951 - 1954....... 72
Bảng 2.5. Kết quả thu thuế nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi qua các năm
1951 -1953 và 6 tháng đầu năm 1954 ........................................... 78
Bảng 2.6. Kết quả thu “quỹ chuyển mạnh sang tổng phản công” của tỉnh
Quảng Ngãi trong năm 1950 và 1951 ........................................... 79
Bảng 2.7. So sánh giá cả một số mặt hàng thiết yếu ở tỉnh Quảng Ngãi vào
tháng 1/1950 và tháng 12/1951 ..................................................... 83
Bảng 2.8. So sánh giá cả một số mặt hàng thiết yếu của tỉnh Quảng Ngãi
trong đầu năm và cuối năm 1953 .................................................. 84
Bảng 2.9. Thống kê số lớp và số học viên bình dân học vụ ở các tỉnh vùng
tự do Nam Trung Bộ những năm 1945 – 1954 ............................. 87
Bảng 2.10. Số lượng giáo viên và học sinh ở tỉnh Quảng Ngãi năm 1952 và
1953 ............................................................................................... 90
Bảng 3.1. Thống kê số lượng dân công Quảng Ngãi tham gia phục vụ
chiến trường qua các năm 1950 – 1954 ...................................... 117
Bảng 3.2. Số lượng hàng hoá tỉnh Quảng Ngãi tiếp tế cho các chiến trường
năm 1951 ..................................................................................... 120


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quảng Ngãi là một tỉnh của miền Trung Việt Nam, vùng đất trung
chuyển quan trọng nối liền các tỉnh miền Bắc với miền Nam về cả đường bộ,
đường sắt và đường biển.
Đây là vùng đất giàu truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, lao động
cần cù, sáng tạo với bề dày lịch sử - văn hóa lâu đời, nơi hội tụ, tiếp biến và
giao thoa của ba nền văn hóa Sa Huỳnh – Chăm-pa – Đại Việt. Quảng Ngãi là
quê hương của những anh hùng dân tộc như Trương Định, Lê Trung Đình, Lê
Văn Sỹ, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Nghiêm, Trần Văn Trà, Phạm Văn Đồng…
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Quảng Ngãi
từng là trung tâm của phong trào cách mạng các tỉnh Nam Trung Bộ, phong
trào cách mạng ở đây phát triển sớm, nổ ra mạnh mẽ với những chiến công ghi
đậm vào lịch sử dân tộc như Phong trào cách mạng công – nông ủng hộ Xô
Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), khởi nghĩa Ba Tơ (3/1945), khởi nghĩa Trà
Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (8/1959), chiến thắng Ba Gia (5/1965), chiến
thắng Vạn Tường (8/1965). Năm 1975, hịa chung với khí thế tiến cơng, nổi
dậy trong cả nước, bằng tinh thần dũng cảm, trí thơng minh, lòng căm thù giặc
sâu sắc, bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang, quân và dân
Quảng Ngãi đồng loạt tiến cơng, nổi dậy giải phóng q hương.
Hơn bốn mươi năm qua, song hành cùng cả nước khắc phục hậu quả
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, Quảng Ngãi luôn giữ vững
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở mức khá, góp phần cùng cả nước thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Song song với việc phát triển kinh tế - xã hội, không thể không nhắc đến
những trang sử vẻ vang trong quá khứ của Quảng Ngãi. Tác giả thực hiện
nghiên cứu về Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Quảng Ngãi lúc mới thành
lập đến khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, với mong



2
muốn góp phần vào việc hệ thống lại những trang sử vẻ vang của quê hương
Quảng Ngãi, những đóng góp của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng
Ngãi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp những năm 1948 – 1954. Đặc
biệt là vai trò lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kháng chiến – kiến quốc của Ủy
ban Kháng chiến Hành chính tỉnh… Nghiên cứu đề tài cịn góp phần giáo dục
thế hệ trẻ tự hào và phát huy hơn nữa truyền thống tốt đẹp của cha ông đi trước.
Vì vậy, tơi chọn vấn đề “Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1948 – 1954)” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong nhiều năm qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, tác phẩm, bài
viết về tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954).
Cụ thể, đề tài được đề cập trong những cơng trình sau:
Các cuốn sách viết về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trên địa bàn
miền Trung, Tây Nguyên và tỉnh Quảng Ngãi trong những năm kháng chiến
chống Pháp như Bộ tư lệnh Quân khu 5 (1986) biên soạn cuốn Khu 5 – 30 năm
chiến tranh giải phóng, tập 1, Kháng chiến chống thực dân Pháp; Bộ Chỉ huy
quân sự Nghĩa Bình (1988) đã biên soạn cuốn Quảng Ngãi lịch sử chiến tranh
nhân dân 30 năm (1945 – 1975), Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình hay cuốn sách
được biên soạn bởi Viện lịch sử Đảng – Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung
Bộ kháng chiến (1992), Nam Trung Bộ Kháng chiến (1945 – 1975), và cuốn
Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ (1945 – 1954) (2006),
Nxb Đại học Sư phạm. Tuy không đề cập trực tiếp đến đề tài nghiên cứu nhưng
các cuốn sách trên có đề cập đến hoạt động xây dựng, bảo vệ vùng tự do, đóng
góp sức người sức của của nhân dân Quảng Ngãi cho các chiến trường trong
những năm 1945 – 1954, góp phần cung cấp thêm một số tư liệu quan trọng
cho nội dung nghiên cứu của tác giả.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Kim Vy, (2004), Vùng tự do Quảng



3
Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), luận văn thạc sĩ
của tác giả Vương Thị Lệ Hoa, (2016), Kinh tế Quảng Ngãi trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 – 1954) đều có đề cập đến vấn đề hậu phương và
quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá phục vụ kháng chiến của nhân
dân Quảng Ngãi. Tuy nhiên các đề tài nêu trên chưa đi sâu tìm hiểu về quá trình
ra đời và vai trị điều hành của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi
trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Cuốn sách được biên soạn bởi tác giả Lê Văn Đạt Vùng tự do liên khu V
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) của Nxb. Đại học Sư
phạm TP. HCM (2017) đã trình bày chi tiết sự ra đời, quá trình tổ chức xây
dựng, bảo vệ cũng như vai trò của vùng tự do liên khu V trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, trong đó có đề cập đến những đóng góp của tỉnh Quảng
Ngãi, góp phần cùng cả nước đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2019) đã biên soạn cuốn Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1930 – 1975), Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật,
Hà Nội (đây là cuốn sách được điều chỉnh, bổ sung và tái bản từ các cuốn Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trước đó, từng xuất bản qua các năm 1975, năm
1999 và năm 2005), mặc dù viết về lịch sử Đảng bộ của tỉnh từ khi ra đời cho
đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc vào năm 1975 nhưng cuốn sách
có đề cập khái quát đến Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi cùng
các thơng tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống cách mạng
của tỉnh Quảng Ngãi. Đây là nguồn cung cấp tài liệu sinh động, có giá trị cho
đề nghiên cứu của tác giả.
Như vậy, đã có một số nghiên cứu liên quan đến tỉnh Quảng Ngãi trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu đó
chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh Quảng Ngãi trong những năm 1948 – 1954. Song những cơng

trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu rất quan trọng, cung cấp nhiều nội dung,


4
sự kiện quý giá để tác giả kết hợp với những tài liệu từ Ban Tuyên giáo tỉnh
Quảng ngãi nhằm thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phục dựng quá trình trình ra đời, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động và vai
trò của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi những năm 1948 –
1954, làm nổi bật các thành tựu về xây dựng và bảo vệ vùng tự do, chi viện cho
chiến trường của Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống tư liệu về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Ủy ban
kháng chiến hành chính những năm 1948 – 1954.
- Trình bày có hệ thống hoạt động điều hành của Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh Quảng Ngãi trong xây dựng và bảo vệ vùng tự do, chi viện cho
chiến trường những năm 1948 – 1954 và những thành tựu đã đạt được.
- Đúc rút những bài học kinh nghiệm về hoạt động của Ủy ban Kháng
chiến Hành chính tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh
Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp những năm 1948 – 1954.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: địa bàn tỉnh Quảng Ngãi với 14 huyện, 184 xã trong cuộc
kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) và một số địa bàn khác có liên quan
đến tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Về thời gian: thời gian nghiên cứu từ năm 1948, khi Ủy ban kháng chiến

hành chính tỉnh được thành lập đến tháng 7 năm 1954, khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi.


5
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
51. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu khác
nhau. Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh nhân
dân, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, các chỉ thị, nghị quyết của Xứ
uỷ Trung Bộ, Liên khu uỷ V… Đây là nguồn tài liệu quan trọng nhất giúp chúng
tơi có cơ sở lý luận trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về Uỷ ban kháng chiến hành
chính tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nguồn tài liệu địa chí: Địa chí Quảng Ngãi cung cấp thơng tin về vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên, đường sá, hệ thống sơng ngịi… Đây là cơ sở quan
trọng để xác định thời điểm ra đời, quá trình hình thành và phát triển các mặt
kinh tế, chính trị, văn hố… của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Nguồn tài liệu lớn nhất và hết sức quan trọng và nguồn tài liệu chúng tôi
tiến hành khai thác, thu thập ở Ban nghiên cứu lịch sử Đảng thuộc Ban tuyên
giáo Tỉnh uỷ Quảng Ngãi, đó là: các báo cáo, nghị quyết, nghị định, thống kê,
của Liên khu uỷ V, của Uỷ ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ,
các sở, ban, ngành của Liên khu và Tỉnh uỷ Quảng Ngãi… Nguồn tài liệu này
đã giúp chúng tôi giải quyết những nhiệm vụ do đề tài đặt ra được cụ thể và
phong phú hơn.
Các tài liệu về lịch sử Đảng bộ, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 – 1954) của tỉnh, huyện thuộc Vùng tự do Quảng Ngãi, Viện lịch sử Quân
sự Việt Nam, Viện lịch sử Đảng, Quân khu V và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh là
những nguồn cung cấp tư liệu và những nhận định đánh giá quý báu cho việc

nghiên cứu các vấn đề được đặt ra trong đề tài.
Ngoài các nguồn tư liệu nêu trên, chúng tơi đã có những cuộc gặp mặt,
tiếp xúc, tham khảo ý kiến của các cán bộ, lão thành cách mạng, các đồng chí


6
từng tham gia hoạt động ở Quảng Ngãi trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đặc biệt chúng tơi cịn có những cuộc khảo sát thực tế những địa danh
đã từng là nơi đóng trú của các cơ quan lãnh đạo Liên khu V, xưởng quân giới,
nơi xảy ra các trận chiến đấu, các di tích lịch sử như: Di tích trường Trung học
Bình dân học vụ Nam Trung Bộ (1947 – 1951), di tích trụ sở Uỷ ban kháng
chiến hành chính mền Nam Nam Trung Bộ (1946 – 1949), di tích Đài tiếng nói
Nam Trung Bộ, di tích Nhà lưu niệm Nguyễn Công Phương…
Với số lượng tư liệu tập hợp chưa thật đầy đủ, song là cơ sở giúp chúng
tôi giải quyết những nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu chúng tôi sử dụng là phương pháp luận,
phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời kết hợp các phương pháp
chuyên ngành như: đối chiếu, so sánh, thống kê, phân loại, điền giã… để làm
sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Khi hồn thành, luận văn có một số đóng góp sau:
+ Góp phần hệ thống hóa tư liệu về Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh
Quảng Ngãi trong những năm 1948 – 1954.
+ Góp phần phục dựng các hoạt động điều hành của Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh Quảng Ngãi và thành tựu đạt được trong xây dựng và bảo vệ
vùng tự do, chi viện cho chiến trường của quân và dân tỉnh Quảng Ngãi trong
những năm 1948 – 1954.
+ Bước đầu đúc rút bài học kinh nghiệm trong hoạt động điều hành cuộc
kháng chiến – kiến quốc trên địa bàn của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh

Quảng Ngãi trong những năm 1948 – 1954 cho hồn cảnh hiện nay.
+ Góp phần cung cấp thêm tư liệu cho lịch sử địa phương, phục vụ cho
giảng dạy môn Lịch sử và là tài liệu để giáo dục truyền thống đoàn kết, yêu
nước và cách mạng của tỉnh Quảng Ngãi.


7
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục… cơ cấu luận văn được trình bày theo bố cục sau:
Chương 1. Khái quát về tình hình tỉnh Quảng Ngãi trước Cách mạng
tháng Tám 1945 và sự ra đời của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng
Ngãi.
Chương 2. Hoạt động điều hành của Ủy ban kháng chiến hành chính
tỉnh Quảng Ngãi và thành tựu trong xây dựng vùng tự do vững mạnh toàn diện
(1948 – 1954)
Chương 3. Hoạt động điều hành của Ủy ban kháng chiến hành chính
tỉnh Quảng Ngãi và thành tựu trong bảo vệ vùng tự do, chi viện cho chiến
trường (1948 – 1954)


8

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH QUẢNG NGÃI TRƯỚC
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ỦY
BAN KHÁNG CHIẾN HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NGÃI
1.1. Tỉnh Quảng Ngãi trước Cách mạng tháng Tám 1945
1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, lịch sử và con người tỉnh Quảng Ngãi
Về điều kiện tự nhiên
Quảng Ngãi là một tỉnh nằm ở ven biển miền Trung, khoảng giữa chiều

dài đất nước Việt Nam, trên đường từ bắc vào nam. Quảng Ngãi nằm ở tọa độ
từ 14032’40’’ đến 15025’ vĩ bắc và từ 108006’ đến 109004’35’’ kinh đơng, phía
đơng là biển Đơng, phía tây giáp các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, phía nam giáp
tỉnh Bình Định, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam. Chiều dài của tỉnh theo hướng
Bắc – Nam khoảng 100km, chiều rộng theo hướng Đơng – Tây khoảng hơn
50km. Diện tích tự nhiên 5.155,78km2(chiếm 1,7% diện tích cả nước) trong đó
đất sản xuất nông nghiệp chiếm 87,51%, đất phi nông nghiệp chiếm 10,51% và
1,98% đất chưa sử dụng. Bờ biển Quảng Ngãi dài 130km, từ hải giới giáp
Quảng Nam đến hải giới giáp Bình Định (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi, 2019, tr 13).
Nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung, ngoài Quốc lộ 1A và
đường sắt xuyên Việt chạy qua, các vùng và các địa phương Quảng Ngãi còn
nối liền nhau bằng các tỉnh lộ, các đường liên huyện, liên xã. Đặc biệt, Quảng
Ngãi có đường bộ nối liền sang các nước Đơng Nam Á, có Quốc lộ 24A nối
Tây Nguyên với khu kinh tế Dung Quất. Vì vậy, Quảng Ngãi giữ một vị trí
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược không chỉ về quân sự mà cả về các mặt kinh
tế, chính trị, văn hóa.
Địa hình Quảng Ngãi có đặc điểm chung là núi lấn sát biển. Miền núi
chiếm ¾ diện tích tự nhiên tồn tỉnh, đồng bằng nhỏ hẹp chiếm ¼ diện tích.
Giống như các tỉnh miền Trung khác, địa hình Quảng Ngãi được chia thành 4


9
vùng rõ rệt: vùng rừng núi, vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng bãi cát ven
biển.
Vùng rừng núi chiếm 2/3 diện tích đất đai trong tỉnh, tiếp giáp phía đông
dãy Trường Sơn, bao gồm chủ yếu ở các huyện miền núi Trà Bồng, Tây Trà,
Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ. Đây là địa bàn chiến lược quan trọng về
quân sự, là căn cứ địa cách mạng gắn liền với lịch sử chống áp bức và chống
ngoại xâm tỉnh Quảng Ngãi. Đồng thời là kho tài nguyên thiên nhiên phong

phú về lâm thổ sản với nhiều loại gỗ quý như lim, sáo, huỳnh đàng…
Vùng trung du thường bị bào mịn từ trên cao xuống thấp, có nhiều gị đồi
và sỏi đá. Đất ở vùng này thường là đất xám, đất bạc màu, đất đen (chiếm 0,3%
diện tích đất đai toàn tỉnh) dùng để trồng cây lương thực và công công nghiệp
ngắn ngày.
Vùng đồng bằng của Quảng Ngãi nhỏ hẹp, diện tích khoảng 150.678 ha,
trong đó có 13.672 ha được bồi đắp phù sa hằng năm bởi 4 hệ thống sông lớn:
sông Trà Bồng, sông Vệ, sông Trà Câu, sơng Trà Khúc. Đồng bằng Quảng Ngãi
bị nhiều sơng ngịi và đồi núi thấp chạy sát ra biển chia cắt. Đất đai màu mỡ
thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, tập trung ở các huyện Mộ Đức, Tư
Nghĩa, Sơn Tịnh… Đất ở đây thích hợp với các loại cây lương thực, cây công
nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là cây mía. Vùng đồng bằng là nơi chứa nguồn nước
ngầm lớn, phục vụ cho nhu cầu đời sống và sản xuất của dân cư trong tỉnh,
đồng thời cũng là nơi lưu trữ chủ yếu các nguyên vật liệu gốm sứ, nguyên vật
liệu sản xuất vật liệu xây dựng với quy mô lớn.
Vùng bãi cát ven biển có diện tích hẹp, khoảng 2.446,8 ha. Đất vùng này
thích hợp với các loại cây khoai lang, khoai mì, dừa. Đây là vùng có tiềm năng
lớn về nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tơm trên cát cho lợi ích kinh tế cao
và là nơi tiếp giáp với đường bờ biển, các cửa biển, thuận lợi cho khai thác thuỷ
sản và giao thông đường thuỷ.
Quảng Ngãi có đường bờ biển dài 130 km với thêm lục địa khá rộng, là


10
kho tài nguyên phong phú, có các cửa biển như cửa Sa Cần, Sa Kỳ, Cổ Luỹ,
Mỹ Á, Sa Huỳnh, đặc biệt là cảng nước sâu Dung Quất, nơi có điều kiện để
phát triển ngành nghề ngư nghiệp, công nghiệp, giao thơng vận tải và có vị trí
quan trọng về mặt quốc phịng. Ngồi khơi có huyện đảo Lý Sơn, là tiền tiêu,
pháo đài bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh.
Vùng biển Quảng Ngãi là nơi tiếp giáp hai dịng hải lưu nóng và lạnh có

lượng phù du tương đối phong phú nên có nhiều loại hải sản như cá chuồn, cá
ngừ, cá thu, cá hố, tôm hùm, cua…Tiềm năng kinh tế hải sản ở Quảng Ngãi
cho phép khai thác hàng năm luôn đạt trên 30.000 tấn. Vùng ven bờ Quảng
Ngãi thuận lợi cho sản xuất muối, diện tích các cánh đồng muối khoảng 348
ha. Nổi bật nhất là cánh đồng muối Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ), muối Quảng
Ngãi có chất lượng cao, hằng năm đều cung cấp đủ cho nhu cầu của nhân dân
trong tỉnh và các tỉnh Tây Nguyên.
Mạng lưới sông suối Quảng Ngãi khá phong phú và phân bố đều trên khắp
địa bàn. Quảng Ngãi có 4 con sơng chính: sơng Vệ, sơng Trà Câu, sơng Trà
Bồng, sông Trà Khúc. Phần lớn các con sông của tỉnh đều bắt nguồn từ Đông
Trường Sơn và chảy ra biển Đơng. Do địa hình có độ dốc tương đối lớn nên
các con sơng Quảng Ngãi có lưu lượng dịng chảy lớn, về mùa mưa thường gây
nên lũ lụt lớn, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất. Về mùa nắng, một phần do
lượng mưa ít, nước sơng rút nhanh, các con sông thường bị khô cạn gây hạn
chế việc đi lại bằng đường thuỷ cũng như vận chuyển của các bờ xe nước.
Khí hậu Quảng Ngãi chia làm 2 mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa nắng kéo dài
từ tháng 1 đến tháng 9, mùa mưa kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12 hằng năm
tính theo dương lịch. Do chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa
của khu vực duyên hải miền Trung nên hằng năm Quảng Ngãi thường có từ 2
đến 3 cơn bão đổ bộ trực tiếp và nhiều đợt áp thấp nhiệt đới kéo theo mưa lớn.
Qua số liệu của Niên giám thốn kê tỉnh Quảng Ngãi, trong các năm từ 2015 đến
2018 ở Quảng Ngãi, trung bình mỗi năm nhiệt độ khoảng 26,60C, lượng mưa


11

khoảng 2.754mm và số giờ nắng khoảng 2.215 giờ. Nhìn chung khí hậu Quảng
ngãi có những thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, lượng mưa tương đối lớn,
độ ẩm cao, phân bố khá đồng đều trên lãnh thổ. Tất cả những điều đó tạo thuận
lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.

Tuy nhiên khí hậu cũng tạo ra những khó khăn cho sự phát triển kinh tế,
thiên tai thường xuyên xảy ra như bão, lụt, hạn hán gây ra những tổn thất nặng
nền cho sản xuất. Lượng mưa lớn nhưng phân bố không đồng đều, lượng mưa
quá nhiều vào mùa mưa và mùa hè thì quá lượng mưa q ít gây khó khăn cho
việc sản xuất và đời sống.
Khoáng sản Quảng Ngãi khá phong phú, với các loại kháng sản kim loại,
phi kim loại, nhiều mỏ. Quảng Ngãi có nhiều suối nước khống và suối nước
nóng. Tiêu biểu trong số này là các nguồn nước khoáng Thạch Bích (Trà Bồng),
Hà Thanh (Sơn Hà), Thạch Trụ (Mộ Đức). Đây là nguồn tài nguyên rất quý giá.
Do đặc điểm phong phú về địa chất, đa dạng về địa hình, địa mạo làm cho
đất Quảng Ngãi cũng đa dạng về loại hình đất và phân bố có tính chất quy luật
trong khơng gian.
Ở Quảng Ngãi có 9 nhóm đất chính: đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa,
đất glay, đất xám, đất đỏ, đất đen, đất nứt nẻ và đất xói mạnh trơ sỏi đá. Trong
đó, đất xám chiếm tỷ lệ cao nhất với 73,42% tổng diện tích đất tự nhiên trong
tỉnh, nhóm đất này khơng thuận lợi cho sản xuất nơng nghiệp. Nhưng do trên
địa bàn có nhiều sông lớn nên làm cho đất đai khá màu mỡ. Chiếm tỷ lệ cao
thứ 2 trong tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là đất phù sa với 18,93%, thích
hợp cho việc gieo trồng các loại cây lương thực và các loại cây cơng nghiệp
như mía, các loại đậu đỗ, các loại rau quả… Quảng Ngãi trong kháng chiến
chống Pháp (1945 – 1954), là một trong những tỉnh sản xuất nông nghiệp quy
mô lớn của cả nước, đặc biệt là sản xuất lúa, trồng bơng, trồng mía… cung cấp
cho tiền tuyến, thực hiện nghĩa vụ hậu phương trong kháng chiến.
Về giao thơng vận tải, tỉnh Quảng Ngãi có nhiều tuyến đường giao thông


12
chiến lược quan trọng. Dọc theo chiều dài của tỉnh có quốc lộ 1A chạy ngang
qua với chiều dài 104 km và đường sắt xuyên Việt. Quốc lộ 24A nối liền Quảng
Ngãi với Tây Nguyên, Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Nối các địa phương

trong tỉnh có các đường tỉnh lộ: đường từ Châu Ổ đi Trà Bồng, đường từ Sơn
Tịnh lên Sơn Hà, đường từ phía Bắc cầu Trà Khúc xuống cảng Sa Kỳ, đường
từ thành phố chạy xuống Cổ Luỹ. Đây là những đường giao thông huyết mạch
nối liền Quảng Ngãi với các miền đất nước và các địa phương trong tỉnh. Các
đường liên huyện, liên xã trong tỉnh tuy không lớn nhưng tạo điều kiện giao
lưu kinh tế giữa các vùng và lực lượng quân sự có thể cơ động khi hành quân
tác chiến.
Về đường biển, đường sông ở Quảng Ngãi, nhất là sông Trà Khúc, là
những đường giao thông khá thuận lợi. Tàu thuyền lớn nhỏ có thể đi đến tất cả
các cảng trong nước và quốc tế.
Như vậy, từ xưa đến nay, với những tiềm năng về ví trí địa lý và điều kiện
tự nhiên đã góp phần giúp cho Quảng Ngãi trở thành vùng đất chiến lược quan
trọng về kinh tế chính trị và an ninh quốc phòng của đất nước.
Về lịch sử và con người
Vùng đất Quảng Ngãi là địa bàn cư trú lâu đời của cư dân ven biển miền
Trung và cịn giữ lại nhiều dấu tích của nền văn hóa cổ xưa: di chỉ Gò Trá (xã
Tịnh Thọ, Sơn Tịnh) và di chỉ Gò Vàng (xã Sơn Kỳ, Sơn Hà) thuộc thời đồ đá
cũ; di chỉ Long Thạnh (xã Phổ Thạnh, Đức Phổ) thuộc sơ kỳ đồng thau; di chỉ
Bình Châu (xã Bình Châu, Bình Sơn) thuộc trung kỳ đồng thau và nổi bật là
văn hóa Sa Huỳnh thuộc thời kỳ đồ sắt sớm.
Trước năm 1402, Quảng Ngãi vốn là Cổ Lũy động của Chiêm Thành. Năm
1402, sau thắng lợi trong cuộc xung đột với Chiêm Thành, nhà Hồ được cắt
nhượng cho Cổ Lũy động, Vua Hồ Hán Thương chia vùng đất này thành Châu
Tư và Châu Nghĩa trực thuộc Lộ Thăng Hoa nước Đại Ngu. Năm 1471, vua Lê
Thánh Tông thu phục và hợp nhất 2 châu thành phủ Tư Nghĩa. Năm 1602, đời


13
Lê Hoằng Định, Nguyễn Hoàng đổi phủ Tư Nghĩa thành phủ Quảng Nghĩa.
Năm 1776, nhà Tây Sơn đổi phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa. Năm

1805, vua Gia Long đổi phủ Hòa Nghĩa thành phủ Tư Nghĩa, đồng thời đặt ra
dinh Quảng Nghĩa và đến năm 1808 lại đổi dinh Quảng Nghĩa thành trấn Quảng
Nghĩa. Năm 1832, vua Minh Mạng đổi trấn Quảng Nghĩa thành tỉnh Quảng
Nghĩa. Quảng Ngãi trở thành một đơn vị hành chính nhà nước từ đó. Trong thời
thuộc Pháp, tỉnh có tên gọi là Quảng Ngãi. Sau Cách mạng tháng Tám 1945
thành công đến trước ngày bầu cử Quốc hội khóa I (6/1/1946), tỉnh có tên gọi
là tỉnh Lê Trung Đình, sau đó trở lại tên Quảng Ngãi. Từ ngày 10/1/1975 đến
ngày 30/6/1989, tỉnh Quảng Ngãi hợp nhất với tỉnh Bình Định thành tỉnh Nghĩa
Bình. Đến ngày 1/7/1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập.
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, dù là dưới ách thống trị hà khắc của các
triều đại phong kiến phản động, hay dưới ách thống trị của các thế lực ngoại
xâm như thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Quảng Ngãi luôn hưởng ứng
các cuộc đấu tranh cùng nhân dân cả nước, thể hiện rõ tinh thần đoàn kết,
thương yêu, đùm bọc nhau trong mọi hoàn cảnh.
Thế kỷ XVIII, dưới ngọn cờ Tây Sơn, nhân dân Quảng Ngãi hăng hái tham
gia khởi nghĩa chống lại các thế lực phong kiến Đàng Trong, Đàng Ngồi, góp
cơng sức trong việc thống nhất đất nước và bảo vệ tổ quốc. Thế kỷ XIX, các
tầng lớp nhân dân liên tiếp nổi dậy đấu tranh để chống lại vấn đề cai trị bằng
bạo lực, quan lại nhũng nhiễu tham lam và sưu thế cao của chính quyền phong
kiến nhà Nguyễn, nổi bật nhất là khởi nghĩa Đá Vách ở các huyện miền Tây
Quảng Ngãi.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Quảng
Ngãi luôn là căn cứ địa, là hậu phương vững chắc của phong trào cách mạng
Liên khu V, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Và sau 2 cuộc kháng chiến đó, Quảng
Ngãi vinh dự và tự hào khi là quê hương của 2.250 bà mẹ Việt Nam anh hùng


14
(Viện Lịch sử Đảng, 1992, tr 538), 2.440 liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp,

27.285 liệt sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cùng hàng trăm đơn vị và cá nhân
anh hùng. Đặc biệt đây là nơi nguồn cội của gần 50 người con trưởng thành
trong chiến đấu là tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, của lực lượng
vũ tranh nhân dân Việt Nam anh hùng.
Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi có 1 thành phố (thành phố Quảng Ngãi), 1 thị
xã (Đức Phổ), 5 huyện đồng bằng (Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành,
Mộ Đức), 6 huyện miền núi (Ba Tơ, Minh Long, Sơn Tây, Sơn Hà, Tây Trà,
Trà Bồng) và huyện đảo Lý Sơn nằm cách cảng Sa Kỳ (huyện Bình Sơn)
khoảng 25km.
Trải qua bao thế hệ tiếp nối nhau xây dựng, bảo vệ và phát triển quê hương,
nhân dân Quảng Ngãi đã tạo nên cho mình đức tình cần cù, chịu khó, sáng tạo,
người dân Quảng Ngãi luôn cố gắng khắc phục những bất lợi của thiên nhiên,
phát huy các thế mạnh về kinh tế để quê hương luôn song hành với sự tiến bộ
không ngừng của đất nước. Chỉ số GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn) của tỉnh
Quảng Ngãi được đánh giá ở mức khá so với chỉ số GRDP của những tỉnh khác
trong cả nước và luôn tăng trưởng trong những năm gần đây. Ghi nhận cụ thể
của tác giả trong các Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh
của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi qua các năm gần gây, chỉ số GRDP đạt
được của tỉnh ln có sự tăng trưởng tốt: năm 2017, đạt 45.386 tỷ đồng (giá so
sánh 2010), năm 2018, đạt 51.613, 46 tỷ đồng, tăng 10.4% so với năm 2017 và
gần đây nhất, năm 2019 đạt 55.102 tỷ đồng, tăng 6,7% so với năm 2018.
1.1.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi từ khi thực dân
Pháp xâm lược đến Cách mạng tháng Tám 1945
Nhân dân Quảng Ngãi giàu lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất
khuất kiên cường, hết thế hệ này đến thế hệ khác, ngọn lửa đấu tranh chống
kẻ thù xâm lược và phong kiến tay sai ln được gìn giữ và phát huy.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, cùng với nhân dân cả nước, ở


15

Quảng Ngãi dấy lên phong trào “Cần vương” chống Pháp những năm 1885 –
1896 chống lại các thế lực bán nước và cướp nước. Tháng 7/1885, dưới sự
lãnh đạo của cử nhân Lê Trung Đình ở làng Phú Nhơn (huyện Sơn Tịnh) và
Nguyễn Tự Tân ở làng Phước Thọ (huyện Bình Sơn), nhân dân nổi dậy chiếm
thành Quảng Ngãi, chuẩn bị lực lượng chống Pháp.
Những năm 1886 đến năm 1908, lực lượng của Nguyễn Bá Loan và Tôn
Tường liên kết cùng cùng nghĩa quân Quảng Nam, Bình Định liên tục chiến
đấu chống giặc, tổ chức tiến công sở chỉ huy của qn sơn phịng ở Cơ Nhất
(phía nam) và phủ lỵ Bình Sơn (phía bắc), giết chết tướng giặc Lê Thuyền, buộc
Nguyễn Thân phải đốt cầu bỏ chạy. Thực dân Pháp phải hỗ trợ quân sơn phòng
của Nguyễn Thân quay lại đàn áp, đánh phá quyết liệt, thì thế lực của nghĩa
quân mới hao mòn và tan vỡ. Cũng trong khoảng thời gian này có khởi nghĩa
chống Pháp của Thái Thú năm 1894, cuộc vận động chống Pháp cứu nước của
Trần Du những năm 1895 – 1896. Nhìn chung phong trào Cần vương ở Quảng
Ngãi hoạt động được khoảng 11 năm (1885 – 1896) rồi đi đến tan rã, thất bại
nhưng đã giương cao ngọn cờ yêu nước chống Pháp trong tỉnh, là nguồn động
lực tinh thần cổ vũ, dẫn dắt phong trào yêu nước chống Pháp trong những năm
tiếp theo.
Sau phong trào Cần vương, những năm 1897 – 1926 ở Quảng Ngãi tiếp
tục diễn ra sôi nổi phong trào đấu tranh chống Pháp mang màu sắc dân chủ tư
sản. Tiêu biểu là hưởng ứng phong trào Đông Du, Duy Tân những năm 1906 –
1907, các nhà yêu nước Quảng Ngãi đứng đầu là cử nhân Lê Đình Cẩn, làng
La Hà, (xã Nghĩa Dõng, huyện Tư Nghĩa) đã lãnh đạo lập Duy Tân hội và phát
động phong trào “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Ngày 25/3/1908,
hơn 1.500 đồng bào ở các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa kéo về tỉnh lỵ
để đòi giảm xâu, thuế (Bùi Định, 1985, tr.67). Viên Công sứ Đô-đê ra lệnh bắt
giam tất cả và cho đóng các cửa ra vào của tỉnh thành. Không hoảng sợ trước
hành động khủng bố của chính quyền thực dân, ngày 27/3/1908, hàng nghìn



16
đồng bào khác ở các phủ, huyện tiếp tục kéo về tỉnh đòi giảm thuế và đòi thả
những người bị bắt. Trong lúc cuộc đấu tranh ở các phủ, huyện đồng bằng diễn
ra sơi nổi khí thế thì đồng bào dân tộc ít người ở Ba Tơ kéo về đánh phá quân
Sơn phòng ở đồn Đức Phổ. Đây là sự phối hợp giữa phong trào chống Pháp của
đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi với phong trào yêu nước chống Pháp
của đồng bào đồng bằng trong tỉnh Quảng Ngãi. Khí thế của nhân dân trong
tồn tỉnh lên rất cao. Cao trào chống xâu, thuế của nhân dân Quảng Ngãi đã
cùng với phong trào chống xâu, thuế của nhân dân các tỉnh Trung Kỳ làm cho
nền thống trị của thực dân Pháp và chính quyền tay sai bị rung chuyển. Tại
Quảng Ngãi, thực dân Pháp phải giải quyết một số yêu sách của nhân dân như
giảm thuế thân từ 2,6 đồng trước đó xuống cịn 2,1 đồng; xâu trước đó phải đi
làm liên miên khơng hạn định thì nay mỗi người tráng đinh mỗi năm chỉ đi làm
3 ngày cơng ích, ai khơng đi được thì có thể nộp 2 hào bạc trắng thay cho 1
ngày xâu. Ngoài ra, Pháp còn phải thay đổi một số quan lại mà nhân dân đã đòi
trừng trị (Bùi Định, 1985, tr.78).
Sau cuộc đấu tranh chống xâu, thuế, các nhà yêu nước ở Quảng Ngãi tiếp
tục cử người sang các tỉnh bạn hoặc ra nước ngoài học tập; mặt khác tiếp tục tổ
chức lực lượng, vận động binh lính, qun góp tiền của, mua sắm vũ khí, tìm nơi
lập căn cứ, cử người bắt liên lạc với các tỉnh bạn và các nhà cách mạng ở nước
ngồi để duy trì và xây dựng phong trào, sẵn sàng khởi nghĩa khi có thời cơ. Sau
một thời gian liên lạc, Ban chỉ huy liên tỉnh được hình thành gồm các ơng: Thái
Phiên, Trần Cao Vân, Đỗ Tự, Phan Thành Tài (Quảng Nam), Nguyễn Thụy, Lê
Ngung (Quảng Ngãi) và tiến hành khởi nghĩa vào tháng 5/1916. Cuộc khởi nghĩa
tuy không thành công nhưng đã gây được tiếng vang trong dân chúng, giúp cho
tinh thần cách mạng của nhân dân trong tỉnh dần được hun đúc.
Vốn có sẵn tinh thần yêu nước cách mạng và quyết tâm giành lại độc lập
từ tay thực dân Pháp nhưng cũng như cả nước nói chung, phong trào đấu tranh
chống Pháp ở Quảng Ngãi rơi vào bế tắc về đường lối và phương hướng. Sau



17
thất bại của phong trào đấu tranh theo đường lối dân chủ tư sản, các phong trào
đấu tranh trong tỉnh tiếp tục nổi lên với nhiều màu sắc khác nhau nhưng chủ
yếu mang tính tự phát. Giữa lúc “khơng có đường ra” ấy, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời vào tháng 2/1930 trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước.
Đến đây, phong trào đấu tranh chống Pháp trong tỉnh Quảng Ngãi chuyển hẳn
sang con đường cách mạng dân tộc dân chủ theo chủ nghĩa Mác – Lênin do giai
cấp vô sản lãnh đạo. Nhân dân Quảng Ngãi tiếp tục phấn khởi và hăng say trong
việc tham gia đấu tranh giành độc lập tự do.
Tháng 3/1930, tại làng Tân Hội (xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ) Đảng bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi ra đời do đồng chí Nguyễn Nghiêm
làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến cơ bản
của phong trào cách mạng ở các địa phương trong tỉnh. Từ đây, cuộc đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân lao động đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của
một tổ chức cách mạng tiên phong. Ngay từ khi mới được thành lập, Đảng bộ
Quảng Ngãi trực tiếp lãnh đạo, phát động quần chúng nhân dân đứng lên đấu
tranh chống thực dân Pháp và tay sai.
Với chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền, thành lập mặt trận thống
nhất Đông Dương phản đế đồng minh, đồng thời đánh đổ đế quốc và phong
kiến của Đảng, tỉnh Quảng Ngãi liền phát động tuyên truyền rộng rãi kỷ niệm
ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930 để phát huy ảnh hưởng của Đảng và thúc giục
quần chúng tiến lên.
Chỉ vài tháng sau khi Đảng bộ Cộng sản Quảng Ngãi ra đời, Đảng bộ tỉnh
đã phát triển nhanh chóng và tập hợp đơng đảo nhân dân trong các tổ chức
Nông hội đỏ, Công hội đỏ, Thanh niên Cộng sản đảng, Học sinh đoàn, Phụ nữ
giải phóng… để tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên.
Cuộc biểu tình vào đêm 7/10/1930, của 5.000 đồng bào huyện Đức Phổ là
cuộc biểu tình tranh đấu to lớn đầu tiên của đồng bào Đức Phổ, cũng là cuộc
đấu tranh đầu tiên có ý nghĩa lịch sử do Đảng bộ Quảng Ngãi lãnh đạo.



×