Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận cao học, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xhcn ở việt nam hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.23 KB, 23 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Đề tài :
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc cũng như
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc
củng cố, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta hết sức coi trọng việc
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù
hợp với điều kiện mới.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định : Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thể chế hoá nghị quyết Đại hội Đảng ghi
nhận tại điều 2 : “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân”. Như vậy lần đầu tiên trong một đạo luật cơ bản chính thức ghi nhận
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
địi hỏi sự nỗ lực khơng ngừng của toàn Đảng, toàn dân. Trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học pháp lý vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học pháp lý là
nghiên cứu nhà nước pháp quyền với những vấn đề lý luận và thực tiễn. Do
đó tơi làm tiểu luận hết môn với đề tài “Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn” để
làm tiểu luận cho mơn học của mình.


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền.
- Tìm hiểu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời
nghiên cứu cứu đóng góp một số ý kiến bước đầu cải cách bộ máy nhà nước,
1


hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, đề tài sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như: phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử… trong
q trình giải quyết các vấn đề nêu ra.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của tiểu luận gồm 3
chương và 6 tiết

2


NỘI DUNG
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền khơng phải là vấn đề hồn tồn mới lạ, mà là
một phạm trù có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển

của tư tưởng: “Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của
dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự chun quyền, độc đốn, vơ chính phủ, vơ
pháp luật. Nhà nước pháp quyền địi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối
cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà
nước. Đó là hai yếu tố khơng thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp
quyền nói chung.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Nhà nước tồn tại không thể thiếu pháp luật, ngược lại thiếu
Nhà nước, pháp luật trở nên vơ nghĩa. Bởi vì, pháp luật do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện. Nhà nước cần đến pháp luật vì thơng qua pháp
luật, dựa vào pháp luật, nhà nước mới quản lý được đời sống xã hội. Dựa trên
pháp luật và các công cụ khác, Nhà nước thiết lập một trật tự xã hội. Tuy vậy,
lịch sử cho thấy không phải khi nào có Nhà nước, có pháp luật là có ngay Nhà
nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà nước xét theo
học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Nhà nước pháp quyền ra
đời ở một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Và Nhà nước pháp quyền
được hiểu tập trung theo hai khía cạnh chủ yếu sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó
pháp luật (đạo luật) thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được
các quan hệ xã hội bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh
bằng văn bản dưới luật thì quốc gia đó chưa đủ về chất của Nhà nước pháp
quyền.
3


Mặt khác, Nhà nước pháp quyền còn được hiểu là một hình thức tổ
chức Nhà nước và hoạt động chính trị quyền lực công khai (công quyền), thể
hiện mối quan hệ bình đẳng giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cơ sở của
pháp luật.
Trong cuốn tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của

Đảng có định nghĩa: “Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không
phải là một kiểu nhà nước, trong lịch sử chỉ có bốn kiểu nhà nước: chủ nơ,
phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nói một cách khái
quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật”1. Đương nhiên, bao
giờ pháp luật cũng mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm
quyền
Như vậy, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư
tưởng rất phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau: Tiếp cận
nhà nước pháp quyền dưới giác độ tư tưởng, lý luận, bàn về các quan điểm,
quan niệm về nhà nước pháp quyền. Lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà
nước pháp quyền XHCN đang còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Khái niệm Nhà nước pháp quyền có nhiều cách tiếp cận khác nhau,
nhưng chung quy lại Nhà nước pháp quyền là khái niệm bao hàm những nội
dung rất phong phú, chứa đựng những đặc trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận
một trạng thái phát triển, một trình độ phát triển của Nhà nước và tiến bộ xã
hội. Tựu chung các ý kiến thường lấy các dấu hiệu đặc trưng để xác định nội
hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền, như: tính tối cao của Luật, sự phân
công quyền lực, dân chủ và bảo đảm quyền con người, trách nhiệm qua lại
giữa nhà nước và cơng dân; tính độc lập của nền tư pháp... Theo đó: Nhà
nước pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ
1

tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX , Nxb Chính trị Qc gia Hồ Chí Minh Hà nội, 2004

4



nghiêm chỉnh pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao (đề cao
tính tối cao của Hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những
giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người.
Từ đó, chúng ta có thể rút ra bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp
quyền như sau:
- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do
pháp luật quy định;
- Nhà nước và cơng dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng
phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật);
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp;
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh
trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước pháp
quyền.
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
lý luận của V.I.Lê-nin, bởi nó khơng thuần túy là những lý thuyết khoa học
mà gắn bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó khơng đơn giản là những suy
tư tinh thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ơng.
Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của V.I.Lê-nin về nhà nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin tiếp tục
khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong
của nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức
5



thống trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để
một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”2.
Tính chất đặc biệt của nhà nước chun chính vơ sản với tư cách hình
thức chuyển tiếp trước khi đạt đến trạng thái tự tiêu vong của nhà nước được
V.I.Lê-nin làm rõ trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tính
chuyên chính và tính dân chủ của nhà nước.
V.I.Lê-nin cho rằng, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì
dân chủ hay chuyên chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thơi. “Bất
cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng tồn bộ sự
khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với
kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và
những người bị bóc lột khơng”. Đối với V.I.Lê-nin: “Chun chính cách
mạng của giai cấp vơ sản là một chính quyền do giai cấp vơ sản giành được
và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản...”.
Chun chính vơ sản khơng hề đối lập với dân chủ, mà là phần bổ
sung, là hình thức thể hiện của dân chủ. “Chun chính vơ sản, nghĩa là việc
tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để
trấn áp bọn áp bức, thì khơng thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng
chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho
nhân dân chứ khơng phải cho bọn nhà giàu - chun chính vơ sản còn thực
hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột,
bọn tư bản”.
Như vậy, sự phát triển của V.I.Lê-nin đối với quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen về nhà nước, điểm quan trọng nhất chính là ở chỗ, đặc tính phổ
biến của mọi nhà nước đó là giai cấp. Như thế, biểu hiện về mặt lịch sử trong
suốt quá trình phát triển của xã hội loài người là mối quan hệ biện chứng của
hai mặt chuyên chính và dân chủ. Rõ ràng, trên phương diện này, nhà nước là
2


V.Lê -nin Toàn tập , tập 5 Nxb chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hà Nội 1998

6


một cách thức tổ chức đời sống xã hội, một giai đoạn trong tiến trình phát
triển của xã hội, là một vịng khâu của sự phát triển. Đây chính là quan niệm
duy vật và biện chứng có tính ngun tắc trong việc lý giải đời sống xã hội
nói chung, vấn đề nhà nước nói riêng và gắn liền với những cố gắng to lớn
của V.I.Lê-nin trong sự phát triển chủ nghĩa Mác.
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về nhà nước pháp
quyền.
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, và vì dân vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội
cơng bằng văn minh thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền nói riêng đã có vị trí, vai trị vơ cùng quan
trọng trong việc xây dựng nhà nước thật sự dân chủ, một nhà nước thật sự của
dân vì quyền và lợi ích của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ
chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ cơng chức nhà nước;
trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất qn, thể
hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý luận của
mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ "chế độ pháp trị".
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành
đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân
chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong

sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng
ta phải có một hiến pháp dân chủ. Cùng với chủ trương xây dựng Hiến pháp,
ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử dụng một
số điều khoản của pháp luật cũ để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong nhận
thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của các chế độ xã hội có những giá trị nhân
7


bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã
nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó.
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến
pháp năm 1946 khơng cịn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và
ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh,
một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc"
- Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các
quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngồi hai bản Hiến pháp, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh cịn chỉ
đạo soạn thảo, ký quyết định cơng bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật.
Khối lượng văn bản luật đó ln thể hiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân
văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do
nhân dân làm chủ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi
công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật
cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc,
cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà
nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm
pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm pháp
luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải

nghiêm minh. Vì nếu thưởng phạt khơng nghiêm minh thì người cúc cung tận
tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ
luật sẽ ngày càng lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân. Trong một
nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến
mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện ở quan niệm xử lý các hành vi phạm pháp, nguyên tắc
8


"có lý","có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tơn trọng cái
lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí
Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật
phải kịp thời, nghiêm minh.
b. Quan niệm của Đảng ta
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại
của loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Quan điểm về nhà nước pháp quyền của Đảng là một bộ phận hợp thành tổng
thể lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền là một quá trình. Trước
những năm 90 của thế kỷ XX, trên bình diện lý luận, chúng ta chỉ dùng các
khái niệm "Nhà nước chun chính vơ sản", "Nhà nước xã hội chủ nghĩa".
Đến năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa
VII, khái niệm "nhà nước pháp quyền" đã được nêu lên. Từ đó, Đảng ta nhận
thức rất rõ rằng, nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của tư tưởng
nhân loại; xét về bản chất, khơng chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy
nhất; mà dựa trên cơ sở kinh tế - xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau,
vẫn tồn tại Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức này ngày càng thống nhất trong toàn Đảng và được khẳng
định rõ tại Đại hội IX của Đảng (4-2001): Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật. Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và cụ
9


thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Trong Dự thảo Đề cương các Văn kiện trình Đại hội X của Đảng, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định
thành một vấn đề có tính ngun tắc với các nội dung: nghiên cứu, thể chế
hóa và xây dựng cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, đồng thời
định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước

10



Chương 2
KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số kết quả đạt được trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam trong thực tiễn.
2.1.1. Về xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Nhà nước.
a. Đánh giá chung.
Thời gian qua trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng của bộ máy nhà
nước ta và yêu cầu của tình hình mới Đảng và Nhà nước đã đưa ra những kết
luận quan trọng, vạch ra những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm
xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Qua đó kết quả
đạt nổi bật được thể hiện như:
Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ của nhà nước, tạo điều kiện
cho nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của mình
thơng qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích
cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà
nước, cán bộ, cơng chức nhà nước
Kiện tồn một bước bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch,
vững mạnh hoạt động có hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán
bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Các thể chế hành chính nhà nước và
tổ chức hành chính nhà nước đều được tăng cường, nền hành chính nhà nước
đang đổi mới theo xu hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá.
Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
b. Các kết quả cụ thể.
Các kết quả lớn cụ thể đạt được của quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam trong thời gian qua gồm:
11


Đổi mới và nâng cao một bước chất lượng hoạt động của Quốc hội (các
kỳ họp Quốc hội, chất lượng và hoạt động của đại biểu Quốc hội, vị thế của
Quốc hội trong bộ máy nhà nước và trong đòi sống xã hội). Quốc hội đang
thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có khả năng thực hiện tốt
nhất quyền lập pháp, quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Củng cố, kiến toàn hội đồng nhân dân các cấp làm đúng chức năng, nhiệm
vụ theo luật định.
Cải cách một bước nền hành chính nhà nước, trước hết đã tập trung
cải cách thủ tục hành chính, từng bước cải cách thể chế hành chính trên các
lĩnh vực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong điều kiện hội nhập quốc tế; xây dựng một hệ thống
hành chính thơng suốt, rõ về chức năng, nhiệm vụ, tinh giản gọn nhẹ (đổi
mới chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, uỷ ban
nhân dân các cấp).
Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Việc quản lý, sử dụng, được đổi mới một bước
theo các quy định của pháp luật về cán bộ công chức. Coi trọng gắn kết hợp
chế độ trách nhiệm, khen thưỏng và kỷ luật. Cải cách một bước chế độ tiền
lương để nâng cao đời sống. Quan tâm đầu tư cho cán bộ cấp cơ sở.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp đảm bảo dân chủ,
khách quan, minh bạch, chống và giảm bớt oan, sai. Củng cố đồng bộ hệ
thống cơ quan toà án, viện kiểm sát,điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp.
Tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ

quan nhà nước.
2.1.2. Về xây dựng, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật.
Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn,
cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đã có
12


những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình
hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và
hội nhập quốc tế.
Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với địi hỏi của tình hình. Các văn
bản luật được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các
lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của nhà nước (Luật Hiến pháp, Luật tổ chức
Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tồ án, Viện kiểm sát...);
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh (Luật
Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh doanh bảo hiểm...); trong bảo vệ quyền
của công dân và các chủ thể...
Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước
đã dần thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
2.2. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết
điểm, yếu kém: tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước
chưa được xác định rõ; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
chưa cao.
Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ
thống pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ, phức tạp của việc điều chỉnh pháp

luật nên đã bộc lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống
pháp luật và trong xác định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật
cũng như nâng cao tính khả thi và tính hiệu lực của văn bản pháp luật.
Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước cịn bộc lộ khơng ít
những nhược điểm, nhiều mặt còn chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới. Tổ chức hành chính chưa thơng suốt, cịn hạn chế trong
việc xử lý mối quan hệ ngang, thậm chí cịn hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế
13


độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch. Thẩm quyền cá nhân chưa
được quy định rõ. Phong cách làm việc trước dân của cán bộ, cơng chức
cịn là vấn đề bức xúc.
Về lĩnh vực tư pháp, tổ chức và hoạt động cịn nhiều bất cập, sai sót.
Hệ thống pháp luật còn cần tiếp tục đổi mới mạnh và sâu sắc hơn nữa. Nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang đặt ra
là quyết tâm đổi mới hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
thực thi pháp luật nghiêm minh.

14


Chương 3
GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tiếp tục xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần tập trung vào một

số việc sau đây:
1 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh
tế quốc tế, Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải ln ln gắn bó chặt chẽ
nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải
dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phải xuất
phát từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
3 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và
phân công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực,
hiệu quả quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước thực hiện ba quyền thống nhất có sự phân cơng rành mạch, trong đó, đề
cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự
phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm
thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
15


sách, pháp luật của Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành
chính, cải cách tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm
vụ, mơ hình tổ chức của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp
tục nghiên cứu làm rõ mơ hình tổ chức các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm
sát, cơ quan điều tra) cho phù hợp với yêu cầu mới; tăng cường vai trị quản
lý vĩ mơ của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan nhà nước thực hiện quản
lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. Theo đó:
- Quốc hội phải thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp,
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của
Quốc hội cần được đổi mới mạnh hơn nữa theo hướng tăng cường chất lượng
và vị thế của đại biểu Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng
Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; tăng cường số đại biểu Quốc hội chuyên
trách đến tỷ lệ hợp lý (khoảng 40% hoặc 50% tổng số đại biểu Quốc hội); tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, đổi mới
phương thức giám sát và cách thức quyết định ngân sách nhà nước.
- Chính phủ phải nâng cao hiệu lực hoạt động của mình, thực sự là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
Nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại
của đất nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện mọi chính sách, biện pháp hữu hiệu nhằm khơng
ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
dân; xác định rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ và từng Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ trong việc quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách; cải
16


tiến việc phân định, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính
quyền theo hướng phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương kết hợp với quản
lý theo ngành và theo lãnh thổ. Chính phủ khẩn trương hồn thiện hợp lý cơ
cấu tổ chức bộ máy của mình theo hướng quản lý vĩ mơ và mơ hình quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực; từng bước sắp xếp, tổ chức lại các bộ, ngành ở trung

ương, bảo đảm tinh gọn, hợp lý và được hiện đại hóa.
Tiếp tục quán triệt chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước
một cách sâu rộng, toàn diện, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, cơ sở.
Tập trung cải cách thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính theo
hướng đơn giản hóa các thủ tục trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới
đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân; loại bỏ những khâu xin phép,
xét duyệt không cần thiết; công khai các quy định, thủ tục hành chính; triển
khai trong các cấp hành chính của cả nước thực hiện cơ chế "một cửa"; chấn
chỉnh việc ban hành các thủ tục hành chính và quy định lệ phí, bảo đảm chặt
chẽ; nâng cao chất lượng giải quyết các khiếu kiện của nhân dân; chấn chỉnh
bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu chuyên nghiệp hóa, nâng
cao chất lượng cả về phẩm chất và năng lực, kiên quyết khắc phục mọi biểu
hiện quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các tiêu cực khác trong hệ
thống hành chính; loại bỏ cán bộ, cơng chức kém phẩm chất và năng lực ra
khỏi bộ máy hành chính nhà nước. Thực hiện cơ chế bãi miễn những người
không xứng đáng. Có những giải pháp đồng bộ để khắc phục cho được thái độ
vô trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong bộ máy
nhà nước. Đó là thái độ làm việc thụ động, né tránh khó khăn, sợ va chạm, cốt
sao giữ yên được vị trí trong cơ quan nhà nước. Kiên quyết xóa bỏ mọi rào
cản đối với cơng cuộc cải cách hành chính.
- Xác định Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong một thể thống
nhất của chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu đại
diện cho nhân dân địa phương, hoạt động mang tính tự quản, thực hiện nhiệm
17


vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân và là
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp để xây dựng một nền tư pháp
Việt Nam vững mạnh, minh bạch, bảo đảm công lý, công bằng, dân chủ, tận
tụy phục vụ nhân dân. Phải xuất phát từ mục tiêu lấy tổ chức và hoạt động của
tòa án làm trung tâm của cải cách tư pháp.
Thực hiện việc tổ chức tòa án theo cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm);
khơng tổ chức tịa án gắn với đơn vị hành chính; xây dựng hệ thống tịa án
theo hướng: Tịa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị
hành chính cấp huyện; Tịa án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Tòa thượng
thẩm được tổ chức theo khu vực để xét xử phúc thẩm các vụ án mà Tòa án
cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm mà có kháng cáo, kháng nghị, Tịa án Nhân dân tối
cao có nhiệm vụ xét xử các vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và làm
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các tòa án áp dụng thống
nhất pháp luật, ban hành án lệ.
Viện Kiểm sát thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp cần được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án. Nghiên cứu
thành lập Viện Cơng tố thuộc Chính phủ và tiến tới thực hiện cơ chế: cơ quan
công tố chỉ đạo, chỉ huy điều tra.
Chính quy hóa lực lượng điều tra, nghiên cứu tổ chức lại cơ quan điều
tra theo hướng thu gọn đầu mối, có thể thành hệ thống cơ quan độc lập thuộc
Chính phủ hoặc thuộc hệ thống cơ quan công tố. Đổi mới công tác thi hành án
theo hướng tập trung thống nhất quản lý vào một đầu mối (Bộ Tư pháp).
Nghiên cứu thành lập Tòa án Hiến pháp (hoặc Ủy ban bảo hiến) với
chức năng bảo vệ Hiến pháp bằng thẩm quyền xét xử để ra phán quyết về sự
vi phạm Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật, xét xử các quyết
định, hành vi vi phạm Hiến pháp của cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong

18


bộ máy nhà nước và làm nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật pháp (trong điều

kiện còn ban hành pháp lệnh thì giải thích cả pháp lệnh).
4 - Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc định
hướng về tổ chức bộ máy nhà nước, lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị
trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa
chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm
tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, vừa
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được tính chủ động, năng động
và tự chịu trách nhiệm của những người đứng đầu của các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Như vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình tương đối lâu dài với những
bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đổi
mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ được tiếp
tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.

19



×