Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tài nghiên cứu khoa học-tính chủ động của cuocj khởi nghĩa lam sơn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.62 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
KHOA SỬ - ĐỊA
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP KHOA
TÍNH CHỦ ĐỘNG CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN
Người hướng dẫn: T.S Phạm Văn Lực
Người thực hiên : Vũ Ngọc Tùng
Sơn la, 04/2011
1
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo - Tiến Sĩ Phạm Văn Lực, giảng
viên khoa Sử - Địa đã tận tình giúp đỡ, cố vấn cho chúng tôi trong suốt quá trình
thực hiện nghiên cứu đề tài.
Cảm ơn đơn vị thư viện trường ĐH Tây Bắc, thư viện tỉnh Sơn La đã giúp đỡ
chúng tôi trong việc tìm nguồn tư liệu phục vụ đắc lực cho quá trình nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn ban quản lí khu di tích lịch sử Lam Kinh, đài Phát thanh -
truyền hình, phòng văn hóa huyện Thọ Xuân –Thanh Hóa, ban văn hóa xã Xuân
Lam- huyện Thọ Xuân, phòng văn hóa huyện Lang Chánh – Thanh Hóa đã cung
cấp cho chúng tôi những nguồn tư liệu thiết thực, bổ ích.
Chúng tôi chân thành gửi lời cảm ơn đến các cụ cao niên xã Xuân Lam( Thọ
Xuân, Thanh Hóa), xã Kiên Thọ ( Ngọc Lặc, Thanh Hóa), xã Giao Thiện( Lang
Chánh, Thanh Hóa) cho chúng tôi thêm một kênh thông tin quý báu.
Do còn thiếu kinh nghiệm trong việc nghiên cứu nên Đề tài của chúng tôi
khó tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy mong nhận được sự đóng góp từ phía các
thầy cô và các bạn để đề tài của chúng tôi có thể hoàn chỉnh hơn.
Sơn la, ngày 30/3/2011
Người thực hiện:
VŨ NGỌC TÙNG

2
I- PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.


Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần sa sút, Hồ Qúy Ly dần dần kiểm soát cả triều đình.
Vời quyền hành hiện có của mình, Hồ Qúy Ly đã thực hiện nhiều biện pháp
thanh trừng những người trung thành với triều Trần. Ông lên ngôi năm 1400, đặt
tên nước là Đại Ngu, bắt đầu thực hiện những biện pháp cải cách về kinh tế,
chính trị,xã hội. Tuy nhiên do thực hiện quá nhiều thay đổi trong một thời gian
ngắn nhưng lại không nhận được sự ủng hộ của các cựu thần nhà Trần và nhân
dân, cùng với đó là nhiều yếu tố khác đã làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng.
Nhân cơ hội đó, năm 1406, nhà Minh với lá cờ: “ Phù Trần diệt Hồ” đã đưa quân
sang xâm lược nước Đại Ngu. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ nhanh chóng thất
bại, nước Đại Ngu bị tiêu diệt, lãnh thổ bị sát nhập vào Trung Quốc sau 500 năm
giành độc lập tự chủ.
Ngay sau khi nhà Hồ thất bại, đã có nhiều phong trào chống Minh nổi lên.
Trong các phong trào đó lớn nhất là phong trào đấu tranh của nhà hậu Trần và
khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.
Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về phong trào chống
quân Minh xâm lược nói chung và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng nhưng
chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn một
cách hoàn chỉnh. Vì vậy chọn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà mà cụ thể là: “ Tính
chủ động của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn” có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn
như sau:
• Về mặt khoa học.
Góp phần khôi phục một cách sinh động chân thực về tính động
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Góp phần làm rõ đóng góp của tính chủ động đối với thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn .
• Về mặt thực tiễn.
Bổ sung nguồn tư liệu về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợị ở
thế kỉ XV
Góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất
khuất, lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ ngày nay.

Đề tài là nguồn tư liệu tham khảo cho quá trình học tập và giảng dạy
bộ môn lịch sử nói chung và giai đoạn lịch sử nửa đầu thế kỉ XV nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
3
Tính chủ đông của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được đề cập đến trong một số
công trình như Đại cương lịch sử Việt Nam_tập 1 (Trương Hữu Quýnh, NXB
Giáo Dục,2009), Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến 1858 (Trương Hữu Quýnh,
NXB ĐH SƯ PHẠM, 2008), Danh tướng Lam sơn (Nguyễn Khắc Thuần, NXB
GIÁO DỤC, 2006) với những góc độ và khía cạnh khác nhau, cụ thể là:
Đưa ra môt số tài liệu và hoàn cảnh của khởi nghĩa Lam Sơn nhưng chỉ sơ
lược, chưa cụ thể, hệ thống, đề cập chung chung không hoàn chỉnh.
Vấn đề tuy được đề cập trong một số công trình nhưng chưa một công trình
nào đề cập một cách cụ thể. Nhưng tất cả những công trình đó đã định hướng
cho chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề khoa học mà công trình đó chưa đề cập
tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, đóng góp của đề tài.
3.1. Tên đề tài
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thế kỉ XV.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
• Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ tinh chủ động của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ 1418 -1427.
• Về mặt không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn từ khi manh nha tại vùng núi Thanh Hóa đến khi
giành được độc lập hoàn toàn tại hội thề Đông Quan
3.3. Đóng góp của đề tài.
Đề tài góp phần đóng góp, bổ sung những thiếu sót cho các công trình
nghiên cứu trước đó về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng và lịch sử Việt Nam
trung đại nói chung. Từ đó, đưa ra cái nhìn sâu rộng hơn về một khía cạnh của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Bổ sung nguồn tư liệu có ích và thiết thực trong việc học tập và giảng

dạy, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trung đại.
4. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu.
4.1. Phương pháp nghiên cứu .
Đề tài sử dụng song song hai phương pháp lịch sử và logic dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên nghành
như: sưu tầm, hệ thống tài liệu, so sánh, đối chiếu.
4.2. Nguồn tư liệu.
Nguồn tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu được thu thập từ thư tịch
cổ và các công trình khác của nhiều nhà nghiên cứu:
4
II- NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
CHƯƠNG I: ÁCH CAI TRỊ CỦA NHÀ MINH VÀ SỰ BÙNG NỔ
CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN.
I) ÁCH CAI TRỊ CỦA NHÀ MINH.
1. Nguyên nhân và quá trình xâm lược của nhà Minh.
Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần sa sút, Hồ Qúy Ly dần dần kiểm soát cả triều đình,
ra nhiều biện pháp thanh trừng những người trung thành với triều Trần. Ông lên
ngôi vua năm 1400, đặt tên nước là Đại Ngu, bắt đầu các biện pháp cải cách ở
nhiều mặt. Tuy nhiên, do thực hiện quá nhiều thay đổi trong một thời gian ngắn,
lại không được các cựu thần nhà Trần cũng như nhân dân ủng hộ, lại thêm tình
hình kinh tế - xã hội suy yếu vì nhiều nguyên nhân. đất nước rơi vào khủng
hoảng. Nhân cơ hội đó, năm 1406, nhà Minh với lá cờ “Phù Trần diệt Hồ”, đã
đưa quân sang xâm lược Đại Ngu. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ nhanh chóng
thất bại, nước Đại Ngu bị tiêu diệt, đánh mất chủ quyền sau 500 năm độc lập.
Tướng nhà Minh là Trương Phụ xúi giục một số người Việt đến trước quân
doanh xin được trở lại làm quận huyện của nhà Minh vì nhà Trần đã tự tuyệt.
Minh Thành Tố nhân cơ hội đó đổi An Nam thành quận Giao Chỉ, kinh đô
Thăng Long gọi là thành Đông Quan.
2. Bộ máy cai trị của nhà Minh.

2.1 Về hành chính.
Quận Giao Chỉ được sát nhập vào nhà Minh, gồm 3 ty phụ thuộc trực tiếp
vào triều đình Yên Kinh :1_ Đô chỉ huy sứ ty phụ trách quận Chính. 2_Thừa
tuyên bố chính sứ ty phụ trách dân sự và tài chính. 3_ Đề hình án sát sứ ty phụ
trách tư pháp. Các chức chánh, phó ty đều là người Trung Quốc, một số người
Việt có công với nhà Minh được trọng dụng như Nguyễn Huân, Mạc Thúy,
Lương Như Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung.
Bộ máy cai trị được duy trì bởi các vệ quân(5000 quân) bản xứ bao gồm Tả,
Hữu, Trung đóng quân trong thành Đông Quan. Tiền quân đóng ở phía Bắc sông
Phú Lương, cùng với đó là các thiên hộ sở (1000 quân), đóng đồn ở những nơi
xung yếu như Thị Cầu( 2 thiên hộ sở), Aỉ Lưu(1 thiên hộ sở), Xương Giang(1
vệ)… Trong đạo quân viễn chinh có 2500 quân Quảng Tây, 4750 quân Quảng
Đông, 6750 quân Hồ Quảng, 2500 quân Triết Giang, 1500 quân Giang Tây,
1500 quân Phúc Kiến, hơn 4000 quân Vân Nam ở lại An Nam. Việc xây dựng
ngụy quân cũng được xúc tiến để hỗ trợ quân đóng đồn giữ.
Nhà Minh thống kê được số nhân khẩu lúc bấy giờ là 3120000 người, người
“Man” là 2087500 người thì sau mười năm chỉ còn quản lí được 162558 hộ với
5
450288 nhân khẩu. Theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng cho biết Giao
Chỉ được nhà Minh chia ra làm 17 phủ là:
1. Giao Châu.
2. Bắc Giang.
3. Lạng Giang.
4. Tam Giang.
5. Thái Nguyên.
6. Tuyên Hóa.
7. Kiến Bình.
8. Tân An.
9. Kiến Xương.
10. Phụng Hòa.

11. Thanh Hóa.
12. Trấn Man.
13. Lạng Sơn .
14.Tân Bình.
15.Nghệ An.
16.Thuận Hóa.
17.Thăng Hoa.
Cùng với 17 Phủ là 47 Châu, 154 huyện, 1 vệ, 13 sở, 1 thuyền chợ. Trong 17
phủ thì Phủ Thăng Hoa không có thật vì Phủ này đã bị Vua Chiêm Thành là Ba
Đích Lại đem quân chiếm đóng.
2.2. Về giáo dục.
Năm 1410, nhà Minh cho lập trường học ở các Châu, Huyện, Phủ. Đến năm
1417 có 161 trường học. Tuy mở trường học nhưng các nho sinh không được
tham gia các kì thi mà chỉ lựa chọn người có học vấn để bổ sung vào vệ tuyên
công cho triều đình hàng năm. Cùng với đó là việc lùng tìm bắt những người có
tài năng, những thợ giỏi. Kết quả có tới 7000 người bị đưa sang Trung Quốc
trong đó như Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An.
2.3. Về lao dịch, tô thuế.
Để củng cố sự thống trị, nhà Minh không ngừng xây dựng các thành lũy, cầu
cống, đường xá. Hàng chục vạn dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải ra công trường
với chế độ lao dịch cưỡng bức và chế độ sinh hoạt rất thiếu thốn. Các công
trường mỏ và mò ngọc trai càng nhiều nhân công. Những người thợ phải làm
việc trong điều kiện khắc nghiệt, nguy hiểm đến tính mạng.
Chính sách thuế khóa của nhà Minh áp dụng cho nước ta hết sức nặng nề, với
2 loại thuế chính là thuế ruộng và thuế công thương nghiệp. Nhà Minh cử các
6
hoạn quan sang nước ta để đảm nhận việc thu thuế, cống phẩm gửi về kinh đô,
đồng thời chúng cũng vơ vét thêm chừng ấy cho riêng mình. Sự tham lam của
chúng đến mức Vua nhà Minh phải can thiệp vào việc chọn quan sang Giao Chỉ.
Như Mã Kỳ bị Vua Minh Nhân Tông bác việc tiếp tục được bổ nhiệm việc thu

thập vàng, trầm hương, ngọc trai năm 1424.
2.4. Về ruộng đất .
Do việc thường xuyên phải đối phó với các cuộc đấu tranh của quân dân
ta nên phạm vi kiểm soát chủ yếu của nhà Minh chủ yếu ở xung quanh thành
Đông Quan.Càng về sau nhà Minh mất dần khả năng kiểm soát ruộng đất, số
ngạch khi tăng khi giảm. Giai đoạn 1407-1413, ruộng đất dùng để phân cấp cho
những quan người Việt thay cho bổng lộc. Việc lương thảo cho quân đội được
tích góp bằng cách trưng thu vơ vét hoặc tự lập đồn điền sản xuất. Năm 1414,
sau khi dẹp song cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần, nhà Minh thực hiện kê khai
ruộng đất và bắt đâu quy định ngạch thuế ruộng. Với việc thu thuế như thời nhà
Hồ là 5 thăng/1 mẫu, nhưng lại bắt người dân tự khai 1 mẫu thành 3 mẫu vì thế
mức thu đã gấp 3 thời nhà Hồ.
Các loại thuế thủ công nghiệp và thương mại cũng đem lại một nguồn thu
lớn cho nhà Minh. Hàng loạt ty thuế khóa, ty hà bạc, ty tuần kiểm được đặt ra để
tận thu.
Chính sách thuế khóa của nhà Minh làm dân ta kiệt quệ điêu đứng. việc làm
sai dịch và nộp lương liên miên khiến năm 1418 từ Diễn Châu vào nam không
cày cấy được. thuế khóa thu nặng nề nhưng lại phải đối phó với hàng loạt các
cuộc đấu tranh đã tiêu tốn không ít tiền bạc. lương thực tại chỗ không đủ phục vụ
nên đòi hỏi cả miền nam Trung Quốc phải cung cấp, phục dịch. Khi khởi nghĩa
Lam Sơn bùng nổ và lớn mạnh, nhà Minh dần bớt việc vơ vét, trung thu thuế.
Như bao triều đại phong kiến phương bắc sang đô hộ nước ta, nhà Minh luôn
tìm mọi cách để tiến hành đồng hóa nước ta. Dân ta bị bắt phải theo các phong
tục, tập quán của người Hán: phải để tóc dài, không được cất tóc, phải để răng
trắng không được nhuộm, phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài giống Trung Quốc,
quan lại phải đội khăn đầu rìu, áo viền tuôn có vạt, áo dài có vạt bằng tơ lụa, hài
ống cao có dây thắt. Tục thờ cúng và sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt cũng
bị đàn áp thô bạo. Nhiều đàn tràng kiểu Trung Quốc được lập nên. Đạo Phật
nước ta phát triển cực thịnh vào thời Lý, Trần, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhân
dân. Số lượng tác phẩm về đạo Phật ngày nay chỉ còn lại: Thuyền huyền tập anh,

do chính sách hủy diệt của nhà Minh. Đại Tạng Kinh thực hiện và ấn soát nhiều
lần dưới triều Trần, mỗi lần in hàng ngàn cuốn, sách Thiền Tông Chỉ Nam, Bình
Đẳng xám hối, khoa Văn của Trần Thái Tông, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Thiền Lâm
7
Thiết Chủng Ngữ Lục, Đại Hương Hải Ấn thi tập,Trúc Lâm Hậu Lục, Tăng Gỉa
Toái Sự của Trúc Lâm Điếu Ngự -Trần Nhân Tông và tám tác phẩm của Pháp
Hoa không tác phẩm nào còn lại. Nhà Minh đưa sang nước ta những tác phẩm về
đạo Phật, Lão giáo, thành lập Tăng Cương ty, Đạo Kỳ ty để lo việc giáo dục Phật
giáo, Lão giáo theo chuẩn mực của Trung Quốc.
2.5. Về văn hóa.
Nhà Minh thấy được sự lớn mạnh về mọi mặt của Đại Việt, đó chính là
hiểm họa đối với Bắc triều. Từ thế kỉ X, trải qua 500 năm độc lập, xây dựng đất
nước không chỉ giữ vững bờ cõi mà còn mở mang thêm lãnh thổ. Sự phát triển
lớn mạnh về văn hóa mang nhiều nét khác biệt với Trung Hoa, tất cả đã trở thành
Quốc hồn, Quốc túy của dân tộc Việt. Ví như phái thiền Trúc Lâm Yên Tử do
Vua Trần Nhân Tông xuất ra tạo nên là chưa từng thấy trong lịch sử Trung Hoa.
Vì thế với âm mưu xóa bỏ nền văn hóa đó, ngay năm 1406, khi phát phát binh
đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ đã ban sắc rằng: “Khi binh lính vào nước Nam,
trừ các kinh Nho gia, đạo Phật, đạo Lão không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả các
sách vở văn tự cho đến cả các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy
trẻ con học … đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì
phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì hủy hết, một chữ cũng không
để xót”. Năm 1407 Vua nhà Minh ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn hóa
một cách triệt để hơn: “ Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn
tự gì, kể cả các câu hát dân gian…, các bia dù dựng lên một mảnh hễ nhìn thấy là
phá hủy hết…, sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn chớ được lưu
lại”. Khi thấy những điều đó, Ngô Sĩ Liên đã phải than rằng: “ Giáo mác đầy
đường đâu cũng thấy quân Minh tàn bạo. Sách vở cả nước đốt thành một đống
tro tàn”. Nhiều tác phẩm Văn học, Sử học, Pháp luật, Quân sự của đời trước đều
bị tịch thu. Chúng tàn phá lấy đi sách cổ của nước ta, chúng mang sang sách vở

của Trung Hoa để tuyên truyền văn hóa của chúng.
II) SỰ BÙNG NỔ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN.
1.Các cuộc khởi nghĩa trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại giặc
Minh xâm lược.
Trước khởi nghĩa Lam Sơn đã có nhiều phong trào đấu tranh chống lại quân
xâm lược nhà Minh, trong đó lớn nhất và đáng chú ý là sự nổi dậy của nhà hậu
Trần.
Giữa năm 1407, nhân dân hai huyện Đông Lan và Trà Thanh thuộc Diễn
Châu nổi dậy phá ngục giết huyện quan. Trương Phụ và Trần Húc đem quân vào
dẹp.
8
Tại Châu Thất Nguyên( Lạng Sơn), các dân tộc tại đây nổi dậy làm căn cứ
chống Minh. Trương Phụ sai Cao Sĩ Văn đi đánh, đến Châu Quảng Nguyên( Cao
Bằng) bị nghĩa quân giết chết. Trương Phụ phải phái Trình Dương tăng viện mới
thắng được.
Tháng 11/1407, Phạm Trấn nổi dậy lập Trần Nguyệt Hồ một người tự xưng
là tông thất nhà Trần - làm Vua ở Bình Than. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn
Trần Nguyệt Hồ bị bắt, Phạm Trấn trốn thoát và tham gia cuộc khởi nghĩa của
nhà hậu Trần.
Để hợp thức hóa lí do sang xâm lược Đại Ngu nhà Minh đã dựng lên chiêu
bài: “ Phù Trần diệt Hồ”. Nhưng khi thành công nhà Minh lại sai lùng bắt con
cháu nhà Trần. Cuộc khởi nghĩa của nhà hậu Trần nổ ra cuối năm 1407 với sự
kiện lên ngôi của Giản Định hoàng đế. Lực lượng của phong trào làm chủ từ
Thuận hóa trở ra, tiến quân ra bắc, đánh bại quân nhà Minh ở một số trận lớn ở
Bô cô (1408). Nhưng những lục đục trong nội bộ đã làm cho sứ mạnh của phong
trào suy giảm nghiêm trọng. năm 1413, vua Trùng Quang Đế và các tướng lĩnh
bị bắt. Phong trào chấm dứt.
Trong những năm 1407-1408 còn có các phong trào nhỏ lẻ khác như Chu Sư
Nhan ở An Định(Thái Nguyên), Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí ở Thái
Nguyên, Trần Nguyên Thôi ở Tam Đái Phú Thọ, Trần Nguyệt Tôn ở Đồng

Lợi… Các cuộc khởi nghĩa ở quy mô nhỏ lại không liên kết lại với nhau nên
nhanh chóng thất bại.
Năm 1409 Trùng Quang Đế lên ngôi có thêm nhiều cuộc khởi nghĩa khác
bùng nổ: Hoàng Cự Liêm từng bị quân Minh đánh bại, bỏ trốn thoát lại nổi dậy
tiếp. Thiên Hữu và Ông Nguyên dấy quân ở Lạng Giang. Bùi Qúy Thăng,
Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà, Dương Thế Trân và ông Lão dấy binh ở Thái
Nguyên. Nghĩa quân “Aó Đỏ” hoạt động ở vùng rừng núi Thanh Hóa và Nghệ
An. Đồng Mặc khởi nghĩa ở Thanh Hóa bắt sống tướng Minh là Tả Địch, ép
Vương Tuyên tự vẫn. Khởi nghĩa của Lê Nhi ở Thanh Oai bắt cha con tướng Lư
Vượng và chiếm giữ Từ Liêm. Năm 1410, khởi nghĩa của Nông Văn Lịch ở
Lạng Sơn, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Tên Việt gian là Mạc Thúy mang
quân lên dẹp bị trúng tên tử trận.
Bước sang năm 1411, Trương Phụ được lệnh mang quân sang tiếp viện cho
Mộc Thạch đè bẹp các phong trào đấu tranh của quân ta. Lực lượng của quân
Minh bao gồm sáu đô ty: Tứ Xuyên, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân
Nam, Qúy Châu và 14 vệ tiến sang. Sau khi bình định được cuộc khởi nghĩa của
nhà hậu Trần, quân Minh tiếp tục dẹp các cuộc khởi nghĩa nhỏ khác. Khi cảm
thấy đã ổn định, Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh được đưa
9
về nước. Việc dẹp loạn và chiếm giữ chủ yếu do binh lính bản địa đảm nhiệm.
Đây có thể là một lí do dẫn tới sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ
khi binh lính người Việt nổi dậy hoặc hưởng ứng các phong trào đấu tranh. Từ
năm 1417 trở đi một loạt các cuộc khởi nghĩa lại bùng lên, lần này có cả cuộc
khởi nghĩa của các quan lại người Việt trước đây từng đi theo giặc Minh.
2. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
2.1. Lê Lợi – con người và hành động.
Nói về Lê Lợi, Việt Nam sử lược ghi: “ Từ khi nhà Minh sang cai trị An
Nam, dân ta phải khổ nhục, trăm đường tiếng oan không kêu ra được, lòng tức
giận thấm thía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi cho ra khỏi đống than lửa. May
lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh,

trong vòng mười năm lấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho
nước Nam. Đấng anh hùng, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ
Thanh Hóa, họ là Lê, tên là Lợi.(…) Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn quân nhà
Minh nghe tiếng đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất phục, thường
nói rằng: “làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to để tiếng thơm
muôn đời chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ cho người”.Bèn giấu tiếng ở Sơn
Lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu những kẻ lưu vong”.[Tài liệu số 7,tr.107]
Đại Việt sử kí toàn thư chép rằng: “ Trước kia tổ ba đời của vua húy là Hối,
từng một hôm đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay quanh dười chân núi,giống
như hình dạng nhiều người tụ họp, bèn nói: “ Chỗ này tất là đất tốt”, mới dời nhà
đến ở đấy, được ba năm thì thành sản nghiệp(…) Vua sinh ra thiên tử tuấn tú
khác thường, thần sắc đẹp mạnh,mắt sáng, mồm rộng, mũi cao, vai có nốt ruồi,
tiếng to như tiếng chuông, đi như rồng, bước như hổ, kẻ thức ra biết là người phi
thường(…)Phép dụ binh của Vua biết lấy nhu chế cương, lấy yếu chế mạnh cho
nên hay thắng. Các thành: Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, Đông Đô đều sai văn
thần Nguyễn Trãi làm thư dụ bảo điều phúc họa nên không đánh mà phải hàng”.
[Tài liệu số 1, tr.5]
2.2. Khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ.
2.2.1. Hội thề Lũng Nhai.
Hội thề Lũng Nhai do Lê Lợi cùng 18 người cùng chí hướng tổ chức tại
Lũng Nhai vào khoảng tháng 3 năm 1416 với mục đích là tế cáo trời đất, kết
nghĩa anh em, nguyện hợp sức phát động cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ
của nhà Minh. Đây chính là điều kiện cơ sở cho việc tổ chức cuộc khởi nghĩa sau
này(mùng 2 tháng giêng năm mậu tất-1418). Cũng sau khi hội thề Lũng Nhai
10
được diễn ra, nhiều bậc anh hùng hào kiệt và những người yêu nước khắp nơi
cùng về theo Lê Lợi tụ nghĩa.
2.2.2.Lê Lợi phát cờ nghĩa, dấy binh tại vùng núi Thanh Hóa
2.2.2.1.Quá trình chuẩn bị về dư luận.
Muốn lật đổ được ách thống trị của nhà Minh thì cần phải huy động lực

lượng lớn cho cuộc khởi nghĩa. Muốn làm được điều đó thì phải tạo được dư
luận mạnh mẽ. Nếu không khéo léo thì sẽ trở thành tâm điểm chú ý của quân
Minh. Nắm vững được điều đó, Lê Lợi cùng những người bạn đồng chí của mình
đã tạo dựng dư luận bằng cách dựa vào tâm lí của “xã hội thế kỷ XV là dễ dàng
tin vào những điều lạ, và do đó Lê Lợi đã bắt đầu tạo dư luận bằng cách tận dụng
niềm tin vào những điều lạ này”.[Tài liệu số 3, tr.14]
Sử cũ có chép về việc Lê Thuận, người làm nghề đánh cá ở đầm Ma Viện
trong một đêm đi đánh cá có kéo được một thanh sắt dài một thước, rồi đem về
để góc nhà. Một hôm Lê Lợi sang chơi thấy thanh rất lạ xin vế đem mài và thấy
hai chữ “ Thuận Thiên” và “Lợi”. Hôm khác, vua vừa đi ra cửa thấy một chuôi
kiếm đã được mài chuốt liền khấn vái trời đất rằng: “ Nếu quả là trời ban kiếm
thì kính xin cho ưỡi kiếm và cán kiếm này vừa khít với nhau”. Qủa nhiên ghép
vào thành một thanh kiếm hoàn chỉnh. Rồi việc Lê Lợi nhặt được chiếc bảo ấn
ngoài vườn rau cải trên có khắc hai chữ Thuận Thiên và chữ Lợi. Rồi đến việc
Nguyễn Trãi dùng mỡ viết lên lá cây dòng chữ : “ Lê Lợi vi quân, Nguyên Trãi
vi thần”, để cho kiến cắn rơi thả xuống dòng nước cho trôi đi khắp nơi. Nhiều
người nhặt được , mật truyền nhau cho đó là mệnh trời.
Những “Điềm lạ” kể trên truyền đi khắp đất Lam Sơn rồi rộng ra cả thiên hạ.
Từ đó hào kiệt khắp nơi về Lam Sơn tụ nghĩa. Là phụ đạo của đất Lam Sơn nên
Lê Lợi có đủ điều kiện để tiếp đón họ: “ Vua tuy gặp buổi rối loạn mà vẫn bền
chí ẩn náu chốn núi rừng, vừa lo cày cấy, vừa lấy kinh sử làm vui, đã thế lại còn
chuyên tâm học sách thao lược. Vua hậu đãi tiếp khách, tiếp đón những người
trốn tránh và làm phản quân Minh, ngầm nuôi người đa mưu, túc trí, bỏ của để
giúp kẻ cô đơn khó nghèo, nhún nhường dùng lễ thu nạp hào kiệt”.[Tài liệu số 3,
tr.15]
2.2.2.2. Chuẩn bị về lực lượng và tổ chức.
Cùng với quá trình chuẩn bị về dư luận là quá trình chuẩn bị về lực lượng và
tổ chức.
Về lực lượng: ngoài những bậc anh hùng hào kiệt, Lê Lợi vẫn chủ trương
tập hợp cả những nguồn trí tuệ và sức mạnh của những người bị quân Minh áp

bức, những người dưới đáy xã hội, như trong Bình Ngô Đại Cáo đã nói:
11
“ Nêu hiệu gậy làm cờ,
Tập hợp bốn phương manh lệ”.
Ban đầu,số người tìm đến với Lê Lợi chưa nhiều. càng về sau, Lam Sơn trở
thành nơi quy tụ của đông đảo nghĩa sĩ bốn phương. Hào kiệt tự tận vùng trung
du xa xôi như Lưu Nhân Chu (người làng vạn yên, nay là huyện Đại Từ,Thái
Nguyên), Trần Nguyễn Hãn (xã Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc); từ đất Thăng
Long như Phạm Văn Xảo; từ miền Nghệ An như Nguyễn Sĩ, bậc nho sĩ lỗi lạc
như Nguyễn Trãi. Để tránh sự chú ý của kẻ thù, Lê Lợi chia họ thành những
nhóm nhỏ, vừa tăng gia sản xuất, vưà luyện tập võ nghệ. Lê Lợi cận trọng giao
việc cho mọi người để họ phát huy hết năng lực của mình và có thể phát hiện
thêm người hiền tài.
2.2.2.3.Chuẩn bị về tư tưởng,khẩu hiệu đấu tranh.
Đây chính à thể hiện sự khác biệt giữa khởi nghĩa Lam Sơn với các cuộc
khởi nghĩa khác. Nguyễn Trãi –cánh tay đắc lực của Lê Lợi với hàng loạt ý kiến
đề xuất, được Lê Lợi tán thưởng và nhanh chóng trở thành tư tưởng chủ đạo
chung cho bộ chỉ huy Lam Sơn. Đó chính là việc phải huy động sức dân, kết hợp
giữa cứu nước và cứu dân như Nguyễn Trãi nói: “ Quân điếu phạt trước lo khử
bạo”.Muốn đánh thắng được đội quân hùng hậu,với sức mạnh lớn hơn ta nhiều
lần thì phải tấn công đồng loạt trên nhiều mật trận: quân sự, chính trị, binh vận,
ngoại giao. Về quân sự, theo Lê Lợi và Nguyễn Trãi, đáng thánh là hạ sách,
thượng sách là đánh vào lòng người. Kỷ luật quân đội phải nghiêm, trên dưới
đinh như thủ túc, Lam Sơn đầu tiên phải là một đội quân nhân nghĩa.
2.2.2.4. Phất cờ khởi nghĩa.
Mùng 2 Tết năm Mậu Tuất (7/2/1418), Lam Sơn long trọng làm lễ tế cờ xuất
trận. Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương cùng với 35 võ tướng và một số quan
Văn, 200 quân thiết đôt, 200 nghĩa sĩ ,200 dũng sĩ, tổng cộng khoảng 2000 người
và 14 con voi chiến. Đây chính là thành quả có sự dày công chuẩn bị nhưng so
với quân cướp nước thì đây là một sự chênh lệch to lớn. Quân Lam Sơn chiến

đấu trước hết bằng ý chí phi thường, niềm tin sắt đá và sự ủng hộ của nhân dân
cả nước.
2.3.Hoạt động của nghĩa quân tại vùng núi Thanh Hóa.
Buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân gặp vô vàn khó khăn. Thực lực của nghĩa
quân đang còn kém, trong khi đó quân Minh đang lúc sức mạnh lên cao. Lực
lượng của nghĩa quân chỉ khoảng vài vạn người, lương thực thiếu thốn, chỉ thắng
được vài ba trận nhỏ, nhưng sau đó bị quân Minh đánh bại, đúng như Nguyễn
Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo:

12
“ Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh
(…) Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”.
Bị quân Minh đánh nhiều trận, thực lực không đủ nên Lê Lợi và quân Lam
Sơn nhiều lần phải rút lên núi Chí Linh vào các năm 1418, năm 1419, năm 1422.
Lần thứ nhất khi Lê Lợi mới dấy binh, quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô mang
quân đến đánh. Lê Lợi đem quân đóng ở Lạc Thủy(huyện Lỗi Giang, phủ Quang
Hoá) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh đổ ra đánh, đuổi
được quân nghịch, nhưng vì thế yếu không chống giữ nổi nên phải lui quân về
núi Chi Linh. Vợ con của Lê Lợ bị bắt giữ.
Lần thứ hai vào năm Kỷ Hợi (1419), Bình Định Vương lại ra đánh đồn Nga
Lạc giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân khởi nghĩa còn ít,
đánh lâu không được, lại phải lui về Kình Sơn. Quan nhà Minh biết rằng Chí
Linh là chỗ Bình Định Vương chú ẩn, bèn đem binh đến vây đánh, quân sĩ Lam
Sơn gặp nhiều khó khăn. Trong tình hình nguy cấp Lê Lợi họp các tướng lại hỏi
rằng: “Có ai dám bắt chước Kỷ Tín đời Hán không ?”. Khi mọi người đang im
lặng thì Lê Lai đứng dậy xin đi. Lê Lợi rất cảm kích vái trời khấn rằng: “Lê Lai
có công đổi áo, sau này tôi và con cháu các tướng tá công thần, nếu không nhớ
đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành

cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”. Sau đó, Lê Lai mang theo hai thốt voi
và 500 quân kéo ra trại quân Minh khiêu chiến. Quân Minh đổ ra đánh, Lê Lai
thúc ngựa vào giữa trận hô to: “Ta là chúa Lam Sơn đây”. Quân Minh ngỡ là Lê
Lợi xúm lại đánh kịch liệt, Lê Lai kiệt sức bị bắt và đem về hành hình. Lê Lợi
nhân cơ hội đó cùng các tướng lĩnh và quân lính tháo chạy đường khác. Sau đó
một mặt sang Ai Lao cầu cứu, mặt khác thu nhặt tàn quân về đóng ở Lư
Sơn( phía Tây Châu Quan Hóa).
Sang năm Nhâm Dần(1422) Bình Định Vương từ đồn Ba Lậm tiến lên đánh
đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Ai Lao đánh từ hai phía, lui quân về giữ
đồn khôi sách. Quân Minh và Ai Lao thừa thế đánh vây bốn mặt. Lê Lợi thấy thế
nguy quyết định đánh tháo mở một con đường sống. Đưa quân lên núi Chí Linh
lần thứ ba. Ở đây hoàn cảnh ngày một khó khăn nghĩa si thiếu lương mỏi mệt
phải làm thịt cả voi, ngựa chiến. Mọi người xin Lê Lợi hãy tạm hòa với giặc, bất
đắc dĩ, Bình Định Vương sai Lê Trăn đi xin giảng hòa. Quân nhà Minh thấy
đánh không lợi cũng thuận cho hòa. Sau đó năm Qúy Mão(1423) Bình Định
Vương đem quân về Lam Sơn, bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường cho Lê Lợi trâu,
ngựa, cá mắm và thóc lúa, Bình Định Vương sai Lê Trăn mang vàng bạc ra tạ
13
nhưng ngờ có bụng dạ không thật nên quân Minh sai bắt Lê Trăn lại vì thế Lê
Lợi tuyệt giao không quan hệ, đem quân về Lư Sơn. Sau hơn một năm đình
chiến, lực lượng nghĩa quân đã được phục hồi và lớn mạnh, quân đội và vũ khí
được chuẩn bị đâỳ đủ.
14

CHƯƠNG II: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN
GIAI ĐOẠN 1424-1425
I). Kế hoạch của Nguyễn Chích: “Tiến quân vào Nghệ An”.
Nguyễn Chích người thôn Mạc, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa. Ông sinh năm Nhâm Tuất(1382), mất năm Mậu Thìn(1448), thọ 66 tuổi.
Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến do nhà Hồ phát

động(1400-1407) thất bại. Nguyễn Chích đã phát động một cuộc khởi nghĩa khá
lớn tại quê hương mình và lập ra căn cứ Hoàng- Nghiêu. Lực lượng của Nguyễn
Chích lúc lên tới hơn nghìn người, quân khởi nghĩa từng đi đánh khắp vùng
Nông Cống, Triệu Sơn, Đông Sơn, gây cho quân Minh nhiều thiệt hại. Sách Đại
Nam Nhất Thống Chí chép: “ Hiệu lệnh của ông được thi hành ở cách huyện
Đông Sơn, Ngạc Sơn, Nông Cống”. Cả huyện Đông Sơn quân Minh không dám
đến cướp phá.
Khi Lê Lợi xướng quân ở Lam Sơn, nghe tin thanh thế của Nguyễn Chích, Lê
Lợi sai người mang thư đến mời ông về tham gia quân Lam Sơn. Nguyễn Chích
đồng ý theo Lê Lợi nhưng thời gian đầu vẫn giữ quân ở Hoàng- Nghiêu. Sau đó,
ông đưa quân đánh Lương Nhừ Hốt ở đồn Cổ Vô, được Lê Lợi phong chức Vinh
lộc đại phu lân hộ vệ tướng quân. Sau đó, ông được thăng là Đô đốc đạo phủ
quản tổng đô đốc quân dân, tước quân nội hầu. Cuối năm 1420, ông mang toàn
bộ lực lượng gia nhập với Lê Lợi- lúc đó đang đóng quân ở Mường Nanh. Ông
được Lê Lợi phong chức Thiết độ hữu vệ đồng đổng đốc chủ quân sự. Sau khi
tham gia các trận đánh như trận Ba Lẫm(12/1421), trận Sách Khôi(2/1422) đánh
bại 10 vạn đại quân của Trần Trí. Ông được Lê Lợi phong chức Thiếu úy.
Sự hội trị giữa lực lượng của Nguyễn Chích cùng với lực lượng của Lê Lợi đã
làm một bước tiến quan trọng của khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng và sự nghiệp
chống quân Minh nói chung. Sự góp mặt của Nguyễn Chích trong hàng ngũ bộ
chỉ huy Lam Sơn chính là sự bùng nổ một vị tướng tài năng, một bộ óc chiến
lược tài ba. Nhưng hơn nữa, chính Nguyễn Chích đã có công đầu trong việc tạo
dựng bước ngoặt cho cuộc khởi nghĩa vào cuối 1424.
Sau một thời gian hòa hoãn quân Minh, quân Lam Sơn đã có những điều kiện
thuận lợi cho việc củng cố lực lượng và chuẩn bị về mọi mặt. Nhưng cuộc khởi
nghĩa vẫn vấp phải nhiều khó khăn, có lúc tưởng chừng như bế tắc. 10/1424, Bộ
chỉ huy Lam Sơn có một hội nghị quân sự rất quan trọng. Hội nghị đã quyết định
kết thúc thời kỳ hòa hoãn với quân Minh, chủ đông tấn công để từng bước làm
15
thay đổi thế và lực của đôi bên. Tại đây, Nguyễn Chích đã đưa ra một ý kiến

xuất sắc, được bộ chỉ huy Lam Sơn nhiệt liệt hưởng ứng. Sử cũ còn gọi là
“Chiến lược Nguyễn Chích”. Kế sách đó là: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng
người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay
hãy đánh trước lấy Trà Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi
dựa vào nhân lực, tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong
việc dẹp yên thiên hạ”.[Tài liệu số 3, tr.75]
Về lí luận, Nguyễn Chích cho rằng Nghệ An là nơi xa, lực lượng quân Minh
vừa ít lại yếu, khả năng chiến thắng của quân Lam Sơn ở đây là rất rõ ràng, Nghệ
An là nơi tiếp giáp với Thanh Hóa, thuận lợi cho việc tấn công của nghĩa quân
Lam Sơn.
Về thực tiễn, nguyễn Chích nói rõ ông từng qua lại vùng này, thông thuộc
đường đi lối lại, và do đó ông có thể dẫn đường, làm tướng tiên phong.
Trên cơ sở đó, Lê Lợi quyết định tiến công vào Nghệ An. Ngày 12/10/1424,
nghĩa quân bất ngờ tập kích đồn Đa Càng( Bất Càng- Thọ Xuân- Thanh Hóa).
Tháng 11/1924, quân Lam Sơn giành được nhiều thắng lợi liên tiếp. Đại Việt sử
ký toàn thư có chép: “ Vua chọn đinh trang, sữa khí giới, nghiêm chỉnh bộ ngũ,
chứa sẵn lương khô, tiến thẳng vào Nghệ An. Đường đi qua núi Bồ Lạp thuộc
Châu Qùy gặp chỉ huy đồng trị Minh là Sự Hựu và thổ quan tri phủ châu Tra Lân
là Cầm Bành, lại có tướng Minh là Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Thái Phúc
đón ở hai mặt. Ngày sắp tới, vua bên phục sẵn quân và voi ở trong rừng. Bọn
Phương Chính đến, vua tung quân ra đánh, quân Minh thua to. Chém được Đô
đốc là Trần Trung và quân lính hơn 2 nghìn thủ cấp, bắt được hơn trăm con
ngựa. Quân Minh lui chạy. Ngày hôm sau, đi đến trang Trịnh Sơn châu Trà Lân
lại gặp Sư Hựu, lại đánh tan, chém được thiên hộ Trương Bản và quân lính hơn
nghìn người. Hựu chỉ chạy thoát mình, vua đem quân đến Sách Mộc. Bọn Trần
Trí đuổi theo đến núi Trạm Hoàng, nhưng vì đã nhiều lần thua đau, không dám
tiến vào sâu, lui về giữ thành Nghệ An.
Mùa đông, tháng 11, vua sai người chiêu dụ Cầm Bành. Bành chống lại không
theo, một mình cùng với hơn nghìn quân lập rào sách ở đỉnh núi đợi quân cứu
viện. Vua đem quân đến vây.

Tháng 12, Sơn Thọ nước Minh sai Nguyễn Sĩ đưa trả Lê trăn để cầu hòa. Bọn
Phương Chính, Sơn Thọ đến Nghệ An, muốn cứu Cầm Bành và không dám tiến
quân, bèn sai người đưa thư xin vua giải vây cho Bành. Khi ấy Cầm Bành cố giữ
vây phải hơn một tháng không lấy được, và lại đem tin quân cứu viện đến, vua
gọi các tướng đến bảo rằng: “ Cầm Bành khốn quẫn, bọn Chính đáng lễ phải cứu
viện ngay, nay lại dùng dằng, tất có lòng sợ, chi bằng ta giả cách hòa để xem tình
16
hình ra sao, tin đi tin lại mất hàng tuần hàng tháng, thì Cầm Bành đã bắt được
rồi”. Lại làm thư để trên bê cho thuận dòng trôi xuống, trong thư nói thác là vẫn
theo lời thỉnh cầu, trở về Thanh Hóa, nhưng vì Cần Bành ngăn chặn nếu có lòng
thương thì cho một người đến hòa giải để thông đường về. Bọn Chính nhận được
thư, sai Trần Đức Nhị đến báo Cầm Bành hòa giải. Cầm Bành biết là quân cứu
viện không đến, mở cửa thành ra hàng. Châu Trà Lân đã dẹp yên. Vua hạ lệch ở
trong quân rằng: “ Bành đã đầu hàng, chớ xâm phạm một tí gì, đều tha tội cả,
không giết một người. (Sau Cầm bành mưu phản, vua sai giết chết)”.[Tài liệu số
1, tr 26-27]
Càng ngày thế và lực của nghĩa quân Lam Sơn càng mạnh Lê Lợi muốn tiến
đánh thành Nghệ An nhưng lại chưa biết địch mạnh yếu thế nào. Vì thế nên đã đi
lại với chúng để tìm hiểu đánh úp. Lê Lợi chuẩn bị tiến vây thành Nghệ An thì
nghe tin báo người Minh sắp voi ngựa thuyền quân của Lê Liệt đi đường tắt
đóng ở huyện Đồ Gia. Lê Lợi thống lĩnh đại quân chốt giữ chỗ hiểm yếu. Quả
nhiên, quân Minh tiến đến quân lậu và của Khả Lưu, bày dinh ở hạ lưu. Lê Lợi
dùng kế dẫn dụ quân vào nơi mai phục, quân giặc bị đánh thua to. Nhưng lương
thực của vua ít, giặc cậy thế nhiều lương nên lui vào cố thủ. Lê Lợi dẫn quân rút
đi nhưng ngầm đi đường tắt để đợi giặc đến đánh. Giặc tiễn ra Khơi Lũy, Lê Lợi
đưa quân ra khiêu chiến nhưng ngầm phục binh ở Bố Ải. Giặc lọt vào nơi mai
phục, các tướng Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê
Tống Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê Văn An đưa quân ra, giặc thua chết rất nhiều,
bắt được Đô ty là Chu Kiệt, chém được tướng Đô ty Hoành Thành, bắt sống
hàng nghìn quân giặc, truy kích tàn quân Minh đến tận thành Nghệ An. Bọn

chúng phải lui vào cố thủ trong thành. Thành Nghệ An bị bao vây, tồn tại chơ vơ
giữa một vùng giải phóng.
Các nhà sử học đánh giá rất cao về kế sách đánh vào Nghệ An của Nguyễn
Chích. Chỉ trong vòng một năm kể từ khi thực hiện kế hoạch của ông, quân Lam
Sơn làm chủ một vùng rộng lớn. Nếu so sánh với thời gian năm 1418- 1423 chỉ
quanh quẩn ở vùng núi Thanh Hóa thì hiệu quả của chiến thuật này là rất lớn.
II). Tiến đánh Tân Bình- Thuận Hóa. Bao vây Tây Đô- phát huy thế chủ
động trên chiến trường.
Sau khi giành được phủ Nghệ An theo kế hoạch của Nguyễn Chích, khởi
nghĩa Lam Sơn đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Ở Nghệ An, Lê Lợi chiêu
mộ quân lính, tu sửa binh khí, luyện tập cho binh sĩ. Tháng 4/1425, Tham tướng
Minh là An Bình Bá Lý An đưa quân từ Đông Quan để cứu nguy cho thành
Nghệ An. Lê Lợi thấy được “ Bọn Trần Trí cùng quẫn lâu ngày, thấy quân cứu
viện đến, tất sẽ mở cửa thành ra đánh”. Lê Lợi đưa quân về đóng ở huyện Đồ
17
Gia đợi giặc đến. Ngày 17/4/1425, Trần Trí đưa quân ra đánh trại của Lê Thiệt
nhưng bị trúng chỗ phục binh của ta, nên thua to. Từ đó, giặc Minh thêm phần sợ
hãi, lui về cố thủ.
Sang tháng 5/1425, Lê Lợi sai Tư Không Lê Lễ đi tuần ở Diễn Châu lại gặp
Đô ty Minh là Trương Hùng đem hơn 300 chiếc thuyền chở lương thảo từ thành
Đông Quan đến. Lê Lễ phục binh từ trước, chém được thiên hộ họ Tưởng và hơn
300 quân lính. Trương Hùng tháo chạy, Lê Lễ cướp thuyền lương đuổi đánh đến
tận thành Tây Đô. Bây giờ, quân giặc đến cứu thành Nghệ An, Lê Lợi nhận thấy
là các thành Tây Đô quân ít, sức yếu, nên điều Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê
Triện, Lê Bí với hai nghìn quân tinh nhuệ, 2 con voi đi theo đường tắt, tiến đánh
lép thành Tây Đô, chém được hơn 500 thủ cấp và bắt sống rất nhiều quân Minh ở
trong thành chống giữ. Quân Lam Sơn kết hợp với việc vận động dân chúng
quanh thành. Vì thế nên được dân chúng ủng hộ theo về rất nhiều, xin liều chết
đánh giặc nên tiến hành vây thành Tây Đô.
Càng ngày, tương quan lực lượng giữa quân Lam Sơn và quân Minh ngày

càng có sự thay đổi rõ rệt. Quân Minh ở các xứ Tân Bình- Thuận Hóa giờ trở
nên biệt lập, không có tin tức gì với thành Nghệ An và Đông Đô. Lê Lợi với con
mắt của một nhà quân sự thiên tài đã trông thấy được điều đó. Lê Lợi nói với các
tướng rằng: “ Người làm tướng giỏi đời xưa bỏ chỗ bền mà đánh chỗ yếu, tránh
chỗ nhiều mà đánh chỗ ít, như thế là dùng sức một nửa mà nên công gấp đôi”.
Nói về việc tiến đánh xứ Tân Bình- Thuận Hóa, Đại Việt sử kí toàn thư có chép:
“Vua sai Tư Đồ Trần Hãn và thượng tướng Lê Lỗ báo cho bọn Lê Đà Bồ sai đem
hơn 1000 quân và 1 con voi to ra đánh các thành Tân Bình- Thuận Hóa, và chiêu
phủ nhân dân. Đến song Bố Chính, gặp quân Minh, bọn Hãn đem quân vào nơi
hiểm yếu, ngầm phục quân ở Hà Khương để dử giặc. Tướng Minh là Nhân
Năng đem hết quân tiễn đi. Bọn Hãn hợp quân và voi để đánh, giả cách thua
chạy, Năng đuổi theo, quân Phục đánh ập vào. Quân Minh tan vỡ bị chém đầu và
chết đuối rất nhiều. Bấy giờ quân của Hãn Lỗ ít mà quân giặc còn nhiều đã sai
người cấp báo và xin thêm quân từ trước. Vua sai tiếp bọn Lê Ngân, Lê Bôi, Lê
Văn An đem 70 chiếc thuyền vượt biển đến thẳng chỗ ấy. Khi được tin thắng
trận của Lỗ, mới thừa thắng đánh các xứ Tân Bình – Thuận Hóa. Quân và dân
của giặc đều quy thuận. Người Minh vào thành cố giữ. Từ đó, Tân Bình- Thuận
Hóa đều thuộc về ta cả. Các tướng suy tôn vua Lam “ Đại Thiên Hành Hóa”. Từ
đó trở đi có mệnh lệnh dụ báo việc gì phần nhiều lấy bốn chữ ấy để xưng”.
Từ đây, Lam Sơn thực sự là chủ nhân một vùng đất giải phóng rộng lớn và
liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam. Tương quan thế và lực của quân Lam Sơn
và giặc Minh đã có sự thay đổi nhanh chóng. Khởi nghĩa Lam Sơn đến đấy thực
18
sự trở thành trung tâm cảu toàn bộ phong trào kháng chiến chống Minh trong
phạm vi cả nước. Nó tạo thế và lực mới đưa cuộc khởi nghĩa sang giai đoạn tiến
công tiêu diệt địch sang phạm vi toàn quốc.

CHƯƠNG III: NGHĨA QUÂN PHÁT TRIỂN RA BẮC VÀ GIẢI PHÓNG
. TOÀN BỘ ĐẤT NƯỚC.
I). Chiến thắng Tốt Động-Chúc Động

Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép : “Mùa thu, tháng 8 năm Bính Ngọ - 1426
vua cho là toàn bộ quân tinh nhuệ của giặc đều ở thành Nghệ An cả, các xứ
Đông Đô tất cả đều quân ít sức yếu, bèn thêm quân và voi, sai bọn khu mật đại
sứ Phạm Văn Xảo, thái úy Lê Triện, thái giám Lê Khả, á hầu Lê Như Huân, Lê
Bí đem theo 3000 quân và 1 con voi đi tuần các xứ Thiên Quan, Quảng Oai, Gia
hưng, Quy hóa, Đà Giang, Tam Đái, tuyên Quang để ngăn đường viên binh ở
Vân Nam sang: sai bọn thiếu úy Lê Bí, thái giám Lê Khuyển đem 2000 quân và
1 con voi đi tuần xứ Khoái Châu, Bắc Giang, Lạng Giang để chặn bon viện binh
ở Lưỡng Quảng sang. Bọn Tư Không, Lê Lẽ và lê Bí thì đem tinh binh tiến sau
để phô trương thanh thế”[Tài liệu số 1, tr.36]. Điều đó đã cho thấy con mắt nhìn
xa trông rộng của Lê Lợi. Đoàn quân Lam Sơn – đoàn quân chính nghĩa, với kỉ
luật nghiêm chính, đi đến đâu cũng không xâm phạm bất kì cái gì của dân. Chính
vì thế càng làm cho uy tín của nghĩa quân lên cao. Nghĩa quân nhận được rất
nhiều sự ủng hộ của nhân dân dành cho. Đó chính là những tiền đề cho những
thắng lợi tiếp đó.
Ngày 12, mùa thu năm Bính Ngọ, Thái úy Lê Triện đem 3000 quân tiến đến
thành Đông Quan. Giặc Minh tưởng rằng quân của Lê Triện đơn độc nên đưa
quân sang đánh. Ngờ đâu đến Ninh Kiều, Ứng Thiên cùng hội quân với Lê Khả
và Lê Bí , giặc Minh bị thua, quân ta chém được hơn 2000 thủ cấp, lấy được
Quốc Oai, Tam Đái, tiến đóng ở khu vực bờ tây song Ninh Giang. Lúc này cứu
viện nhà Minh với hơn một vạn quân từ Vân Nam kéo sang, Lê Triện thấy rằng
nếu để hai cánh quân giặc hợp lại thì sẽ khó đánh nên chia quân làm hai hướng :
hướng thứ nhất do Phạm Văn Xảo đưa quân đánh chặn quân tiếp viện, hướng thứ
hai gồm Lê Triện và Lê Bí tiến đánh trần Trí. Trần Trí thua to, tướng giặc là Vi
Lạng bị bắt, chém được hơn 1000 thủ cấp, sau đó quân của Lê Khả và Lê Bí
quay về Ninh Giang hội quân với Phạm Văn Xảo để đánh quân cứu viện. Trần
Trí lui về cố thủ ở thành Đông Quan viết thư gọi Phương Chính từ thành Nghệ
An ra cứu. Phương Chính sai Hoàng Phúc lại giữ thành còn mình đưa quân theo
đường biển tiến ra Bắc.
19

Thấy được cơ hội đã đến, Lê Lợi sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Điền,
Lê Lĩnh, Lê văn Linh, Lê Quốc Hưng ở lại vây thành Nghệ An, còn Lê Lợi thân
chinh đuổi theo Lí An và Phương Chính. Đoàn quân đi đến đâu cũng nhận được
sự ủng hộ to lớn về lực lượng và vật chất.
Đến mùa đông tháng 10 năm 1426, nhà Minh sai tổng binh thành sơn hầu
Vương Trường và tham tướng Võ Anh đem 5 vạn quân và 5000 ngựa chia
đường sang cứu viện các thành Đông Đô. Một vạn quân Vân Nam đến Tam
Giang thuận dòng mà xuống. Thái giám Lê Khả biết tin đưa gấp quân đến chạm
trán ở cầu Xa Lộc đánh phá được. Sau đó đến ngày mồng 6, tướng Vương Thông
đem gộp tất cả các quân cũ mới được hơn 10 vạn người, chia ra làm 3 đạo quân :
Vương Thông từ Khâu Ôn đến, qua cầu Tây Dương đóng ở bến đò Cổ Sở, làm
cầu phao cho quân sang sông. Sơn Thọ và Mã Kì tiến từ cầu Nhân Mục đóng ở
cầu Thanh Oai. Đây là những nơi quân ta trấn giữ.
Cánh quân của Mã Kì, Sơn Thọ chỉ huy ngày mồng 5 tháng 11 tiến qua khỏi
cầu Tam La bị rơi vào trận địa mai phục của quân ta do Lý Triện, Đỗ Bí chỉ huy,
bố trí ở cánh đồng Cổ Lãm huyện Thanh Oai, bị thiệt hại 1500 quân, lui về hội
quân với Vương Thông. Quân của Vương Chính cũng lui về với Vương Thông.
Ngày 6 tháng 11, cánh quân của Lý Triện, Đỗ Bí kéo tới đánh trại của Vương
Thông ở Cổ Sở nhưng Vương Thông đã có sự phòng bị sẵn, quân của Lý Triện
bị thiệt hại, sau đó lui về Cao bộ, liên lạc với cánh quân của Đinh Lễ ở Thanh
Đàm. Đến ngày 6 tháng 11, Vương Thông lập kế hoạch gộp quân với Sơn Thọ
và Phương Chính đánh Ninh Kiều. Sau đó lại chia 2 cánh quân : cánh thứ nhất từ
Ninh Kiều đánh Cao Bộ, cánh thứ 2 đi qua Chúc Động theo kế hoạch lên tới
trước đánh vào lưng đối phương. Một cánh nữa do Vương Thông chỉ huy, theo
đường Cái Quan đi tới Chúc Động rồi tới phía đông và đông bắc Cao Bộ, đánh
vào chính diện đối phương. Theo kế hoạch cánh quân tập hậu khi nghe pháo hiệu
thì đồng loạt tiến đánh quân Lam Sơn.
Nắm bắt được ý đồ của đối phương, quân của Lý Triện và Đỗ Bí, được tăng
viện bởi cánh quân của Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy đã bố trí hai trận địa mai
phục ở Tốt Động – Chúc Động. Đêm mùng 6 rạng ngày mùng 7 tháng 11 năm

1426, quân Lam Sơn nổ pháo hiệu. Cánh quân của Vương Thông tưởng đó là
pháo lệnh nên vội vã đưa quân ra đánh bị trúng mai phục, thua to. Trong khi đó
cánh quân đánh tập hậu thấy pháo hiệu tỏ ra nghi ngờ. Đến khi nhận được tin
rằng cánh quân của Vương Thông bị đánh nên cũng vội rút chạy về hướng Chúc
Động. Cánh quân của Vương Thông bị quân Lam Sơn từ 3 mặt : mặt trước từ bờ
sông Yên Duyệt, phía tây từ bờ Đầm Rót, các làng xung quanh Tốt Động kéo ra
đánh cho tan tác. Cánh quân của Vương Thông phải chạy về hướng Chúc Động.
20
Tại đây hai cánh quân lại vướng phải mai phục nữa của quân ta. Ninh Kiều – cầu
bắc qua sông Ninh Giang bị chặt đứt.
Sau trận đánh này, 5 vạn quân Minh đã bị tiêu diệt, 1 vạn quân bị bắt sống.
Các chỉ huy giặc như Trần Hiêp, Lý Lượng, Lý Đằng đều tử trận. Đúng như
Nguyễn Trãi đã viết.
“Ninh kiều:máu chảy thành sông
Tanh trôi muôn dặm
Tốt Động : Thây phơi đầy nội
Thối để ngàn thu”
Với thắng lợi này đã làm phá sản kế hoạch phản công của Vương Thông,
đồng thời tạo ra lợi thế mới cho nghĩa quân Lam Sơn, buộc quân Minh phải lui
về cố thủ. Nghĩa quân lam Sơn đã chuyển từ thế phòng ngự sang chủ động tiến
công.
II). Vây thành Đông Đô, Vương Thông xin hòa.
1. Vây thành Đông Đô, Lê lợi đóng ở dinh Bồ Đề.
Sau khi nhận được tin thắng trận của tướng Lê Lễ, Lê Lợi lúc này đang đóng
quân ở Thanh Hóa đã đưa đại quân và 20 thớt voi, chia đường thủy bộ, ngày đêm
hành quân. Đến mùng 10 đến sông Lũng Giang.
Tướng quân Vương Thông cung quân lính trong thành đông quan sau trận
thua ở Tốt Động, quân số bị thiệt hại, binh khí thiếu thốn trầm trọng. Nên chúng
đã phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh để làm sung đạn và ống phun lửa.
Trần Hiệp tử trận, Hữu Bố Chính là Đặc khiêm giữ chức Bố chính ty, Án sát sứ

là Dương Thì Tập giữ chức án sát ty, Đô đốc thiêm sự là Trần Tuân giữ chức Ấn
Đô ty.Cũng từ đấy các lệ cũ cũng dần không được thực hiện nữa. Ngày 22, Lê
Lợi tiến quân đến Tây Phù Liệt. Ngày 23 Lê Lợi sai Trần Nghuyên Hãn, Lê Bí
đem hơn 100 chiếc thuyền chở quân lính ngược dòng Đại Lũng ra cửa sông Hát,
thuận dòng đến bến đông sông Lô, cánh quân của Lê Lẽ theo đường bộ bí mật
đến cầu Tây Dương. Lê Lợi đem quân đóng ngoài thành Đại La để tiến quân
đánh thành Đông Quan. Đêm đén quân ta tập kích các vùng ngoại thành, tiêu
diệt được rất nhiều quân giặc, thu được hàng trăm chiến thuyền. Quân giặc lại lui
vào thành, đắp thêm lũy để cố thủ, chờ cứu viện. Sau đó, Lê Lợi rời về đóng ở
Đông Phù Liệt, nhân dân theo về xin lập công tấp nập. Lê Lợi tùy vào tài năng
từng người mà sử dụng nên mọi người đều cảm kích, nguyện đem hết sức giết
giặc, đi đến đâu thắng lợi đến đó.
Theo sách “Lịch triều hiến chương địa dư chí” của Phạm Huy Chú, Lê Lợi
chia Đông Quan ra làm 4 đạo: Các trấn Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa,
Gia Hưng thuộc Tây Đạo; các trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách. Hạ
21
Sách, Lộ An Bang thuộc Đông đạo; Các trấn Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc Bắc
đạo; các lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc
Nam đạo.
2. Lập Trần Cảo, thực hiện tờ chiếu của Minh Thành Tổ-cơ sở để quân
Minh rút về nước.
Vương Thông càng đánh càng thua, viện cớ tìm lại tờ chiếu của Minh Thành
tổ ban ra năm 1407 trước khi đánh nhà Hồ, có nội dung lạp con cháu nhà Trần
làm vua kế nghiệp (vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên nhà Minh mượn lá cờ
“phù Trần diệt Hồ” để sang đánh nước Đại Ngu) để ra điều kiện với Lê Lợi rằng
Vương Thông xẽ rút về nước nếu Lê Lợi lâp con cháu nhà Trần lên làm vua. Lê
Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nước nên đồng ý. Mùa
đông tháng 11 vua tìm được Trần Cảo lập nên làm vua. Sử cũ có chép rằng Trần
Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội của vua Trần Nghệ Tông, được tù
trưởng Châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Lê Lợi muốn mượn tiếng này để làm

tin với nhà Minh nên đặt thiên hiệu là Thiên Khánh, sai Tả bộc xạ là Lê Quốc
Hưng dạy bảo, thực ra là để coi giữ, còn bản than tự xưng là Vệ Quốc Công để
mau cho chóng song việc.
3. Vây thành Đông Quan.
Vương Thông cùng các tướng lĩnh và quân lính trong thành Đông Quan phải
chịu sự vây hãm, tình thế càng cùng quẩn nên sai người đưa thư xin hòa để đưa
quân về nước. Điều này cũng hợp với ý Lê Lợi nên đòng ý giảng hòa, sai cận
thần cùng quân Minh đến thành Nghệ An giải vây cho quân giặc ra hàng.Nhưng
những ngụy quan như Tham Chính Lương Nhữ Hốt, Đô ty Trần Phong, Đô Chỉ
Huy Trần An Vinh trót quỳ gối bán nước cho giặc để làm quan to nên sợ rằng
khó tránh khỏi cái chết sau những gì đã gây ra nên bày kế phản gián rằng:
“Trước kia Ô Mã Nhi thua ở sông Bạch Đằng đêm quân đầu hàng, Hưng Đạo
Đại Vương bằng long cho hòa, lập mẹo lấy thuyền to chở về nước, rồi chọn
người tài lội lặn sang làm phu thuyền, ra đén ngoài biển thì lừa ban đêm ngủ say,
lặn xuống biển rồi dùi thủng đáy thuyền, đều chết đuối không còn người nào
sống về được”[Tài liệu số 1, tr.44]. Vương Thông tin lời đem long ngờ vực
không tin tưởng thiện chí của Lê Lợi nên tăng cường phòng thủ. Ngoài vẫn tỏ ra
hòa hiếu nhưng trong thì sai người đem thư theo đường tắt để cầu viện. Vua bắt
được người đem thư nên ngầm phục quân bắt được hơn 3000 người do thám,
500 con ngựa. Từ đó hai bên tuyệt giao luôn. Cùng với đó là việc chuẩn bị mọi
mặt của nghĩa quân Lam Sơn trong việc đánh các thành lân cận để tiến tới tấn
công thành Đông Quan. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép : “Vua sai các
tướng chia quân đi đánh các thành : Quốc Hưng đánh 2 thành Điệu Hào, Thị
22
Cầu: Lê Khả, Lê Khuyên đánh thành Tam Giang: Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý, Lê
Lãnh, Lê Triện đi đánh thành Xương Giang: Lê Lựu, Lê Bôi đánh thành Khâu
Ôn (…) Hạ lệnh cho các bộ, Trấn chứa lương ở các thành Xương Giang và Tam
giang để cấp cho quân. Hạ lệnh cho các tướng hiệu và quan ở lộ tìm kiếm người
có tài lược trí dũng, làm nổi các chức quan như Tư Mã, Thượng tướng, đều tiến
cử một người. Hạ lệnh cho nhân dân dâng cấp thóc cho quân, thưởng tước theo

thứ bậc khác nhau. Người Minh ở Nghệ An và Diễn Châu ra hàng. Người huyện
Đường An là Vũ Cự Luyện, người huyện có phí là Đoàn Lộ dâng kế sách đánh
thành và các kiểu chiến bằng xe phần ôn, xe phi mã. Sai các tướng theo mẫu thức
ấy mà làm. Hạ lệnh cho các sứ thờ miếu công thần. Sai bá hộ nước Minh và Hà
Vượng đem thư vào thành Đông Quan. Sai bọn Tư Mã Tuyên Quang là Lương
Thế Vĩnh, đề đốc phụ đạo là Mã Tâng Kế đóng chiến thuyền. Sai lạng sơn Yên
Bang tổng tri giám quân dân sự nhập nội bảo là Lê Lựu đem quân đi đánh giặc,
tướng hiệu người nào phạm kỷ luật được phép chém trước tâu sau. Lấy Hàn lâm
viện thừa chi học vì là Nguyễn Trãi làm triều đại phu nhập nội hành khiến lại bộ
thượng thư kiêm hành khu mật viện sự”[Tài liệu số 1,tr.45]
Tháng giêng(1427) Lê Lợi đưa đại quân về đóng ở dinh Bồ Đề, dinh được làm
giữa hai cây Bồ Đề, cao bằng tháp Bảo Thiên. Hàng ngày Lê Lợi thường ngự ở
trên lầu để quan sát trong thành, Nguyễn Trãi ở tầng dưới vâng chỉ thảo thư đi
lại.
Cùng với việc vây thành Đông Quan và đánh các thành khác, Lê Lợi còn đặt
các phép cai trị trong dân và việc binh sao cho có kỷ luật. Đầu tiên là việc cấm tà
đạo, dùng các phép tà ma thì phải tội. Những người đi làm ăn ly tán thì về quê
hương để sinh sống, canh tác. Những vợ con, gia quyến của những người theo
giặc thì tùy theo mà mang tiền chuộc. Những quân lính nhà Minh thì ra hàng thì
đưa về Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân, Tân Hưng. Về những điều Lê Lợi
đặt ra để răn dạy các quan và tướng sĩ thì Việt Nam sử lược có ghi: “Vương đặt
ra 3 điều để răn các quan.
1. Không được vô tình.
2. Không được khi mạn.
3. Không được gian dâm.
Và lại dụ rằng những quân lính ngày thường có tội không được giết càn, trừ
lúc nào ra trận mà trái quân lệnh thì mới theo phép mà thi hành.
Vương lại đặt ra 10 điều làm kỷ luật cho các tướng sĩ.
1. Trong quân ồn ào không nghiêm.
2. Không có việc gì mà đặt chuyện ra làm cho mọi người sợ hãi.

3. Lúc ra trận nghe trống đánh, thấy cờ phớt mà chùng chình không tiến.
23
4. Thấy kéo cờ dừng quân mà không dừng.
5. Nghe tiếng chiêng lùi quân mà không lùi.
6. Phông giữ không cẩn thận, để mất thứ ngũ.
7. Lo riêng việc vợ con mà bỏ việc quân.
8. Tha binh đinh về để lây tiền và làm sổ sách mập mờ.
9. Theo bụng yêu ghét của mình mà làm hòa mất công quả của người ta
10. Gian dâm, trộm cắp.
Hễ tướng sĩ ai mà phạm vào điều ấy thì phải tội chém”[Tài liệu số 7, tr.211]
Vì thế đoàn quân Lam Sơn được xem là đoàn quân chính nghĩa, đi đến đâu
cũng được nhân dân yêu quý. Tướng nhà Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An
xin hàng. Lê Lợi sai thượng thư Bộ lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các
thành khác ra hàng.
III).Trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng- Xương Giang.
Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông. Sai
Liễu Thăng mang 10 vạn quân từ Quảng Tây sang; 5 vạn quân do Mộc Thạch
chỉ huy từ Vân Nam kéo sang. Nghe tin nhà Minh liều lĩnh gửi viện binh sang
cứu nguy cho Vương Thông. Lê Lợi đã tổ chức hội nghị quân sự cao cấp lần thứ
hai. Hội nghị đã bàn đến những vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng như:
Đánh viện binh trước hay đánh quân đang vây hãm trong thành trước, đánh viện
binh thì đánh như thế nào, đánh ở đâu trước. Hội nghị cũng đã bàn đến các việc
như: Làm gì với Vương Thông đang bị vây trong thành Đông Quan; làm gì với
các thành trì trên đường tiến công của giặc; việc đối phó của nhân dân ở những
nơi mà giặc đi qua; và khi quyết định đánh 10 vạn quân của Liễu Thăng thì phải
làm gì với 5 vạn tên do Mộc Thạnh cầm đầu. Những vấn đề lớn và những quyết
định mang tính chiến lược, một lần nữa đã tỏ rõ tài năng quân sự xuất sắc, con
mắt nhìn xa trông rộng của Lê Lợi.
Tháng 6/1427, Lê Sát và Trần Nguyễn Hãn được lệnh đánh gấp thành Xương
Giang trước khi Liễu Thăng và Mộc Thạnh kéo sang. Ngày 28/9/1427, quân

Lam Sơn làm chủ được thành, đây cũng là dinh lũy cuối cùng của quân Minh ở
phía Bắc Đông Quan, làm chủ toàn bộ chiến trường dự kiến tác chiến trên hướng
chủ yếu. Nghĩa quân Lam Sơn chủ trương tiêu diệt cánh quân của Liễu Thăng,
kiềm chế cánh quân của Mộc Thạnh. Đồng thời tiếp tục vây hãm thành Đông
Quan, không cho Vương Thông hội quân với quân cứu viện.
Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng, Phạm Văn Liêu
đem một vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa chiến, 5 thớt voi tiến lên bố trí mai phục
sẵn ở ải Chi Lăng. Lê Lý, Lê Văn An đem 3 vạn quân lên tiếp ứng và chuẩn bị
24
sẵn sang một trận mai phục ở Cần Trạm( phía dưới Chi Lăng). Trần Nguyễn Hãn
được lệnh gấp rút biến thành Xương Giang thành một pháo đài án ngữ trước con
đường về Đông Quan, sẵn sàng phối hợp với các đơn vị khác tiêu diệt quân
Minh.
Tháng 9/1427, Liễu Thăng đi đường Quảng Tây, Mộc Thạnh đi đường Vân
Nam sang cứu Vương Thông. Liễu thăng dự tính từ Lạng Sơn, qua Xương Giang
để vào Đông Quan. Lê Lợi sai Lê Sát và Lê Văn Linh, Lưu Nhân Chú mang 2
vạn quân và 5 thớt voi lên cửa Chi Lăng đón đánh. Ngày 8/10, cánh quân Liễu
Thăng tiến vào nước ta. Lê Sát đặt mai phục ở ải Chi Lăng, sai tướng Trần Lựu
đưa quân ra đánh nhử, giả thua bỏ ải Pha Lũy rồi về ải Chi Lăng, quân Minh tiến
đến giành ải Pha Lũy rồi đến Chi Lăng. Ngày 20/9, hai bên đụng nhau tại ải Chi
Lăng, Trần Lựu thua chạy, Liễu Thăng đưa quân tiên phong lên trước. Lúc này
Lê Sát, Lưu Nhân Chú đổ ra đánh chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên cùng
hơn một vạn quân Minh.
Sau khi Liễu thăng bị chém, chỉ huy quân Minh lúc này là Lương Minh. Quân
Lam Sơn đưa thư khuyên Lương Minh rút quân nhưng Lương Minh không
những không rút mà còn tiếp tục dẫn quân về Cần Trạm. Ngày 15/10, quân Minh
đến Cần Trạm. Quân Lam Sơn lúc này có 3 vạn quân cùng với 1 vạn quân của
Lê Sát và Lưu Nhân Chú từ Chi Lăng rút về tổ chức mai phục, tập kích đối
phương. Quân Minh bị thiệt hại nặng nề, Lương Minh tử trận.
Sau khi Lương Minh chết, người đứng đầu quân Minh lúc này là Thôi Tụ, đưa

quân tiếp tục tiến lên. Quân Lam Sơn phục binh ở Cần Trạm giết được một vạn
quân Minh, tướng giặc là Lý Khánh phải tự vẫn. Lực lượng còn lại của quân
Minh nằm dưới sự chỉ huy của Thôi Tụ- Hoàng Phúc.
Quân Minh tuy thua to nhưng vẫn còn mạnh. Thôi Tụ dự tính vào thành
Xương Giang để phối hợp với Vương Thông, nhưng khi tiến đến mới biết thành
này đã bị quân Lam Sơn hạ. Thôi Tụ phải đóng quân ngoài cánh đồng Xương
Giang, xung quanh đắp lũy đất để phòng thủ. Quân Minh đóng quân trong một vị
trí mà phía Nam là thành Xương Giang kiên cố; phía Tây, Tây Bắc, Tây Nam là
sông Thương; phía Đông Nam là sông Lục Nam. Phía Bắc, các đơn vị của Lê
Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lý, Lê Văn An, sau trận phố cát tiếp tục truy kích đối
phương, các đơn vị thủy quân được bố trí trên sông Thương và sông Lục Nam.
Vì quân Minh còn mạnh, quân Lam Sơn chủ trương không tiến công mà chỉ
bao vây và gửi thư gọi hàng. Nhưng Thôi Tụ vẫn không chịu khuất phục. Quân
Lam Sơn điều thêm Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Trương Lôi đem 3000
quân thiết đột lên thành Xương Giang. Ngày 3/11, quân Lam Sơn mới tổng tấn
công. Sau ngày chiến đấu, quân Lam Sơn đã giành được những thắng lợi giòn
25

×