Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao học, đấu tranh phòng xâm hại trẻ em ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.72 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Đề tài :
ĐẤU TRANH PHÒNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN........................................................4
1.1. Khái quát chung về trẻ em..........................................................................4
1.2. Một số khái niệm về xâm hại tình dục trẻ em............................................4
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CƠNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM Ở THÀNH PHỐ HÀ NỢI......6
2.1. Tình hình xâm hại trẻ em tại Hà Nội hiện nay...........................................6
2.2. Những thành công và hạn chế trong cơng tác phịng, chống xâm hại tình
dục trẻ em........................................................................................................10
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP............................................15
3.1. Kiến nghị................................................................................................15
3.2. Giải pháp................................................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý
nghĩa về trẻ em. Đó là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc,
mỗi cộng đồng và mỗi gia đình. Chính vì vậy, trẻ em là đối tượng cần được
bảo vệ, nhất là trước vấn nạn xâm hại tình dục. Điều 20 Hiến pháp năm 2013


quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…."1 Như vậy, bên cạnh quyền
được bảo vệ tính mạng, sức khỏe thì danh dự và nhân phẩm, trong đó có
quyền tự do tình dục của con người nói chung và trẻ em nói riêng là một
quyền Hiến định. Nhất là đối với trẻ em, vì họ là đối tượng còn non nớt về thể
chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt. Vấn đề này đã được luật
hóa trong Luật Trẻ em năm 2016. Thực tiễn hiện nay, nhóm trẻ bị xâm hại
tình dục ngày càng diễn biến phức tạp cả về quy mơ và cách thức thực hiện.
Xâm hại tình dục trẻ em đang là vấn nạn trên toàn Việt Nam, đặc biệt là ở Hà
Nội- nơi tiềm ẩn nhiều tội phạm nguy hiểm, hậu quả mà các em phải gánh
chịu có thể có những tổn thất về sức khỏe thể chất và tinh thần, làm giảm khả
năng học tập, hịa nhập xã hội và thậm chí có thể hủy hoại các em, ảnh hưởng
đến việc trở thành con người tốt, trở thành cha mẹ tốt trong tương lai. Trong
nhiều năm qua, TP. Hà Nội đã có nhiều biện pháp để phòng chống, giảm
thiểu và nhằm đẩy lùi hiện tượng xâm hại tình dục trẻ em. Tuy nhiên cơng tác
phịng chống xâm hại tình dục trẻ em hiện nay cịn gặp phải những rào cản,
khó khăn như: Khâu phát hiện và báo cáo số vụ xâm hại trẻ em còn chưa cịn
nhiều khoảng trống, thiếu cụ thể, mơ hình trợ giúp thiếu tính chun nghiệp.
chính vì vậy em đã chọn đề tài “Đấu tranh phịng chống, xâm hại tình dục
1

Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam năm 2013

1


trẻ em trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. để nghiên cứu cho môn học Nhà
nước và Pháp luật của mình. Trong q trình làm bài cịn nhiều thiếu sót,
mong nhận được ý kiến đánh giá của thầy/cô để bài làm của em được hồn
thiện hơn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận sẽ tập trung nghiên cứu về cơng tác phịng, chống tội xâm hại
tình dục trẻ em
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, tiểu luận sẽ đi sâu làm rõ về thực
trạng vấn đề xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nêu lên
những ưu điểm và hạn chế về cơng tác phịng, chống nạn xâm hại tình dục trẻ
em và trên cơ sở đó đưa ra giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận nên em chỉ giới hạn nghiên
cứu về cơng tác phịng chống xâm hại tình dục ở trẻ em và chỉ trên địa bàn
TP. Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, quy định của
pháp luật về bảo vệ trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sự dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp thống kê,
so sánh
6. Kết cấu của tiểu luận

2


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận
có kết cấu là 3 chương và 6 tiết


3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát chung về trẻ em
“Trẻ em” được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau. Tuy
nhiên theo Luật Trẻ em năm 2016, “trẻ em” được hiểu là người dưới 16 tuổi.
Còn theo Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam thì: Trẻ em được hiểu
là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ
em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Mặc dù có nhiều cách hiểu khác
nhau về xác định độ tuổi trẻ em nhưng tựu chung lại có thể hiểu, trẻ em là
người đang trong giai đoạn phát triển, chưa hoàn thiện về mặt sinh lý và tâm
lý, dễ bị tổn thương do các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội.
Luật Trẻ em năm 2016 quy định rõ cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục,
gia đình và các cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phù hợp để
bảo đảm trẻ em được sống an tồn, lành mạnh; phịng ngừa, ngăn chặn và xử
lý các hành vi xâm hại trẻ em… Mặc dù vậy, tình trạng phạm xâm hại tình
dục trẻ em hiện nay đang diễn biến hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn mới.
Có thể hiểu Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,
ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình
dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng
trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.
1.2. Một số khái niệm về xâm hại tình dục trẻ em
Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép
buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục,
bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em
vào Mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức2. Trẻ có thể bị xâm hại
2


Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016

4


tình dục dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ biến là xâm hại bằng
cách đụng chạm và không đụng chạm. Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách
đụng chạm bộc lộ qua một số hành vi như hôn hít hoặc ơm trẻ theo kiểu tình
dục, sờ mó vào bộ phận sinh dục của trẻ, hoặc bắt trẻ sờ mó vào bộ phận sinh
dục của người lớn hoặc của một đứa trẻ lớn hơn, ép trẻ thực hiện hành vi mại
dâm… Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách khơng đụng chạm là những hành vi
như dùng lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho trẻ sốc, làm cho trẻ
hưng phấn tình dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục, cho trẻ nghe hoặc
nhìn những cảnh tình dục, bắt trẻ đứng ngồi theo tư thế gợi dục để chụp ảnh
(khiêu dâm), hoặc cho trẻ xem sách báo khiêu dâm…Trẻ có thể bị xâm hại
tình dục dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ biến là xâm hại bằng
cách đụng chạm và không đụng chạm. Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách
đụng chạm bộc lộ qua một số hành vi như hơn hít hoặc ơm trẻ theo kiểu tình
dục, sờ mó vào bộ phận sinh dục của trẻ, hoặc bắt trẻ sờ mó vào bộ phận sinh
dục của người lớn hoặc của một đứa trẻ lớn hơn, ép trẻ thực hiện hành vi mại
dâm… Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách khơng đụng chạm là những hành vi
như dùng lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho trẻ sốc, làm cho trẻ
hưng phấn tình dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục, cho trẻ nghe hoặc
nhìn những cảnh tình dục, bắt trẻ đứng ngồi theo tư thế gợi dục để chụp ảnh
(khiêu dâm), hoặc cho trẻ xem sách báo khiêu dâm.

5


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG XÂM
HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM Ở THÀNH PHỐ HÀ NỢI
2.1. Tình hình xâm hại trẻ em tại Hà Nội hiện nay
2.1.1. Về số vụ án trẻ em bị xâm hại
1, Báo ANTĐ đã đưa tin, ngày 10/82019, Công an thị xã Sơn Tây, Hà
Nội đã ra quyết định tạm giữ hình sự đối với 2 người đàn ơng bị tố có hành vi
xâm hại 2 chị em gái ruột, khiến một cháu gái 16 tuổi mang thai... để điều tra
về hành vi “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”. Hai đối tượng bị
tố cáo xâm hại 2 cháu gái 14 và 16 tuổi khiến cháu gái 16 tuổi đang mang thai
5 tháng là là Đào Văn Chuyển (53 tuổi) và Đào Văn Sinh (57 tuổi), cùng trú
tại thị xã Sơn Tây. Hiện công an thị xã Sơn Tây đang tiếp tục củng cố tài liệu,
hồ sơ để xử lý vụ việc.
2, Ngày 8/6/2018, TAND huyện Hoài Đức (Hà Nội) xét xử sơ thẩm,
tuyên phạt Nguyễn Đình Lê (SN 1974) – giáo viên trường Tiểu học An
Thượng A (Hồi Đức) án 6 năm tù về tội “Dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi.
Theo cáo trạng, từ tháng 11/2017 đến tháng 4/2018, Nguyễn Đình Lê
đã có hành vi dâm ô với 7 học sinh nữ trong lớp học do Lê làm chủ nhiệm. Bị
cáo thực hiện việc này tại nhà riêng của mình hoặc tại trường học.
Cụ thể, mỗi khi tổ chức dạy thêm tại nhà, Lê lợi dụng sự tin tưởng của
học sinh với thầy chủ nhiệm hoặc cho quà để yêu cầu các em vào phòng ngủ,
các góc khuất để dâm ơ.
Tại lớp học, bị cáo cũng yêu cầu các nữ học sinh nhỏ tóc sâu hoặc ngồi
lên ghế của giáo viên. Từ đó, Lê lợi dụng sơ hở để thực hiện hành vi đồi bại.

6


Ngoài 7 nữ sinh được làm rõ, nhiều nhân chứng khai Lê cịn dâm ơ một
số học sinh khác. Tuy nhiên, do gia đình các em từ chối khai báo và khơng có
đề nghị nên cơ quan chức năng khơng đủ căn cứ xử lý.

Theo cơ quan truy tố, hành vi của Nguyễn Đình Lê là nguy hiểm cho xã
hội; xâm phạm quyền được bảo vệ về nhân phẩm, cơ thể, danh dự của trẻ em;
gây ảnh hưởng xấu tới thuần phong mỹ tục và trật tự xã hội.
3, Liên quan đến vụ dâm ô bé gái 11 tuổi trong ngõ vắng ở Hà
Nội, Công an quận Thanh Xuân đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
đối với Nguyễn Đình Phúc để điều tra, làm rõ vụ việc.
Chiều 21.4, Công an quận Thanh Xuân (Hà Nội) cho biết, đơn vị đã ra
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Đình Phúc (41 tuổi,
trú tại quận Thanh Xuân) về hành vi "Dâm ô với người dưới 16 tuổi".
Trước đó, bằng các biện pháp nghiệp vụ, Công an quận Thanh Xuân đã
xác định được đối tượng Nguyễn Đình Phúc có liên quan đến vụ việc và tiến
hành triệu tập nghi phạm để điều tra.
Tại cơ quan công an, Phúc bước đầu khai tối 4.4, sau khi ngồi uống
bia một mình cách nhà 200m, Phúc đi xe máy khơng có biển số đến đầu
ngõ 132 Khương Trung thì thấy 2 bé gái đang đi mua đồ dùng học tập trên
đường về nhà.
Lúc này, Phúc nảy sinh ý đồ xấu để thoả mãn ham muốn tình dục. Sau
đó, Phúc phóng xe máy vào ngõ rồi đứng đợi 2 bé gái. Vờ nói mình đang đi
tìm bạn trong ngõ, Phúc nhờ 2 bé chỉ đường. Khi đi vào ngõ vắng, Phúc đã
dùng tay thực hiện hành vi xâm hại với bé gái.
Vì hoảng sợ, bé gạt tay Phúc và gào khóc nên Phúc đã lên xe máy bỏ đi.
Khi những hình ảnh của Phúc được camera an ninh ghi lại và được đăng lên
mạng xã hội thì Phúc sợ hãi nên mang xe máy đi gửi để tránh bị phát hiện.

7


Theo cơ quan công an, Phúc là công nhân, đã có vợ con. Ngồi ra,
chiếc xe máy và một số tang vật sau đó cũng được cơ quan điều tra thu giữ để
điều tra.

2.1.2. Nguyên nhân, hậu quả của vấn đề xâm hại tình dục trẻ em
Nguyên nhân: Để xẩy ra tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục có thể
xuất phát từ chính gia đình hoặc cộng đồng xã hội trong việc quản lý, chăm
sóc, ni dưỡng và giáo dục các em.
Thứ nhất, đối với gia đình, trong đó nói đến vai trị của cha mẹ, người
chăm sóc trẻ em thiếu nhận thức về nguy cơ, thiếu kỹ năng phòng ngừa, kỹ
năng giải quyết về pháp lý, kỹ năng chăm sóc và phục hồi cho trẻ bị xâm hại
tình dục về thể chất và tâm lý.
Thứ hai, đối với bản thân trẻ, sự hạn chế trong nhận thức của trẻ về các
hình thức xâm hại tình dục, sự tị mị khám phá về giới tính, sự thiếu kỹ năng
phòng ngừa và tố giác người xâm hại…
Thứ ba, đối với xã hội, hiện tượng xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại
tình dục nói riêng khơng phải là điều mới mẻ mà có thể xảy ra ở mọi nơi, mọi
lúc và hầu như ai trong số người lớn chúng ta, chủ quan hay khách quan đều
biết nhưng thờ ơ hoặc không quan tâm tới vấn đề này. Hoặc cơng tác truyền
thơng về xâm hại tình dục trẻ em, đặc biệt là vấn đề giáo dục giới tính cũng
như giáo dục các em biết cách tự bảo vệ mình còn bị coi nhẹ, chưa chú trọng
ngay khi các em đang học mẫu giáo hay tiểu học.
Hậu quả: Trẻ em là những người đang trong độ tuổi phát triển, chưa
hoàn thiện về mặt thể chất và tâm sinh lý. Vì vậy, khi trẻ bị xâm hại tình dục
sẽ dẫn đến những hậu quả lâu dài không chỉ cho trẻ em – nạn nhân trực tiếp
mà còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho gia đình trẻ bị xâm hại và cộng
đồng xã hội.
Tổn thương về tinh thần

8


– Hậu quả lớn nhất khi trẻ bị xâm hại tình dục là trẻ tổn thương về tinh
thần và ảnh hưởng đến tương lai.

– Trẻ dễ bị mặc cảm, phát triển khơng bình thường.
– Trẻ khó hồ nhập với xã hội.
Tổn thương vế sức khỏe
– Gây ra những tổn thương nặng nề tại bộ phận sinh dục: bị nhiễm
trùng đường tiết niệu, chảy máu kéo dài ở bộ phận sinh dục …
– Các tổn thương thể chất khác: đau bụng, đau đầu, mất ngủ...
– Những trường hợp xâm hại tình dục đi kèm với bạo lực có thể dẫn tới
tử vong.
– Bị nhiễm các bệnh xã hội, bệnh lây truyền qua đường tình dục và
HIV/AIDS.
– Với các em nữ việc bị xâm hại tình dục có thể khiến các em mang
thai ngoài ý muốn gây nguy hiểm cho bản thân và thai nhi (vì cơ thể các em
chưa phát triển hồn chỉnh)
– Gây ra nhiều ngun nhân dẫn đến vơ sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ sinh sản và hạnh phúc gia đình của các em về sau.
Từ các tài liệu nhi khoa và tâm lý bệnh nhi cho thấy: Xâm hại tình dục
cịn có khả năng gây ra những lệch lạc giới tính cho các em. Khi các em nam
bị xâm hại tình dục thì các em sẽ khơng phát triển tự nhiên về mặt sinh lý mà
có nguy cơ bị lệch lạc về tình dục. Những ám ảnh về việc bị lạm dụng, đặc
biệt là hành vi tình dục đồng giới sẽ khiến các em trở thành những người
đồng tính luyến ái. Ngồi ra, những lệch lạc giới tính về sau này khi trưởng
thành có thể dẫn đến việc quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều người. Đối với
một số em thì việc lạm dụng làm cho các em trở nên chai sạn và xem chuyện
bị lạm dụng là chuyện bình thường.

9


2.2. Những thành công và hạn chế trong công tác phịng, chống
xâm hại tình dục trẻ em

Những thành cơng
Trước những diễn biến phức tạp của nạn xâm hại trẻ em, thời gian qua,
TP Hà Nội đã có nhiều biện pháp tích cực để bảo vệ, can thiệp, hỗ trợ, phịng
ngừa nhằm hạn chế thấp nhất những nguy cơ xâm hại có thể xảy ra với trẻ
nhỏ. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao nhất, ngoài sự nỗ lực của các cấp
chính quyền, của gia đình, thì việc phịng ngừa, chống xâm hại trẻ em rất cần
sự chung tay của cả cộng đồng.
Thời gian qua, thành phố đã ban hành 15 văn bản chỉ đạo, liên quan
trực tiếp đến công tác phòng, chống xâm hại trẻ em. Thành phố đã yêu cầu
các địa phương xảy ra các vụ bạo lực, xâm hại trẻ em nghiêm trọng có trách
nhiệm báo cáo ngay sau khi vụ việc xảy ra và báo cáo bằng văn bản về kết
quả giải quyết chậm nhất sau ba ngày vụ việc được phát hiện. Bên cạnh đó,
UBND thành phố ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện đồng
bộ các mơ hình "Ngơi nhà an toàn", "Cộng đồng an toàn", "Trường học an
toàn" để tăng cường công tác bảo vệ trẻ em. Hằng năm, TP Hà Nội tổ chức
Diễn đàn trẻ em cấp thành phố. Ðây cũng là một kênh quan trọng để lấy ý
kiến, kiến nghị của trẻ em về các vấn đề mà trẻ em quan tâm, trong đó có
phịng, chống xâm hại trẻ em. Ðến nay, tất cả 30 quận, huyện, thị xã; 540 xã,
phường, thị trấn đã có quyết định thành lập, kiện tồn Ban chỉ đạo cơng tác
trẻ em. Tính đến tháng 6-2019, trên địa bàn Hà Nội có 1.694 cơ sở cung cấp
dịch vụ bảo vệ trẻ em, có 10.916 cộng tác viên làm công tác trẻ em.
Chủ động phối hợp thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về chăm sóc, bảo vệ trẻ em; các biện pháp, cách thức phòng,
chống xâm hại tình dục trẻ em; tuyên truyền về Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em
111... nhằm giúp người dân hiểu rõ quyền, trách nhiệm của mình trong bảo vệ,

10


chăm sóc, giáo dục trẻ em, đồng thời, để chính các em được trang bị những kiến

thức cơ bản về tự bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm hại tình dục.
Đây là một trong những nội dung trọng tâm mà UBND TP. Hà Nội yêu
cầu thực hiện kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về phòng, chống
xâm hại tình dục.
Cụ thể, UBND Thành phố yêu cầu Thủ trưởng các Sở, ban ngành
Thành phố, Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã tiếp tục tổ chức phổ biến,
quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản của Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan đến công tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói riêng và phịng,
chống xâm hại tình dục nói chung. Thực hiện nghiêm túc Kế hoạch số
82/KH-BCNDA4, ngày 25/3/2019, của Ban Chủ nhiệm Dự án 4 thành phố Hà
Nội về thực hiện Dự án 4 “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em,
người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phịng, chống bạo lực gia đình,
mua bán người” năm 2019.
Những hạn chế.
Ngoài những hạn chế về hệ thống pháp lý như: Luật pháp về bảo vệ trẻ
em cịn có những khoảng trống, thiếu cụ thể, cịn bỏ sót một số hành vi xâm
hại tình dục trẻ em nghiêm trọng như: tàng trữ ấn phẩm khiêu dâm trẻ em,
chưa quy định cụ thể các hành vi thuộc tội danh dâm ô đối với trẻ em. Pháp
luật tố tụng hình sự chưa quy định thủ tục điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
bạo lực, xâm hại trẻ em, chưa chú trọng đầy đủ đặc tính dễ bị tổn thương của
trẻ em nạn nhân của xâm hại, đặc biệt là trẻ em bị xâm hại tình dục khi tham
gia vào quá trình tố tụng; chưa quy định chi tiết về bảo mật thơng tin, bí mật
riêng tư cho trẻ em trong tố tụng, bảo vệ người tố giác. Pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính đối với hành vi xâm hại trẻ em bỏ sót nhiều hành vi xâm hại
trẻ em; việc xử lý vi phạm hành chính về xâm hại trẻ em ít được thực hiện

11



trên thực tế mà chủ yếu tập trung vào các vi phạm hình sự nên tính phịng
ngừa, răn đe yếu; thiếu các quy trình và hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ và bảo vệ
trẻ em là nạn nhân, nhân chứng của bạo lực, xâm hại. Thiếu những quy định
xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại trẻ
em; không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ trách nhiệm bảo vệ trẻ em khi
trẻ em bị xâm hại. Thành phố Hà Nội cịn gặp một số khó khăn khi giải quyết
các vụ án xâm hại tình dục trẻ em như:
Thứ nhất, trong hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh.
Thực trạng giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em hiện nay cho
thấy việc phát hiện, thu thập tài liệu chứng cứ ban đầu như các dấu vết, mẫu
tinh dịch, mẫu AND của đối tượng gây án để lại trên người và quần áo của
nạn nhân, hoặc ở hiện trường cịn gặp nhiều khó khăn bởi có nhiều trường
hợp trẻ em bị xâm hại tình dục, khi gia đình biết đã lưỡng lự trong cách giải
quyết dẫn đến khai báo muộn, không biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để
giao nộp cho cơ quan chức năng nên vô hình chung đã tạo điều kiện để người
thực hiện hành vi phạm tội có đủ thời gian xóa hết dấu vết. Do đó, việc thu
thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp nhiều khó khăn (vùng kín bị hóa sẹo,
khơng thu được tinh dịch…) nên rất khó để xác định người bị hại có bị hiếp
dâm hay khơng và ai là người thực hiện hành vi. Trong khi đó yêu cầu của
việc thu thập mẫu tinh dịch, mẫu ADN để lại trên người và quần áo của nạn
nhân, hoặc ở hiện trường và giám định pháp y cần phải tiền hành nhanh
chóng, kịp thời nhưng theo quy trình giải quyết tin báo thì khi cơ quan điều
tra sau tiếp nhận tin báo về tội phạm, phải phân loại và tổ chức lấy lời khai
ban đầu, xác minh, làm thủ tục giới thiệu đến cơ quan chuyên môn thăm
khám, lấy mẫu, giám định… quy trình này mất trên dưới 1 tuần, có trường
hợp cịn kéo dài hơn. Vì vậy, thời gian càng kéo dài, việc thu thập dấu vết tội
phạm, chứng cứ chứng minh thủ phạm càng khó khăn hơn.

12



Thứ hai, kỹ năng của cán bộ trực tiếp xử lý, giải quyết vụ việc.
Khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em cơ quan tiến hành tố
tụng cần phải làm rõ các đặc điểm riêng biệt như: độ tuổi, đặc điểm tính cách
của nạn nhân, hồn cảnh gia đình. Căn cứ vào đặc điểm của từng em để có
những biện pháp tác động cụ thể, kịp thời. Ví dụ trong trường hợp các em do
chưa nhận thức đầy đủ đã đồng tình hoặc chủ động trong quan hệ tình dục,
khi người lớn phát hiện khơng động viên, nâng đỡ mà dùng bạo lực với các
em, dẫn đến các em sẽ khai báo không đúng sự thật. Hoặc khi trẻ em bị xâm
hại nhưng do bị đe dọa nên sợ khơng dám nói ra sự thật… Những trường hợp
này cần có biện pháp phối hợp với gia đình động viên, tơn trọng trẻ và có biện
pháp chia sẻ để các em hiểu, yên tâm trình bày nội dung sự việc một cách
trung thực nhất.
Tuy nhiên, cán bộ giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em còn
chưa được đào tạo về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18
tuổi, nên khi tiến hành lấy lời khai trẻ em đã dùng những từ ngữ mang tính
chất chun mơn hoặc các câu hỏi áp dụng như người lớn khiến trẻ em không
biết trả lời hoặc trả lời khơng chính xác. Vì thế, khi tiến hành lấy lời khai
trong trường hợp này cần phải mời chuyên gia tâm lý tham gia cùng. Trong
trường hợp khơng mời được thì khi tiếp cận trẻ em cần quan sát thái độ, cử
chỉ, hành động của các em. Khi hỏi trẻ em cần hỏi những câu rõ ý để trẻ em
trả lời đúng, cần sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu mà ở nhà ông bà, bố mẹ
hay dùng để trao đổi với trẻ.
Thứ ba, từ chính người bị hại hoặc gia định người bị hại.
Trong nhiều vụ án mặc dù tại cơ quan điều tra và trong hồ sơ vụ án đã
thể hiện quan điểm rõ ràng và khẳng định hành vi của bị cáo đã xâm hại tình
dục đối với trẻ em. Nhưng do trong quá trình chờ xét xử, giữa gia đình bị cáo
và gia đình người bị hại đã thỏa thuận, thống nhất với nhau và thậm chí do sự

13



tác động nào đó (có thể do bị đe dọa hoặc hứa hẹn) nên tại phiên tòa người bị
hại lại thay đổi lời khai, phủ nhận lời khai trước đó và một mực bảo vệ bị cáo,
cho rằng bị cáo khơng thực hiện hành vi xâm hại tình dục đối với họ như
trong hồ sơ vụ án đã thể hiện…qua đó đã gây nhiều khó khăn cho Hội đồng
xét xử trong q trình giải quyết, xét xử vụ án đó.
Trong các vụ án xâm hại tình dục đối với trẻ em, người bị hại và gia
đình của người bị hại thường có tâm lý e ngại, lo sợ ảnh hưởng đến danh dự,
cuộc sống gia đình nên khi xảy ra vụ việc, họ thường khơng trình báo với cơ
quan có thẩm quyền mà giấu diếm, bỏ qua hoặc tự thỏa thuận với người có
hành vi phạm tội và gia đình của người phạm tội gây khó khăn cho cơng tác
điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, do thời gian xảy ra
đã lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của người phạm tội, người bị hại nên việc
giám định của cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn, cũng ảnh hưởng đến kết
quả giải quyết vụ án.

14


CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Kiến nghị
Trước tình trạng xâm hại tình dục trẻ em thời gian qua, Bộ LĐ-TBXH
– cơ quan quản lý nhà nước về chăm sóc, bảo vệ trẻ em đã họp với các bộ,
ngành và lắng nghe ý kiến của các cơ quan liên quan đến cơng tác này để tìm
những lỗ hổng trong quá trình triển khai các quy định của pháp luật trong
thực tiễn để có những giải pháp trong thời gian tới.
Một là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác
phịng ngừa, đấu tranh, cách phịng chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.
Một trong những nguyên nhân mà các cơ quan đề cập nhiều là liên quan đến

việc rà soát lại các quy định, các thủ tục pháp luật liên quan tới các hành vi, vi
phạm liên quan đến hành vi vi phạm xâm hại tình dục trẻ em và các chế tài xử
phạt. Một trong những đề xuất đã được đề cấp đến là rà soát lại các quy định
liên quan đến pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự, luật giám định, tư pháp,
đặc biệt là những quy định đặc biệt liên quan đến quy trình xét xử các vụ án
xâm hại tình dục đối với trẻ em phải có những quy định riêng để làm sao
nhanh chóng, thuận tiện nhất để đảm bảo quyền lợi trẻ em.
Kiến nghị cơ quan ban hành pháp luật cần phải cụ thể hóa khái niệm,
phải giải thích rõ ràng, cụ thể hơn về thế nào là hành vi dâm ô trong các văn
bản pháp luật hiện hành. Đây là cơ sở quan trọng để cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án, luật sư, cũng như tồn xã hội có căn cứ để xác định hành vi,
đấu tranh với loại tội phạm dâm ô đối với trẻ em
Hai là, cần có văn bản hướng dẫn, giải thích thống nhất về các khái
niệm cịn đang mâu thuẫn nhằm đảm bảo cách hiểu thống nhất và vận dụng
đồng bộ trong thực tế. Ví dụ: như khái niệm “hành vi quan hệ tình dục khác”

15


là hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình với người khác dưới
những hình thức nhất định.
Khái niệm “hành vi dâm ơ” là có hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy
không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thoả mãn tình dục của mình
hoặc khêu gợi bản năng tình dục của người đó. Hoặc khái niệm về hành vi
dâm ô đối với trẻ em là hành vi của người phạm tội, như sờ, bóp… vào những
bộ phận kích thích tình dục của trẻ em hoặc buộc trẻ em phải có hành vi như
sờ, bóp … vào những bộ phận kích thích tình dục của người đó hoặc của
người khác, nhưng khơng có việc giao cấu với trẻ em.
Khái niệm “hành vi khiêu dâm” là hành vi dùng cử chỉ, hành động,
hình ảnh, âm thanh gây kích thích ham muốn tình dục của người khác. Các

hình thức của khiêu dâm bao gồm: mơ tả bộ phận sinh dục, khoả thân, mô tả
khoả thân hoặc khơng khoả thân nhưng kích thích tình dục, mơ tả nhu cầu
tình dục, thủ dâm dưới mọi hình thức.
Ba là, cần sớm có kế hoạch đào tạo về trình độ tâm lý học, khoa học
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi cho cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm
phán để giải quyết các vụ án có liên quan đến người chưa thành niên trong đó
có nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em; thường xuyên tổ chức việc trao đổi,
rút kinh nghiệm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về xâm hại
tình dục trẻ em trong liên ngành tư pháp. Đồng thời, quan tâm sắp xếp các cán
bộ theo hướng chuyên sâu, có tính ổn định theo từng lĩnh vực cơng tác.
3.2. Giải pháp
Đối với cơng tác đấu tranh phịng ngừa loại tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
TP. Hà Nội cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về giới, về tình
dục, về quyền của phụ nữ và trẻ em một cách sâu rộng, có trọng tâm, trọng
điểm để các nạn nhân, gia đình nạn nhân hiểu và nhận thức đầy đủ quyền của

16


mình để đấu tranh phịng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật này phải có kế hoạch, chương trình cụ thể,
trong đó chú trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền thông vào trong sinh
hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và
sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể các cấp… Đặc biệt là việc quan
tâm quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhất là những em có hồn cảnh đặc
biệt, có nhiều khả năng bị xâm hại.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng các biện
pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng ngừa
các hoạt động xâm hại tình dục và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết. Khi bị

xâm hại tình dục, nạn nhân và gia đình phải trình báo ngay cho cơ quan Công
an để được hỗ trợ tư vấn, giải quyết, tránh để lọt tội phạm…
Ba là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cha mẹ và người thân để tránh
những sự việc đau lịng do tội phạm xâm hại tình dục gây nên, cha mẹ cần
thường xuyên quan tâm, chia sẻ với con em mình để nhận thấy những thay
đổi tâm, sinh lý cần thiết. Bên cạnh đó, do khả năng nhận thức và tự bảo vệ
của trẻ em còn nhiều hạn chế nên các em có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại
tình dục cao. Vì vậy, cha mẹ cũng cần phải trang bị cho con cái biết cách thức
phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành vi đồi bại.
Bốn là, chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội
phạm xâm hại tình dục trẻ em, có kế hoạch phịng ngừa, ngăn chặn và quản lý
chặt chẽ số lượng thanh thiếu niên chậm tiến, có tiền án, tiền sự, các băng
nhóm trên địa bàn là những đối tượng có nguy cơ phạm tội xâm hại tình dục.
Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội phạm xâm hại tình
dục trẻ em kết hợp với cơng tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật
trong thanh thiếu niên, học sinh và vận động nhân dân tố giác kịp thời các
hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Đối với người phạm tội cần xử lý nghiêm

17


minh, kịp thời đúng pháp luật, kiên quyết đấu tranh khơng để lọt tội phạm. Tổ
chức tốt các phiên tịa lưu động đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em
nhưng phải đảm bảo thuần phong mỹ tục.
Có thể nói cơng tác đấu tranh phịng chống xâm hại tình dục trẻ em
khơng chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng mà thuộc về mọi gia đình,
nhà trường và toàn xã hội.
Năm là, tăng cường hoạt động tham vấn học đường góp phần bảo vệ trẻ
em trước nguy cơ bị xâm hại tình dục. Tâm lý học đường trong các trường
học Việt Nam có các chức năng chính: Hỗ trợ giáo viên, cán bộ quản lý, cha

mẹ học sinh trong việc vận dụng kiến thức tâm lý học và giáo dục học để
nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện, để dự phịng, từ đó ngăn chặn sự phát
triển không lành mạnh về sức khỏe tinh thần ở học sinh; Trực tiếp tìm hiểu,
can thiệp sớm với những trường hợp mới chớm có dấu hiệu rối nhiễu; là cầu
nối hỗ trợ cha mẹ học sinh, chuyển học sinh đến những cơ sở trị liệu chuyên
biệt hơn nếu cần thiết.

18



×