Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Thiết kế e-book hỗ trợ việc dạy và học phần hóa hữu cơ 11 Trung học phổ thông (Chương trình nâng cao)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.94 MB, 119 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
__________


Vũ Thị Phương Linh


THIẾT KẾ E-BOOK
HỖ TRỢ VIỆC DẠY VÀ HỌC
PHẦN HÓA HỮU CƠ 11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Chương trình nâng cao)



Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số : 60 14 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN THỊ TỬU





Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


L
L


I
I


C
C


M
M


Ơ
Ơ
N
N





Để hoàn thành luận văn này, ngoài nỗ lực của bản thân, tác giả đã
nhận được sự giúp đỡ to lớn của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp
và các em học sinh.
Bằng tất cả lòng kính trọng và và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gởi lời
cảm ơn chân thành đến Ban Giám Hiệu trườ ng ĐHSP TP. Hồ Chí
Minh, Phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học, quý thầy cô đã tận
tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các học viên hoàn
thành khóa học.
Tác giả cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến:
- PGS. TS. Trần Thị Tửu, cô đã hướng dẫn tận tình, động viên và
theo dõi sát sao với tinh thần trách nhiệm cùng lòng thương mến trong
suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này.
- TS. Trịnh Văn Biều, Trưởng Khoa Hóa, ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.
Cảm ơn thầy đã dành rất nhiều thời gian, công sức và những lời chỉ bảo
tận tình trong suốt quá trình làm luận văn.
- Các thầy cô, các bạn đồng nghiệp và các em học sinh tại các trường
thực nghiệp đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực nghiệm sư
phạm.
- Cuối cùng xin cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè,
đó là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành
tốt luận văn.


Thành phố Hồ Chí Minh 2009



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CĐ : cao đẳng

CNTT : công nghệ thông tin
CSS : cascading Style Sheets – Bảng kiểu xếp chồng
ĐH : đại học
GV : giáo viên
HS : học sinh
HTML : hypertext Markup Language – Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản
ICT : information and communication technology – Công nghệ
thông tin và truyền thông
PPDH : phương pháp dạy học
PMDH : phần mềm dạy học
THPT : Trung học phổ thông



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
- Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh – với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ
thuật, công nghệ phát triển như vũ bão – thì người giáo viên không thể truyền đạt hết cho học
sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều; phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp
học ngay từ cấp tiểu học và càng lên cấp học cao hơn càng phải được chú trọng.
- Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học,
khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì
vậy, người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển
biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong
trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của
giáo viên.
- Sách giáo khoa điện tử là một trong những tài liệu hỗ trợ việc tự học của học sinh, đó là
nguồn cung cấp tri thức quan trọng, nguồn tư liệu cốt lõi, cơ bản để tra cứu, tìm tòi. Do đó

trong quá trình làm việc với sách giáo khoa, học sinh không những nắm vững kiến thức mà
còn rèn luyện các thao tác tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo đọc sách.
- Ngoài ra, sách giáo khoa điện tử cung cấp hệ thống kiến thức hóa học được trình bày
với những hinh ảnh, phim minh họa sinh động, hấp dẫn nhằm phát huy tính tự giác, chủ động
sáng tạo, giúp học sinh sớm làm quen với những ứng dụng của công nghệ thông tin, hình
thành hứng thú học tập và niềm say mê bộ môn hoá cho học sinh.
- Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, tin học đã xâm nhập vào các ngành
nghề và trong mọi lĩnh vực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và
đào tạo ở các cấp học, bậc học và ngành học là cần thiết.
- Để giúp học sinh có cơ hội làm quen với hình thức tự học qua sách giáo khoa điện tử,
tôi đã chọn đề tài: “THIẾT KẾ E-BOOK HỖ TRỢ VIỆC DẠY VÀ HỌC PHẦN HÓA
HỮU CƠ LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO)” với
mong muốn hỗ trợ hoạt động dạy và học, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy và
học hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế E-book hỗ trợ hoạt động tự học và phát triển tư duy của học sinh phần hóa hữu
cơ lớp 11 THPT (chương trình nâng cao) nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học hoá học ở trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: việc thiết kế E-book phần hóa hữu cơ lớp 11 THPT (chương
trình nâng cao).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:
+ Quá trình dạy học.
+ Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học.
+ Quá trình tự học.
+ Phân tích chương trình, nội dung kiến thức phần hóa hữu cơ lớp 11 THPT (chương
trình nâng cao).
- Nghiên cứu các phần mềm cần thiết cho việc thiết kế E-book.

- Vận dụng cơ sở lý luận và sử dụng các phần mềm để thiết kế E-book hóa hữu cơ lớp
11 (chương 5, 6, 7) THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm chất lượng của E-book đã thiết kế.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phần hoá hữu cơ lớp 11 THPT chương trình nâng cao (chương 5, 6, 7).


6. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế sách giáo khoa điện tử có nội dung hấp dẫn, giao diện đẹp sẽ kích thích
hứng thú học tập của học sinh, phát triển năng lực tư duy, niềm say mê đọc sách, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học.
7. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài.
+ Truy cập và chọn lọc thông tin trên Internet.

+ Điều tra.
+ Thực nghiệm sư phạm.
+ Tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu thống kê.
- Phương tiện nghiên cứu: sách giáo khoa, sách bài tập và tài liệu liên quan đến đề tài,
máy vi tính và các phần mềm hỗ trợ.
8. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
- Ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế các bài học phần hóa hữu cơ lớp 11 THPT
(chương trình nâng cao) dưới dạng E-book.
- Góp phần nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu SGK cho học sinh.
- Giúp học sinh có niềm say mê tìm tòi, hứng thú học tập môn hóa.
- Giúp giáo viên có một nguồn tư liệu phong phú để giảng dạy phần hóa học hữu cơ .
- Hệ thống phương pháp giải toán hóa hữu cơ lớp 11 với các chuyên đề cụ thể.
- Có thêm phần VUI HỌC với nội dung hấp dẫn và phong phú với những kiến thức gắn
liền hóa học cuộc sống và môi trường, giúp học sinh mở rộng thêm vốn kiến thức.

- Góp phần đổi mới phương pháp dạy và học ở trường THPT.




Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông, việc tự học
qua mạng, qua hệ thống E-learning và các E-book đang được phổ biến rộng rãi. Người học
có thể học bất cứ lúc nào, bất kì ở đâu, với bất kì ai, học những vấn đề mà bản thân quan tâm,
phù hợp với năng lực và sở thích, phù hợp với yêu cầu công việc…mà chỉ cần có máy tính và
mạng Internet. Việc học trở nên linh hoạt và mở.
Chính vì thế, các đề tài nghiên cứu về thiết kế website tự học, xây dựng E-learnig, thiết
kế E-book đang được mọi người quan tâm nhiều hơn. Sau đây là một số khoá luận và luận
văn tốt nghiệp chuyên ngành hóa học, trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và ĐHSP Hà Nội:
1. Đỗ Ngọc Linh (2005), Nghiên cứu xây dựng giáo trình đi ện tử hóa học lớp 10, Luận
văn thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội.
2. Hỉ A Mổi (2005), Thiết kế website tự học môn hóa học lớp 11 chương trình phân ban
thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
3. Phạm Dương Hoàng Anh (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX
và Macromedia Flash MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho việc học tập và củng cố
kiến thức môn Hóa học phần Hiđrocacbon không no mạch hở dành cho học sinh
THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thị Thanh Hà (2006), Ứng dụng phần mềm Macromedia Flash và
Macromedia Dreamver để thiết kế website về lịch sử hóa học 10 góp phần nâng cao
chất lượng dạy học, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Thị Ánh Mai (2006), Thiết kế sách giáo khoa điện tử (E-book) các chương về
lý thuyết chủ đạo sách giáo khoa hoá học lớp 10 THPT, Luận văn Thạc sĩ khoa học

giáo dục, ĐHSP Hà Nội.
6. Phạm Duy Nghĩa (2006), Thiết kế Web site phục vụ việc học tập và ôn tập chương
nguyên tử cho học sinh lớp 10 bằng phần mềm Macromedia Flash và Dreamweaver,
Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.

7. Đỗ Thị Việt Phương (2006), Ứng dụng Macromedia Flash MX 2004 và Dreamweaver
MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho hoạt động tự học hoá học của học sinh phổ
thông trong chương halogen lớp 10, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Ngọc Anh Thư (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX
và Macromedia Flash MX 2004 để tạo trang web hỗ trợ cho học sinh trong việc tự học
môn hóa học lớp 11 nhóm Nitơ chương trình phân ban thí đi ểm, Khóa luận tốt nghiệp,
ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
9. Phạm Thị Phương Uyên (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX
2004 và Macromedia Flash MX 2004 thiết kế website hỗ trợ cho việc học tập và củng
cố kiến thức cho học sinh môn hoá học nhóm oxi – lưu huỳnh chương trình cải cách,
Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
10. Lê Thị Xuân Hương (2007), Thiết kế website hỗ trợ việc dạy và tự học chương
Halogen lớp 10 THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
11. Trịnh Lê Hồng Phương (2008), Thiết kế học liệu điện tử chương oxi – lưu huỳnh lớp
10 hỗ trợ hoạt động tự học hóa học cho học sinh trung học phổ thông, Khóa luận tốt
nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Thị Thu Hà (2008), Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 – nâng cao
chương “Nhóm Halogen”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Thị Thùy Linh (2008), Xây dựng E-learning chương “Liên kết hóa học và cấu
tạo phân tử” học phần hóa đại cương trường cao đẳng Giao thông vận tải 3, Luận văn
thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
14. Thái Hoàng Minh (2008), Thiết kế website hỗ trợ việc kiểm tra đánh giá môn hóa học
lớp 10 trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
15. Trần Tuyết Nhung (2009), Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Dung dịch – sự
điện li” lớp 10 chuyên hóa học, Luận văn thạc sĩ giáo d ục học, ĐHSP TP Hồ Chí

Minh.
- Các website, E-learning và E-book đều có đặc điểm chung là góp phần nâng cao hiệu
quả cho việc tự học, tự nghiên cứu kiến thức của HS. Tuy nhiên các tác giả chưa quan tâm
đến một số vấn đề sau:
+ Một số website đòi hỏi phải truy cập Internet mới sử dụng được.

+ Nội sung kiến thức được xây dựng chủ yếu bằng phần mềm DreamWeaver
nên giao diện chưa được hấp dẫn, việc link và load các mục của bài học chậm.
+ Website tự học phần hóa hữu cơ còn hạn chế (chủ yếu là hóa học vô cơ và
đ,ại cương).
+ Nguồn tư liệu gắn liền nội dung bài học và thực tiễn cuộc sống, hóa học và
môi trường chưa được phong phú.
+ Chưa đề cập đến nhứng lỗi sai, dễ mắc phải của HS khi nghiên cứu bài
mới.
+ Việc đọc nội dung từng mục không được linh hoạt, phải sử dụng các nút
tới và lui liên tục.
+ Các phim thí nghiệm được đưa trực tiếp vào trang nội dung bài học gây
khó khăn trong việc trình bày bố cục bài học. Đôi khi các phim thí nghiệm
phải download về máy mới xem được.
+ Phương pháp giải toán chỉ đề cập đến những phương pháp chung mà chưa
phân thành các dạng toán cụ thể.
+ Phần vui học giúp HS thư giãn chưa được phong phú và hấp dẫn.
1.2. Đổi mới phương pháp dạy và học
1.2.1. Đổi mới PPDH – yêu cầu cấp bách của thời đại
1.2.1.1. Phương pháp dạy học [ 14, tr. 29]
Thụật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp (methodos) có nghĩa là con đường
để đạt mục đích. Theo đó, PPDH là con đường để đạt mục đích dạy học.
PPDH là cách thức hành động của GV và HS trong quá trình dạy học. Cách thức hành
động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức không tách
nhau một cách độc lập. PPDH là những hình thức và cách thức hoạt động của GV và HS

trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học. PPDH là những hình
thức và cách thức, thông qua đó và bằng cách đó GV và HS lĩnh hội những hiện thực tự
nhiên và xã hội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể.
1.2.1.2. Đổi mới PPDH – yêu cầu cấp bách của thời đại

Giáo dục thế kỉ 21 đang đứng trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật,
đặc biệt là CNTT. Trên thế giới sự tương tác ở mức độ cao của các hệ thống kinh tế, chính
trị, xã hội và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến
năm 2020, Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một nước công nghiệp,
hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn lực người Việt Nam được phát
triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, phẩm chất và
năng lực được hình thành trên một nền tảng kiến thức, kĩ năng đủ và chắc chắn. Xã hội đòi
hỏi người có học vấn hiện đại không chỉ có khả năng lấy ra từ trí nhớ các trí thức dưới dạng
có sẵn, đã lĩnh hội ở nhà trường mà còn phải có năng lực chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức
mới một cách độc lập, khả năng đánh giá các sự kiện, hiện tượng mới, các tư tưởng một cách
thông minh, sáng suốt trong cuộc sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người.
Chính vì thế, một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay là phải tập trung vào việc đổi mới
phương pháp dạy học.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định “Đổi mới phương pháp dạy và học,
phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực
nghiệm, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay, đổi mới và thực hiện nghiêm
minh chế độ thi cử… ” [10, tr. 68]. Có thể nói mục tiêu cốt lõi của đổi mới dạy và học là
hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
1.2.2. Mục đích của đổi mới PPDH [14, tr. 30–31]
Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đồng bộ từ mục tiêu, nội
dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó
khâu đột phá là đổi mới PPDH.
Mục đích của việc đổi mới PPDH ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ

một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp
tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những hình thức khác nhau trong học tập và trong thực
tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo; HS
tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết,

năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận thức cho HS, dạy HS cách tìm ra chân lí.
Chú trọng hình thành các năng lực tự học (tự học, sáng tạo, hợp tác, …) dạy phương pháp và
kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện
tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân HS và cho sự phát triển xã
hội.
PPDH tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái với không hoạt động,
thụ động. PPDH tích cực hướng tới việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS, nghĩa là
hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động của người học chứ không chỉ hướng vào việc
phát huy tính tích cực của người dạy.
Muốn đổi mới cách học, phải đổi mới cách dạy. Cách dạy quyết định cách học, tuy
nhiên, thói quen học tập thụ động của HS cũng ảnh hưởng đến cách dạy của thầy. mặt khác
cũng có trường hợp HS mong muốn được học tập theo PPDH tích cực nhưng GV chưa đáp
ứng được. Do vậy, GV cần phải được bồi dưỡng, phải kiên trì cách dạy theo PPDH tích cực,
tổ chức các hoạt động nhận thức từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, hình thành thói
quen cho HS. Trong đồi mới phương pháp, phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp
hoạt động dạy với hoạt động học thì mới có kết quả. PPDH tích cực hàm chứa cả phương
pháp dạy và phương pháp học.
1.2.3. Những xu hướng đổi mới PPDH
Theo TS. Lê Trọng Tín [62], một số xu hướng đổi mới PPDH nói chung và PPDH hóa
học nói riêng ở nước ta là:
1. Tăng cường tính tích cực, tính tìm tòi sáng tạo ở người học, tiềm năng trí tuệ
nói riêng và nhân cách nói chung thích ứng năng động với thực tiễn luôn đổi
mới.
2. Tăng cường năng lực vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống, sản xuất luôn

biến đổi.
3. Chuyển dần trọng tâm của PPDH từ tính chất thông báo, tái hiện đại trà
chung cho cả lớp sang tính chất phân hóa – cá thể hóa cao độ, tiến lên theo
nhịp độ cá nhân.
4. Liên kết nhiều PPDH riêng lẻ thành tổ hợp PPDH phức hợp.
5. Liên kết PPDH với phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại (phương tiện nghe

nhìn, máy vi tính…) tạo ra các tổ hợp PPDH có dùng kĩ thuật.
6. Chuyển hóa phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù của môn học.
7. Đa dạng hóa các PPDH phù hợp với các cấp học, bậc học, các loại hình
trường và các môn học.
Việc đổi mới PPDH hóa học cũng theo 7 hướng đổi mới của PPDH nói chung như đã
nêu ở trên, nhưng trước mắt tập trung vào hướng sau:
- PPDH hóa học phải đặt người học vào đ úng vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức,
làm cho họ hoạt động trong giờ học, rèn luyện cho họ học tập giải quyết các vấn đề của khoa
học từ dễ đến khó, có như vậy họ mói có điều kiện tốt để tiếp thu và vận dụng kiến thức một
cách chủ động sáng tạo.
- Phương pháp nhận thức khoa học hóa học là thực nghiệm, nên PPDH hóa học phải
tăng cường thí nghiệm thực hành và sử dụng thật tốt các thiết bị dạy học giúp mô hình hóa,
giải thích, chứng minh các quá trình hóa học.
1.2.4. CNTT và truyền thông góp phần đổi mới PPDH
1.2.4.1. Dạy và học theo quan điểm CNTT
CNTT và truyền thông hay còn được viết tắt là ICT (Information and Communicatio n
Technologies) là [113]: “Một tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công nghệ được sử
dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu trữ và quản lí thông tin. Các công nghệ này bao gồm
máy tính, điện thoại, Internet, vô tuyến truyền hình, đài phát thanh…”
CNTT và truyền thông được coi là những công cụ tiềm năng mạnh mẽ, có khả năng tạo
ra những thay đổi và cải cách giáo dục. Ở đó những cơ cấu cứng nhắc theo truyền thống về
mối quan hệ “không gian – thời gian – trật tự thang bậc” sẽ bị phá vỡ. Chẳng hạn, việc phát
sóng chương trình giáo dục trên đài hay vô tuyến không cần thiết phải có GV và học viên tại

cùng địa điểm vật lý. Bài học, bài tập, bài giảng,… được ghi vào đĩa CD hoặc được đưa lên
mạng Internet, nhờ đó mọi người có thể học bất cứ lúc nào. Những diễn đàn trao đổi về mọi
vấn đề, những buổi hội thảo trực tuyến… sẽ giúp cho người học có thể học mọi lúc, mọi nơi,
mọi lứa tuổi, bất kì ai có khả năng và mong muốn đều học được [114].
Với sự phát triển như vũ bão của CNTT và truyền thông, những thành tựu và sản phẩm
mới liên tục ra đời, trong đó thành tựu quan trọng nhất là mạng Internet thì việc tạo ra, phổ
biến, lưu trữ và quản lý, trao đổi thông tin là rất dễ dàng. Vì vậy, trong những năm gần đây,

người ta đặc biệt quan tâm đến việc làm thế nào để khai thác một cách hiệu quả nhất máy
tính và Internet nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở mọi cấp độ, mọi cơ sở đào tạo và mọi
hình thức đào tạo.
Theo quan điểm CNTT [14, tr. 43–44], để đổi mới PPDH, người ta tìm những “Phương
pháp làm tăng giá trị lượng tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn”.
Nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật, quá trình dạy học đã sử dụng phương tiện dạy
học sau đây:
- Phim chiếu để giảng bài với đèn chiếu Overhead.
- Phần mềm hỗ trợ giảng bài, minh họa trên lớp với LCD – projector (máy chiếu tinh
thể lỏng) hay còn gọi là video - projector.
- Phần mềm dạy học (PMDH) giúp HS học trên lớp và ở nhà.
- Công nghệ kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm trên máy tính.
- Sử dụng mạng Internet để dạy học.
Sử dụng phần mềm dạy học làm phương tiện hỗ trợ dạy học một cách hợp lí sẽ cho
hiệu quả cao, bởi lẽ khi sử dụng phần mềm dạy học bài giảng sẽ sinh động hơn, sự tương tác
hai chiều được thiết lập, HS được giải phóng khỏi những công việc thủ công vụn vặt, tốn
thời gian, dễ nhầm lẫn, nên có điều kiện đi sâu vào bản chất dạy học.
Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng có hiệu quả nhất cho giáo dục đào tạo là công
nghệ đa phương tiện Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc biệt là mạng Internet.
Hai công nghệ này đã giúp cho con người thực hiện được khẩu hiệu học ở mọi nơi, học ở
mọi lúc, học suốt đời và dạy cho mọi người với mọi trình độ khác nhau.
Sử dụng CNTT để dạy học, PPDH cũng thay đổi. GV là người hướng dẫn HS học tập

chứ không đơn thuần chỉ là người “rót” thông tin vào đầu HS. GV cũng phải học tập thường
xuyên để nâng cao trình độ về CNTT, sử dụng có hiệu quả CNTT trong học tập. HS có thể
lấy thông tin từ nhiều nguồn phong phú khác nhau như sách, Internet, CD – ROM… Lúc này
HS phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin, không còn chỉ đơn thuần nhận thông tin một
cách thụ động vì nguồn thông tin vô cùng phong phú.
1.2.4.2. Vai trò của CNTT trong giảng dạy hóa học [47]
Đối với môn hóa học, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy sẽ tạo ra một bước chuyển
cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Cụ thể là:

- CNTT là một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc xây dựng các kiến thức mới.
- CNTT tạo môi trường để khám phá kiến thức nhằm hỗ trợ cho quá trình học tập.
- CNTT tạo môi trường để hỗ trợ học tập qua thực hành, qua cộng đồng và qua phản
ánh.
- CNTT giúp cho việc đánh giá định tính và định lượng hóa học chính xác hơn.
1.2.4.3. Ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy học
- Ưu điểm
+ Là công cụ đắc lực, hỗ trợ cho việc xây dựng kiến thức.
+ Giúp HS dễ hiểu bài, hiểu bài một cách sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn do việc thu
nhận thông tin về sự vật hiện tượng một cách sinh động, chính xác đầy đủ từ đó nâng
cao hứng thú học tập môn học, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.
+ HS được tiếp cận, làm quen với các thiết bị, công nghệ hiện đại.
+ HS không bị thụ động, có nhiều thời gian nghe giảng để đào sâu suy nghĩ… và điều
quan trọng hơn là nhiều HS được dự và nghe giảng bài của nhiều GV giỏi.
+ GV chuẩn bị bài dạy một lần thì sử dụng được nhiều lần chỉ cần bổ xung những kiến
thức mới.
+ Các phương tiện hiện đại sẽ tạo ra khả năng để GV trình bày bài giảng sinh động hơn,
dễ dàng cập nhật và thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại.
+ Các phương tiện sẽ hỗ trợ, chuẩn hóa các bài giảng mẫu, đặc biệt với những phần khó
giảng, những khái niệm phức tạp.
+ Giúp GV tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết h ọc, giúp GV điều khiển

được hoạt động nhận thức của HS, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em
được thuận lợi và cho hiệu suất cao hơn.
+ Giải phóng người thầy khỏi một lượng lớn các công việc tay chân do đó làm tăng khả
năng nâng cao chất lượng dạy học.
+ Đặc biệt nếu áp dụng hình thức đào tạo điện tử (E-Learning) sẽ đáp ứng được mọi
tiêu chí: Hình thức đào tạo đa dạng, học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi thứ và học
mềm dẻo, học một cách mở, học suốt đời và tiết kiệm chi phí cho cả người dạy lẫn
người học. Bởi đặc điểm của E – Learning là có hệ thống giảng bài và có tài liệu học

tập được giới thiệu dưới dạng số hóa, được đặc trưng bởi tính đa và siêu phương
tiện, có sự tương tác qua lại giữa người học, hệ thống dạy và người dạy.
Với các lý do nêu trên, việc ứng dụng ICT trong dạy học hóa học sẽ tạo ra một bước
chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung chương trình, PPDH và phương pháp đào
tạo.
- Hạn chế
+ Chi phí đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất lớn.
+ Đòi hỏi đội ngũ GV và HS phải có trình độ tin học, ngoại ngữ (tiếng Anh) nhất định.
+ Khi sử dụng máy tính điện tử, người ta dễ đánh mất cảm giác chân thực thiếu đi
những cảm xúc, xúc giác và ấn tượng thực. Do đó, ICT chỉ hỗ trợ chứ không thay
thế được các thiết bị thực hành.
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công nghệ thông tin và truyền
thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu đã đạt được những kết quả khả
quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và
những thách thức vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một
mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn trong các
bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ
chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn,
không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho
học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và như vậy sẽ

dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy
trên máy tính điện tử. Những mạch kiến thức “ vận dụng” đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với
phấn trắng bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ năng
cho học sinh.
- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn còn
hạn chế, chưa đủ “vượt ngưỡng” để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh. Mặt khác,
phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặ t vẫn
chưa thể xóa được trong một thời gian tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy
theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết,

cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với giáo viên và
đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng thời phát huy ưu điểm
của phương pháp dạy học này làm hạn chế những nhược điểm của phương pháp dạy học
truyền thống. Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học,
vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó.
- Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng
dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng, chưa xác định hướng
ứng dụng CNTT trong dạy học. Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được
sự đồng bộ trong thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới PPDH bằng
phương tiện chiếu projector, … còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa hướng dẫn sử dụng nên
chưa triển khai rộng khắp và hiệu quả.
- Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng
không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công tác đào tạo, công tác
bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ GV chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên giáo viên
chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp
học một cách có hiệu quả.
1.2.4.4. Thực trạng ứng dụng CNTT và truyền thông ở nước ta hiện nay
- Trước đây, trong điều kiện hệ thống giáo dục của nước ta chưa thích nghi được hoàn
toàn với kỉ nguyên kinh tế tri thức. Nghị quyết TW IV của Ban chấp hành TW đã nhấn

mạnh: “ Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những chương trình của đầu tư phát triển,
tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp kinh tế - xã
hội”. Nhìn lại những năm vừa qua chúng ta thấy nội dung giáo dục ít gắn liền với yêu cầu
của cuộc sống hằng ngày, dạy học vẫn bằng phương pháp lạc hậu: thầy giảng – trò ghi, chưa
cập nhật được những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Do đó, sản phẩm giáo dục –
con người thông qua gíáo dục đào tạo thường thiếu năng động, sáng tạo, còn nhiều bỡ ngỡ,
lúng túng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi của cuộc sống vốn rất đa dạng và luôn luôn biến đổi
không ngừng.
- Để hòa cùng với nhịp độ phát triển giáo dục chung của các nước trên thế giới, trong
những năm 1990 trở lại đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những cố gắng trong việc tăng

cường trang thiết bị, cung cấp thêm nhiều máy tính cho các trường phổ thông, mở rộng và
nâng cao chất lượng sinh viên khoa công ngh ệ thông tin, cử nhiều GV đi học thêm tin học,
phổ cập chứng chỉ Intel cho GV ở các trường phổ thông, khuyến khích các cán bộ nghiên
cứu các phần mềm dạy học.
- Theo
/> [96]

Năm 1998, ngay sau khi Internet được mở ra tại Việt Nam, Trung tâm CNTT của Bộ
(nay là Cục CNTT) đã xây dựng đề án Mạng giáo dục EduNet, để nối mạng toàn ngành và
phát triển dịch vụ thông tin giáo dục. Ý tưởng nội dung cơ bản của dự án Mạng giáo dục
có thể tóm tắt như sau: Nối tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo vào Internet trên một xa lộ
quốc gia (backbone), phát triển các dịch vụ thông tin và ứng dụng trên Internet, phát triển
thông tin (số) về giáo dục; đưa công nghệ dạy học trực tuyến lên mạng EduNet để chia sẻ
dùng chung, để mọi người có thể học mọi nơi, mọi lúc; mỗi trường đại học (ĐH), cao
đẳng (CĐ) phải có website riêng, mỗi giáo viên và học sinh có email theo tên miền của
trường.
Trong khoảng mười năm gần đây, các trường THPT đã triển khai chương trình dạy
môn tin học, trình độ giảng dạy và ứng dụng tin học đã có cơ sở vững chắc, nhiều phần
mềm dạy học đã được thử nghiệm. Nhiều giáo viên đã thử ứng dụng phần mềm của nước

ngoài để làm công cụ dạy học, song các phần mềm còn quá ít ỏi, các ứng dụng còn mang
tính thử nghiệm. Nếu xây dựng và đưa các phần mềm vào dạy học phổ biến sẽ là một
bước ngoặc quan trọng cho nền giáo dục nước nhà.
Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin Bộ Giáo dục và Đào tạo Quách Tuấn Ngọc:
Cho đến nay, giáo viên các trường đang chủ yếu soạn bài trình chiếu powerpoint và một
số phần mềm dạy học. Vẫn còn có sự nhầm lẫn khá lớn giữa khái niệm về giáo án điện tử
với bài trình chiếu, bài giảng điện tử, giữa thiết bị dạy học với phần mềm.
Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc làm bài giảng điện tử
theo công nghệ E -Learning. Trong những năm qua , Cục CNTT đã xây dựng website E-
Learning
để tuyên truyền phổ cập công nghệ, nghiên cứu thử nghiệm
và tuyển chọn các phần mềm E-Learning thích hợp, đã Việt hoá phần mềm mã nguồn mở
Moodle và đến nay đã có khoảng 70 trường ĐH, CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức

chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu
Việt Nam cho các Sở.
- Theo thông tấn xã Việt Nam [98]: Đến nay, đã có 20% GV trung học, 30% trường
THPT ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2 – 5% số bài giảng đã sử dụng phần mềm dạy học và
có ứng dụng CNTT. Ngoài ra còn có nhiều phần mềm hỗ trợ khác đã sử dụng rộng rãi trong
các trường. Các tập đoàn máy tính và phần mềm mới như Intel, IBM, Microsoft,… cũng đã
đầu tư rất lớn cho việc nghiên cứu đưa CNTT vào giáo dục và hỗ trợ cho Bộ G iáo dục và
Đào tạo nhiều dự án đang được triển khai ở nhiều trường phổ thông một cách có hiệu quả,
mở ra một hướng mới cho việc đổi mới giáo dục ở nước ta.
- Tuy nhiên, nhiều GV vẫn còn quen với cách dạy cũ, ngại thay đổi, tâm lí ngại phải
hao tốn nhiều thời gian, công sức để đầu tư, soạn lại giáo án của tất cả bài giảng cho phù hợp
với phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học mới.
- Một số GV chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng ứng dụng CNTT.
- Bên cạnh đó, sinh viên sư phạm chưa ứng dụng nhiều CNTT và các phần mềm dạy
học trong soạn giáo án. Theo Th.S Vũ Thị Ngọc Tú [106], Khoa Tâm lý - giáo dục học của
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã tiến hành một khảo sát về mức độ sử dụng CNTT trong việc

soạn giáo án của các sinh viên tại 6 khoa Toán, Lý, Hóa, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý trong
trường. Kết quả cho thấy, 19,6% số sinh viên thường xuyên sử dụng CNTT trong việc soạn
giáo án; 50,8% thỉnh thoảng sử dụng; 28,8% hiếm khi sử dụng và 0,8% chưa sử dụng CNTT
để soạn giáo án bao giờ. Trong 6 khoa được khảo sát, khoa Ngữ Văn và Địa lý lại có số sinh
viên thường xuyên sử dụng CNTT nhiều nhất (25%), trong khi đó, số ít nhất lại rơi vào các
sinh viên khoa Toán. Cá biệt, khoa Hóa học có đến 5% sinh viên chưa từng sử dụng CNTT
để soạn bài giảng. Nguyên nhân của tình trạng này là các sinh viên ít có cơ hội được học một
cách bài bản hệ thống các phần mềm ứng dụng trong dạy học, những em biết thì hầu hết do
tự học nên không thành thạo hoặc không biết cách sử dụng những phần mềm đó vào việc
soạn giáo án cụ thể.
- Nghiên cứu của Th.S Vũ Thị Ngọc Tú cũng cho thấy sự chênh lệch trong việc sử
dụng phương tiện CNTT trong khi soạn giáo án. Internet là phương tiện được sử dụng nhiều
nhất (52,1%). Các phương tiện khác cần sự tìm tòi, sáng tạo được sử dụng ít hơn, như bài
trình bày đa phương tiện (4, 6%); thiết kế trang Web (17,1%); xây dựng ấn phẩm (17 ,1%);

học theo dự án (4,6%); sử dụng các câu hỏi cơ bản (4,6%). Trong khi soạn giáo án, có đến
42,1% sinh viên chưa khi nào yêu cầu học sinh sử dụng CNTT vào việc tìm kiếm thông tin,
phát triển tư duy bâc cao và trình bày sản phẩm và tự đánh giá. Dưới 50% sinh viên dùng
Internet để hỗ trợ xây dựng các hoạt động trong bài học và đến 42,1% chưa sử dụng CNTT
để trình bày bài giảng của mình cho học sinh.
[

Như vậy, ta có thể khẳng định rằng “Đổi mới phương pháp dạy học hóa học bằng
CNTT là xu thế của thời đại ngày nay”. Tuy nhiên, việc ứng dụng làm sao để khai thác hợp lí
và hiệu quả của ICT vào dạy học nói chung và dạy học hóa học nói riêng lại cần phải có
những nghiên cứu cụ thể và nghiêm túc.


1.2.4.5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng CNTT ở trường trung học [14, tr.
45-46]

Hiện tại nhiều trường trung học đã được trang bị máy vi tính, các phương tiện nghe
nhìn, các phương tiện truyền thông khác, khá nhiều trường đã được kết nối Internet. GV đã
được tập huấn về ứng dụng CNTT trong dạy học. HS thường xuyên tiếp xúc với CNTT. Để
nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong trường trung học, cần thực hiện một số nội
dung sau:
- Nâng cao nhận thức cho c án bộ quản lí, GV và HS về việc ứng dụng CNTT trong
quản lí giáo dục và dạy học.
- Sử dụng các nguồn kinh phí để đầu tư trang thiết bị về CNTT cho các trường trung
học.
- Bồi dưỡng GV các bộ môn về CNTT để họ có thể tổ chức tốt ứng dụng CNTT trong
dạy học.
- Tổ chức trình diễn các tiết dạy học có ứng dụng CNTT trong trường trung học nhằm
mục đích tuyên truyền, động viên các các nhân, đơn vị tổ chức tốt việc ứng dụng CNTT.
- Xây dựng một số dịch vụ giáo dục và đào tạo ứng dụng trên mạng Internet.
- Tuyển chọn, xây dựng và hướng dẫn sử dụng các phần mềm quản lí giáo dục và dạy
học.

- Nâng cao hiệu quả của việc kết nối Internet.
- Nghiên cứu để đưa các phần mềm dạy học tốt vào danh mục thiết bị dạy học tối thiểu.
- Tổ chức trao đổi kinh nghiệm về ứng dụng CNTT giữa các trường trung học trong
nước và quốc tế.
Để việc đổi mới PPDH không chỉ là phong trào, để nó không chỉ được nhìn thấy trên bề
nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường, từng lớp học, trở thành thói quen của mỗi thầy
cô giáo thì một trong những điều kiện cần thiết là sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ thiết thực từ
phía ban giám hiệu nhà trường và các cấp quản lý. Vì rất nhiều lý do như đã thoát ly giảng
dạy, bận bịu với quá nhiều việc, nên ban giám hiệu các nhà trường thường ít có thời gian dự
giờ, có nơi chưa thực sự đi sâu, đi sát, tháo gỡ kịp thời những băn khoăn, vướng mắc của GV
trong việc triển khai yêu cầu này. Thực tế cho thấy, nếu hiệu trưởng trường nào quan tâm
đến việc đổi mới PPDH, thì chắc chắn GV trường ấy sẽ được tạo điều kiện để tiếp cận với
các phương pháp dạy học mới, với trang thiết bị hiện đại, có cơ hội được tham dự những

buổi hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm của những chuyên gia... Ngoài việc chuẩn bị điều kiện
cơ sở vật chất, trang thiết bị, tập huấn GV... điều quan trọng nữa là ban giám hiệu các trường
phải chủ động, sáng tạo trong cách tổ chức, quản lý để khích lệ GV thường xuyên thực hiện
đổi mới trong các giờ dạy, không để tình trạng người làm cũng được, người không làm cũng
chẳng sao.
- Các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục s ớm đưa ra tiêu chí đánh giá tiết dạy có sử
dụng CNTT, chuẩn bài giảng điện tử để có cơ sở thẩm định, tạo ra ngân hàng bài giảng điện
tử có chất lượng.
Sự cần thiết phải đổi mới PPDH thì đã rõ, song để thực hiện được rộng khắp trong toàn
ngành thật không đơn giản. Nó đòi hỏi người thầy không chỉ có bản lĩnh nghề nghiệp vững
vàng, mà còn phải tự mình vượt qua những thói quen đã ăn sâu, bám rễ. Nói như một vị cán
bộ quản lý ngành: “Nó đòi hỏi thay đổi nhận thức về sự trao đổi chủ thể trong một tiết dạy và
phục vụ cho điều ấy là biết bao công sức: Làm quen với CNTT và những phương tiện dạy
học hiện đại, sử dụng được đa dạng các hình thức kiểm tra đánh giá, tiếp cận với những đòi
hỏi mới về kiến thức cũng như tâm lý của học trò... Hãy nhìn vào những đôi mắt học trò!
Chúng ta sẽ thấy sự háo hức, niềm khát khao hiểu biết vô bờ. Chúng đang mong đợi các thầy
cô truyền cho cách tự phát hiện, chiếm lĩnh và sử dụng tri thức một cách tự nhiên nhất, giản

đơn nhất và cũng khó quên nhất. Vậy thì, đổi mới PPDH là một nhu cầu không thể thiếu, và
mỗi thầy cô giáo hãy nỗ lực hết mình !”.
1.2.4.6. Khai thác sử dụng một số phần mềm để dạy học môn hóa học
Đối với hóa học, hiện nay trên thế giới khá nhiều đĩa CD – ROM về hóa học phong
phú. Các phần mềm hóa học bao gồm hai loại chủ yếu: [39]
- Một là, các chương trình tiện ích như ISIS Draw, ChemWin, ChemDraw, Chem3D,…
được dùng để viết và vẽ các công thức hóa học; các chương trình tính toán hóa lượng tử như
Mopac, Hyper Chem, Gaussian… chương trình Hyper Chem chủ yếu dùng để tính toán các
tham số hóa lượng tử và trình diễn mô hình các phân tử. Phần mềm thí nghiệm MSS
(Multimedia Science School) không những miêu tả cấu trúc nguyên tử, phân tử trong bảng
hệ thống tuần hoàn Mendeleep mà còn miêu tả nhiều phản ứng hóa học mà trong điều kiện
thường khó thực hiện được.

- Hai là các đĩa CD về thí nghiệm hóa học (Cyber Chem), các mô hình, các câu hỏi trắc
nghiệm tự kiểm tra (Quiz),…. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là làm thế nào cho các
phần mềm dễ sử dụng như dùng các đĩa CD âm nhạc, phim, phim hoạt họa, trò chơi điện tử,
tất nhiên người sử dụng phải đọc và hiểu được tiếng Anh và biết sử dụng máy tính ở mức độ
tối thiểu nào đó.
- Phần mềm giảng dạy có thể được hiểu là các phần mềm dùng cho việc dạy và học trên
máy tính (có thể nối mạng LAN, WAN, và WWW), về hóa học nó bao gồm các lĩnh vực sau
:
+ Sách điện tử là các đĩa CD hướng dẫn học một giáo trình hóa học có bài tập, thí
nghiệm mô phỏng, tự kiểm tra đánh giá. Có nơi gọi là gia sư.
+ Kiểm tra và thi trắc nghiệm trên máy theo đề riêng, tự đánh giá kết quả.
+ Xử lý các số liệu thực nghiệm.
+ Biểu diễn các mô hình để xây dựng các khái niệm trừu tượng.
+ Thực hiện các thí nghiệm mô phỏng trên máy.
+ Xem các thí nghiệm thực ghi trên đĩa.
Sử dụng phần mềm trong giảng dạy là một công cụ không thể thiếu được trong công
nghệ giáo dục nhằm phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Xu hướng học tập và giảng
dạy hiện đại đó đang được phổ biến ở các nước tiên tiến. Tuy nhiên, phần mềm dạy học

không thể thay thế được vai trò của người thầy, sách giáo khoa, các giáo trình, các công cụ
dạy học khác. Các thí nghiệm mô phỏng và các thí nghiệm ảo không thể thay thế được các
thí nghiệm thực ở các phòng thí nghiệm dù là còn thô sơ. Việc sử dụng phần mềm trong
giảng dạy là một hướng nghiên cứu còn mới mẻ, cần được quan tâm nghiên cứu để tiếp tục
phát triển.
1.3. Tự học
1.3.1. Tự học là gì?
Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 [28], tự học là: “…quá
trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành…”.
Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được hình
thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương

tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người
học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều
khiển của người học nhằm đạt được kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ
học tập nhất định”.
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio,
truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm, xem phim, kịch, giao
tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong
các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm
chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều
cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết
cách làm việc trong thư viện… Đối với HS, tự học còn thể hiện bằng cách tự làm các bài tập
chuyên môn, các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động ngoại khóa khác. Tự
học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
1.3.2. Các hình thức của tự học
Theo TS. Trịnh Văn Biều [7], có 3 hình thức tự học:
- Tự học không có hướng dẫn: Người học tự tìm lấy tài liệu để đọc, hiểu, vận dụng các
kiến thức trong đó. Cách học này sẽ đem lại rất nhiều khó khăn cho người học, mất nhiều
thời gian và đòi hỏi khả năng tự học rất cao.

- Tự học có hướng dẫn: Có GV ở xa hướng dẫn người học bằng tài liệu hoặc bằng các
phương tiện thông tin khác.
- Tự học có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết trong
ngày, trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học.
1.3.3. Chu trình dạy – tự học
Theo tác giả Nguyễn Kỳ: “Quá trìng dạy – tự học là một hệ thống toàn vẹn gồm 3
thành tố cơ bản: thầy (dạy), trò (tự học), tri thức. Ba thành tố cơ bản đó luôn luôn tương tác
với nhau, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau theo những quy luật riêng nhằm kết hợp
chặt chẽ quá trình dạy của thầy với quá trình tự học của trò làm cho dạy học cộng hưởng với
tự học tạo ra chất lượng, hiệu quả giáo dục cao.” [36]
1.3.3.1. Chu trình tự học của trò

Chu trình tự học của học sinh là một chu trình 3 thời:
- Tự nghiên cứu
- Tự thể hiện
- Tự kiểm tra, tự điều chỉnh

Hình 1.1. Chu trình học ba thời
Thời (1) : Tự nghiên cứu
Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định hướng, giải
quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm ban đầu
hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân.
Thời (2): Tự thể hiện

Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự sắm vai trong các tình
huống, vấn đề, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể
hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy, tạo ra sản phẩm có tính
chất xã hội của cộng đồng lớp học.
Thời (3): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác, trao đổi với các bạn và thầy, sau khi thầy kết
luận, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh
thành sản phẩm khoa học (tri thức).
1.3.3.2. Chu trình dạy của thầy
Chu trình dạy của thầy nhằm tác động hợp lí, phù hợp và cộng hưởng với chu trình tự
học của trò, cũng là chu trình ba thời tương ứng với chu trình học ba thời của trò.
- Hướng dẫn
- Tổ chức
- Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra
+ Thời (1): Hướng dẫn
Thầy hướng dẫn cho người học về các tình huống học, các vấn đề cần phải giải quyết,
các nhiệm vụ phải thực hiện trong cộng đồng người học.
+ Thời (2): Tổ chức

Thầy tổ chức cho trò tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn: tổ chức các cuộc tranh
luận, hội thảo, sinh hoạt
nhóm, các hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường nhằm tăng cường mối quan hệ
giao tiếp trò – trò, trò – thầy và sự hợp tác cùng nhau tìm ra kiến thức, chân lí.
+ Thời (3): Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra
Thầy là trọng tài, cố vấn kết luận về các cuộc tranh luận, hội thảo, đối thoại… để khẳng
định về mặt khoa học kiến thức do người học tự mình làm ra.
Cuối cùng, thầy là người kiểm tra đánh giá kết quả tự học của trò, trên cơ sở trò tự kiểm
tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh.
1.3.4. Vai trò của tự học [47]
- Tự học có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi người.

- Tự học là con đường tự khẳng định của mỗi người. Tự học giúp cho con người giải
quyết mâu thuẫn giữa khát vọng cao đẹp về học vấn với hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống
cá nhân.
- Tự học khắc phục nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn. Sự
bùng nổ thông tin làm cho người thầy không có cách nào truyền thụ hết kiến thức cho trò, trò
phải học cách học, tự học, tự đào tạo để không bị rơi vào tình trạng “tụt hậu”. Đối với học
sinh THPT, quỹ thời gian 3 năm được đào tạo ở bậc học này chắc chắn sẽ không thể nào tiếp
thu được hết khối lượng kiến thức khổng lồ trong chương trình. Vì vậy, tự học là một giải
pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian
ít ỏi ở nhà trường.
- Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người. Quá trình tự học khác
hẳn với quá trình học tập thụ động, nhồi nhét, áp đặt. Quá trình tự học diễn ra theo đúng quy
luật của hoạt động nhận thức. Kiến thức có được do tự học là kết quả của sự hứng thú, của sự
tìm tòi, lựa chọn nên bao giờ cũng vững chắc bền lâu. Có phương pháp tự học tốt sẽ đem lại
kết quả học tập cao hơn. Khi học sinh biết cách tự học, học sinh sẽ “có ý thức và xây dựng
thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
- Người học phải biết cách tự học vì học tập là một quá trình suốt đời. Đối với học sinh

THPT, nếu không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến các bậc
học cao hơn như đại học, cao đẳng… học sinh sẽ khó thích ứng với cách học đòi hỏi phải tự
học tập, tự nghiên cứu thường xuyên do đó khó có thể thu được một kết quả học tập tốt.
- Tự học của học sinh THPT còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục
và đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Với lối dạy theo hướng
“nhồi nhét” trong các nhà trường phổ thông hiện nay, học sinh khó có thể có thời gian để tự
học và tự học có hiệu quả. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học
sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri
thức khoa học. Vì vậy, tự học chính là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hóa
của nhân loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường phổ thông.
1.3.5. Tự học qua mạng – Ưu điểm và hạn chế
1.3.5.1. Tự học qua mạng

×