MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
C.Mác, nhà kinh tế học lỗi lạc người Đức đã để lại cho nhân loại những
học thuyết kinh tế – xã hội mà đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Bộ “Tư bản” là
một cơng trình vĩ đại, được xem là trung tâm của chủ nghĩa Mác nói chung và
kinh tế chính trị Mác-Lênin nói riêng. Bộ “Tư bản” là tác phẩm kinh điển về
kinh tế chính trị của C.Mác, cơng trình chủ yếu mà Mác đã dành cả cuộc đời
mình để xây dựng. Tác phẩm lí luận và phương pháp luận thiên tài ấy đã có
ảnh hưởng lớn lao đến vận mệnh phát triển của tồn thế giới. Tiến trình phát
triển của xã hội trong trong thời kì chủ nghĩa Mác xuất hiện địi hỏi phải tìm
ra những quy luật vẫn động thực sự của xã hội lồi người. Từ khi có một giai
cấp mới là giai cấp công nhân bước lên vũ đài lịch sử đã nảy sinh nhu cầu cấp
bách phải làm sáng tỏ cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản, tương lai biến đổi
của nó và triển vọng của cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong bộ “Tư bản” Mác đã phát hiện những tính quy luật sự phát sinh
phát triển của chủ nghĩa tư bản, vạch rõ tính hạn chế về mặt lịch sử của nó,
luận chứng về mặt kinh tế, sự hình thành các tiền đề khách quan và chủ quan
của cách mạng Xã hội chủ nghĩa do tính chất gay gắt của những mâu thuẫn
mà nó nảy sinh từ chính trong lịng xã hội tư bản. Bộ sách là sự phân tích về
chủ nghĩa tư bản, về phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Một trong những vấn đề được nghiên cứu trong phần III, IV, và V
quyển I bộ Tư bản của C.Mác là giá trị thặng dư.
Trong hệ thống lý luận về kinh tế của Mác thì lý luận giá trị thặng dư có
một vai trị đặc biệt. Đó được coi là cơ sở để nghiên cứu các lý luận khác, và do
đó làm cho học thuyết của Mác mang tính nhất qn, lơgic và khoa học. Vì thế,
tìm hiểu một cách sâu sắc các tư tưởng của Mác - Ăngghen về giá trị thặng dư sẽ
góp phần làm cho ta nắm chắc hơn lý luận cơ bản, đồng thời tiếp cận dễ dàng
hơn và hiểu sâu hơn những lý luận tiếp theo. Chính vì vậy em đã chọn đề tài
1
“Những nhân tố tác động đến sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
phần III, IV, và V quyển I bộ “tư bản” của C.Mác” làm đề tài nghiên cứu của
cho mơn học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan điểm của Mác về giá trị trị thặng dư cho đến ngày nay là một
kho tàng quý giá của nhân loại. Qua các cuộc khủng hoảng kinh tế trong thế
giới tư bản nhiều chuyên gia kinh tế cũng như các tầng lớp trí thức nghiên
cứu tìm ra quy luật giá trị của Mác trong bộ tư bản. Tuy nhiên việc nghiên
cứu về những nhân tố tác động đến sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
tương đối vẫn có rất nhiều ý nghĩa.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quan điểm lí luận của Mác về hai phương thức sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối trong bộ tư bản và những nhân tố tác
động đến hai phương thức đó
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ nội dung phần III, IV,V quyển I trong bộ tư bản của C.Mác
- Làm rõ về hai phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
tương đối
- Phân tích những nhân tố tác động đến hai phương thức sản xuất giá trị
thặng dư đó
5. Phương pháp nghiên cứu
Vấn đề được nghiên cứu trên một phương pháp luận duy vật biện
chứng. Phương pháp nghiên cứu chung, phương pháp phân tích, phương pháp
so sánh, phương pháp lơgic, phương pháp lịch sử ….
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo tiểu luận được trình
bày thành 2 chương và 5 tiết.
2
NỘI DUNG
Chương 1
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ TÓM TẮT PHẦN III, IV, V
QUYỂN I BỘ “TƯ BẢN” CỦA C.MÁC
1.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình
luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C.Mác vào học trường
trung học ở Tơriơ. Sức học của C.Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C.Mác nổi bật
ở những lĩnh vực địi hỏi tính độc lập sáng tạo. C.Mác cũng tỏ ra có năng lực
về tốn học. Mùa thu 1835, C.Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó khơng
lâu, tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật.
Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học
Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và
ngoại ngữ C.Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C.Mác
bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi
đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C.
Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15
Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C.Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với
luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự
nhiên của épicure tại trường Iêna.
Bộ “Tư bản” của C.Mác trình bày lý luận về chủ nghĩa tư bản (CNTB)
trong thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn của nước
Anh, trình bày sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa (TBCN) và vạch rõ những mâu thuẫn vốn có trong lịng CNTB (mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản…) tất yếu CNTB sẽ bị diệt
vong, xây dựng xã hội mới đó là xã hội chủ nghĩa (CNXH) trên phạm vi toàn
thế giới.
3
Học thuyết C.Mác là học thuyết mở, trong giai đoạn hiện nay về kinh
tế- xã hội đã thay đổi rất nhiều so với giai đoạn C.Mác viết tác phẩm “Tư
bản”, nên tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước mà vận dụng cho
phù hợp để phát triển kinh tế của đất nước mình. nguyên lý, nhiều quy luật
kinh tế C.Mác đã phát hiện, như những quy luật về sản xuất và lưu thơng
hàng hố, về sản xuất giá trị thặng dư (GTTD), về lợi nhuận, về thương
nghiệp, tín dụng, ngân hàng, về cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, về khủng
hoảng kinh tế ... mang tính khoa học và ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn trong
sản xuất hàng hóa hiện nay.
Bộ “Tư bản” là cơng trình khoa học nghiên cứu nền kinh tế thị trường
TBCN thời kỳ tự do cạnh tranh ở nước Anh từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ
XIX. Nhưng nội dung của nó cung cấp cho người đọc khơng chỉ những tri
thức về phương thức sản xuất TBCN, về kinh tế thị trường TBCN mà cả
nhiều tri thức chung về kinh tế chính trị, về triết học và xã hội học v.v…
Đối tượng nghiên cứu của tác phẩm này là “phương thức sản xuất
TBCN và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản
xuất ấy”. “Mục đích cuối cùng là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội
hiện đại”1
Ngày nay những nhà kinh tế đã quan tâm tìm hiểu trong bộ “tư bản”
nhiều tri thức bổ ích khác nữa, về cơ chế thị trường, về kinh tế hàng hoá, tiền
tệ, tăng sức sản xuất hàng hóa và tìm ra những nhân tố tác động đến giá trị
thặng dư nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế, phục vụ cho nhu cầu xã hội.
1.2. Tóm tắt sơ lược phần III, IV, và V quyển I bộ “tư bản” của
C.Mác
Quyển I, với tiêu đề “Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa”, nghiên cứu
riêng bản thân q trình đó với tư cách là một q trình sản xuất trực tiếp,
khơng kể đến những ảnh hưởng thứ yếu do những nhân tố ở bên ngồi q
trình ấy gây ra, tức là chưa xét đến lưu thông của tư bản, tách quá trình sản
1
C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, tập 23, NXB CTQG 1993, tr.19, 21.
4
xuất của tư bản khỏi q trình lưu thơng của tư bản. Chỉ đề cập đến lưu thông
trong chừng mực cần thiết để 1àm rõ q trình sản xuất đó. Nhưng vì chỉ dựa
trên cơ sở lưu thơng hàng hố mới có q trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu
khơng phân tích hàng hố, tiền tệ, lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ thì
khơng thể nào hiểu nổi tư bản, nên phần thứ nhất quyển I phải bắt đầu từ phân
tích hàng hố và tiền tệ.
Quyển I khơng nghiên cứu q trình sản xuất nói chung mà nghiên cứu
quá trình sản xuất tư bản. Nhưng quá trình này lại vừa là q trình lao động
nói chung vừa là quá trình làm tăng thêm giá trị, nghĩa là nó vừa bao hàm cái
chung vừa mang tính chất đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
mà nét tiêu biểu là sức lao động trở thành hàng hố. Quyển I gồm 7 phần
trong đó:
Phần III quyển I nghiên cứu “sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối”. Từ
phần này C.Mác gạt giai đoạn lưu thông sang một bên, chỉ coi như một tiền
đề có sẵn, tập trung tồn bộ sự phân tích vào q trình sản xuất. Sản xuất
GTTD tuyệt đối chỉ là kéo dài ngày lao động ra q giới hạn mà trong đó
người cơng nhân làm thuê sản xuất ra một vật ngang giá với giá trị sức lao
động của họ và nhà tư bản chiếm hữu số lao động thặng dư ấy. Quá trình này
được thực hiện trên cơ sở của những phương thức sản xuất mà CNTB đã kế
thừa trong lịch sử, chỉ khác là trong trường hợp này lao động thặng dư không
bị cướp đoạt bằng cách cưỡng bức trực tiếp mà thông qua mua bán sức lao
động “một cách tự nguyện”. Do đó, sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối chỉ địi hỏi
sự phụ thuộc về hình thức của 1ao động và tư bản. Sự sản xuất ra GTTD tuyệt
đối tạo ra cơ sở chung cho chế độ TBCN và là điểm xuất phát để sản xuất
GTTD tương đối nên trong phần này sản xuất GTTD tuyệt đối được xem xét
theo hai khía cạnh: vừa là hình thái chung, vừa là hình thái đặc biệt của sự sản
xuất ra GTTD, vừa đề cập những vấn đề thuộc về sản xuất GTTD nói chung
(quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị, tư bản bất biến và tư bản khả
5
biến; tỷ suất GTTD) vừa đề cập những vấn đề thuộc về sự sản xuất GTTD
tuyệt đối (ngày lao động).
Phần IV quyển I nghiên cứu sự sản xuất GTTD tương đối. Điểm xuất
phát của việc nghiên cứu này là độ dài ngày lao động khơng đổi, cịn thời gian
lao động cần thiết lại là một đại lượng thay đổi do việc nâng cao năng suất lao
động (NSLĐ), còn việc nâng cao năng suất lao động lại là kết quả của tiến bộ
kỹ thuật và của những sự thay đổi trong việc tổ chức sản xuất, cho nên phần
này nghiên cứu trong điều kiện phương thức sản xuất TBCN tiến bộ kỹ thuật
được thực hiện như thế nào qua việc sản xuất GTTD tương đối. Phần này vừa
bổ sung cho phần trước bằng cách nghiên cứu một hình thái khác của GTTD
vừa dựa trên cơ sở những nguyên tắc đã phát triển trong phần trước. ở đây,
làm rõ việc nâng cao năng suất lao động biến thành việc tăng thêm GTTD
như thế nào. Nếu trước đây mới chỉ nhận biết tư bản khống chế 1ao động như
thế nào thì bây giờ hiểu thêm tư bản tổ chức lại lao động đó ra sao. Phần trước
nghiên cứu những phạm trù cơ bản biểu hiện quan hệ sản xuất TBCN, nhưng
chưa nghiên cứu lực lượng sản xuất phát triển như thế nào trong điều kiện
quan hệ sản xuất TBCN. Phần này chỉ rõ quan hệ sản xuất TBCN không
những là kết của sự phát triển lực lượng sản xuất mà còn tác động đến lực
lượng sản xuất, cách mạng hóa lực lượng sản xuất; đồng thời sự phát triển về
mặt lý luận được bổ sung bằng việc nghiên cứu về mặt lịch sử. Nói đúng hơn,
sự phân tích lơgíc gắn với việc minh hoạ bằng những giai đoạn lịch sử cơ bản
của quá trình cải tổ lao động dưới sự thống trị của tư bản, từ hiệp tác giản
đơn, qua công trường thủ cơng, lên đại cơng nghiệp cơ khí.
Phần V quyển I tổng hợp và bổ sung cho hai phần III và IV. Hai phần
trước nghiên cứu sản xuất GTTD tuyệt đối và GTTD tương đối một cách biệt
lập. Đến đây khái quát một cách thống nhất hai hình thức GTTD, nghiên cứu
sự biến đổi về lượng của giá cả sức lao động và GTTD. Sự biến đổi đó phụ
thuộc vào sự biến đổi của độ dài ngày lao động, của năng suất lao động và
cường độ lao động, tức là phụ thuộc vào những nhân tố có liên quan đến sản
6
xuất GTTD tuyệt đối và tương đối. Phần này kết thúc bằng sự xem xét các
công thức về tỷ suất GTTD. Các cơng thức này có ý nghĩa quan trọng đối với
cả hai hình thức GTTD, một cơng thức khơng đúng sẽ xuyên tạc tính chất của
nền sản xuất TBCN.
7
Chương 2
HAI PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TUYỆT ĐỐI
VÀ TƯƠNG ĐỐI – NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì
vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá
trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi
kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị
thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công
nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư
được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ
đồ sau đây:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
8
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất
yếu không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian
lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên
tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%
thì bây giờ là 150%.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao
động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể
chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì cơng nhân phải có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao
động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp cơng nhân. Cịn giới hạn dưới
của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian
lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải
dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể
chất và tinh thần của người lao động.
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để
kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất
cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao
động của công nhân là hàng hố, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống
của con người. Vì vậy, ngồi thời gian người công nhân làm việc cho nhà
9
tư bản trong xí nghiệp, người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời gian để
ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao
động là thứ hàng hố đặc biệt vì vậy ngồi yếu tố vật chất người cơng
nhân địi hỏi cịn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh
thần, vật chất, tơn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của
giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao
động trong ngày.
Hơn nữa trong phạm vi giới hạn của thời gian trong ngày, độ dài của
ngày lao động là một đại lượng khơng cố định và có nhiều mức khác nhau.
Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh
của giai cấp cơng nhân địi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo
dài hàng thế kỷ. Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp
bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của
nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp
công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai
đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức
bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị
thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để
kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng
suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị
thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư
tương đối.
10
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian
lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu
diễn như sau:
Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân
chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị
sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3
giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều
đó được biểu diễn như sau:
Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời
gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời
gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức
lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng
của cơng nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất
11
lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi
tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất
ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng
suất lao động xã hội.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát
triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử
phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ
nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ cơng
và đại cơng nghiệp cơ khí, đó cũng là q trình nâng cao trình độ bóc lột giá
trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản
sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm thuê
trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc
áp dụng máy móc khơng phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công
nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự
động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức
mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
2.3. Những nhân tố tác động đến hai phương thức sản xuất giá trị
thặng dư
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật
phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó.
Theo C.Mác, tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thật vậy, giá trị thặng dư – phần giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc
lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân
tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
12
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì
vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá
trị thặng dư. Để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
sản xuất giá trị thặng dư tương đối với tỷ xuất cao nhất các nhà kinh tế luôn
quan tâm đến những nhân tố tác động đến quá trình này để tìm ra phương
thức tối ưu nhất cho quá trình sản xuất, những nhân tố tác động đó là:
- Năng xuất lao động
- Thời gian
- Cường độ lao động
- Công nghệ sản xuất
- Thiết bị máy móc
- Vốn
- Trình độ quản lý
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải lá giá trị sử dụng
mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng
dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản
cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hóa
với chất lượng tốt cũng chỉ vì họ muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa khơng chỉ phản ánh mục đích của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà
tư bản sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc lột công nhân làm
thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động tăng năng
suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội
dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột
cơng nhân làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá
trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển
13
của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc,
đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Hai phương pháp giá trị thặng dư không hề bị tách rời nhau, mà chỉ
trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay ít mà
thơi, trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư
tuyệt đối được sử dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị thặng dư tương
đối, cịn trong thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại. Trong thời đại
ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ; giai cấp tư sản chủ yếu thực
hiện việc bóc lột những người lao động bằng hình thức bóc lột giá trị thặng dư
tương đối. Những người lao động làm thuê bị bóc lột ngày càng nhiều. Cái
gọi là “trung lưu hoá” một số bộ phận lao động làm thuê, về thực chất, cũng
chỉ là một biểu hiện mới của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, sản xuất ra giá trị thặng
dư được tiến hành thơng qua nhiều phương pháp thích ứng với từng giai đoạn
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động, tương quan
lực lượng giữa các giai cấp, trong đó “sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối
tạo thành cái cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa và là điểm xuất phát
của sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối”. Điều đó có nghĩa là sự xuất
hiện của chủ nghĩa tư bản và của giá trị thặng dư tương đối phải dựa trên cơ
sở năng suất lao động xã hội đạt tới một trình độ nhất định, cho phép ngày lao
động của người cơng nhân đã có thể chia làm hai phần: lao động tất yếu tạo ra
giá trị ngang bằng với giá trị nhà tư bản trả cho anh ta dưới hình thức tiền
cơng – tiền lương hay giá cả lao động và lao động thặng dư, tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản để được nhà tư bản thuê.
Khi năng suất lao động còn thấp, thời gian lao động cịn chiếm phần
khá lớn, muốn có nhiều giá trị thặng dư chủ nghĩa tư bản phải kéo dài ngày
lao động và tăng cường độ lao động để bịn rút được nhiều lao động khơng
cơng của cơng nhân làm th. Bước khởi đầu của q trình đó diễn ra trong
14
buổi “Bình minh” của chủ nghĩa tư bản (vào cuối thế kỷ XV và nhiều thập niên
đầu của thế kỷ XVI). Khi đó, các nhà tư bản chỉ mới có vốn liếng ít ỏi và cơng
cụ lao động thủ cơng lạc hậu, nhưng có khát vọng thu được nhiều giá trị thặng
dư, chủ nghĩa tư bản đã khắc phục mâu thuẫn này bằng q trình cách mạng
hố trong quản lý, tổ chức lao động – biến lao động cá thể, manh mún thành
lao động hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế, tạo ra sức lao động của
một số lao động cá thể tương đương. Ưu thế đó của lao động hiệp tác, một mặt,
làm cho năng suất lao động xã hội được nâng cao, cho phép giảm lao động tất
yếu, tăng lao động thặng dư, do đó mà tạo được nhiều giá trị thặng dư cho nhà
tư bản, mặt khác, tạo tiền đề cho chủ nghĩa tư bản tiến lên giai đoạn cao hơn
bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động – phân chia người lao động có
chức năng sản xuất sản phẩm hàng hố hồn chỉnh thành người lao động
chun mơn hố vào khâu cơng việc mà họ có sở trường nhất trong quy trình
sản xuất ra sản phẩm hồn chỉnh.
Nhưng phương thức bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối, do bị hạn chế cả
về mặt tự nhiên – sinh lý, xã hội, giai cấp tư sản không thể đáp ứng nhu cầu
thu giá trị thặng dư tối đa của giai cấp công nhân. Cho nên khi luật công
xưởng được ban hành, chủ nghĩa tư bản khơng cịn xử dụng phương pháp bóc
lột giá trị thặng dư tuyệt đối như là phương pháp chủ yếu nữa, mà áp dụng
rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ
tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp, nên năng suất lao
động ngày càng nâng cao, khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ
tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và
cơng nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản
phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống
hơn.
Khi đó, nhằm mục đích kéo dài lao động thặng dư, người ta rút ngắn
lao động cần thiết bằng những phương pháp cho phép sản xuất ra vật ngang
giá với tiền cơng, trong một thời gian ít hơn, tức là sản xuất giá trị thặng dư
15
tương đối. Vì thế, nếu việc sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối chỉ gắn với
độ dài thời gian lao động hay tăng cường độ lao động, thì việc sản xuất ra giá
trị thặng dư tương đối là cuộc cách mạng hố đến tận gốc các q trình kỹ
thuật, máy móc, cơng nghệ cũng như trình độ của người lao động, tập quán xã
hội… Cho nên để hiểu rõ sự sản xuất ra giá trị thặng dư bằng cách biến lao
động cần thiết thành lao động thặng dư thì phải gạt bỏ quan niệm giản đơn
cho rằng: tư bản vẫn nắm quá trình lao động dưới hình thức do lịch sử để lại
hay hiện có. Ngày nay năng xuất lao động đã có nhiều biến đổi do cơ cấu lao
động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Sự ra
đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao động
tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các cơng cụ thủ
cơng, vì cơng cụ thủ cơng là cơng cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng
bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng
khi lao động bằng máy móc sẽ khơng gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc
sử dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư
liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian
lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu
được nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày
càng được nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách
mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển
chưa từng có trong lịch sử lồi người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học
là dẫn đến sự hình thành các ngun lý cơng nghệ sản xuất mới, chứ không
đơn thuần về công cụ sản xuất như cách mạng khoa học, do đó dẫn đến sự
tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới - nền
văn minh trí tuệ. Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư
siêu ngạch, đây là cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị
cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp
giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi công
16
nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo phạm vi tồn xã hội thì
đây một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì
vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến
kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã
hội tăng lên nhanh chóng. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức
biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá
trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. GTTD
nhiều – lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà tư bản làm
sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản khác cũng đua tranh áp
dụng máy móc để thu được nhiều GTTTD. Kết quả tất yếu là việc sử dụng
máy móc trở thành phổ biến trong các cơng xưởng và nền sản xuất TBCN.
Với đại cơng nghiệp cơ khí, ưu thế của hiệp tác và phân công lao động đã
được vật hố bằng hệ thống máy móc và hệ thống máy móc là sự “nối dài”
của các giác quan và “khuyếch đại” năng lực của con người lên gấp bội, tạo
nên bước phát triển nhảy vọt về NSLĐ xã hội. Sự phát triển của máy móc như
vậy đã làm phát sinh GTTD tương đối bằng cách trực tiếp làm cho sức lao
động giảm giá, gián tiếp làm cho sức lao động rẻ đi nhờ tăng NSLĐ xã hội,
làm cho những hàng hoá cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống. Do đó,
người ta chỉ cần dùng một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại giá trị
sức lao động; làm cho việc sản xuất GTTD tương đối trở thành phương pháp
chủ yếu trong việc tăng GTTD cho nhà tư bản.
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công
nghệ hiện đại nắm giữ được, CNTB đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện
và rất hiệu nghiệm ở cả 3 phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột GTTD
tương đối và bóc lột GTTD siêu ngạch. Ở các nước tư bản phát triển, nhờ áp
dụng khoa học và phương tiện kỹ thuật hiện đại một cách phổ biến trong tất
cả các ngành sản xuất và dịch vụ mà NSLĐ xã hội tăng cao. Do đó, làm cho
giá trị các hàng hố đều giảm xuống và giá trị hàng hoá sức lao động cũng
giảm xuống, vì nó do giá trị các hàng hoá liên quan đến tái sản xuất sức lao
17
động quyết định. Cho nên, trong các nước này động lực trực tiếp, thường
xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo cải tiến tổ chức sản xuất và áp dụng
tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới là GTTD siêu ngạch..
Trong điều kiện của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, các nước tư bản phát triển, nhất là các công ty độc quyền xuyên quốc gia
và đa quốc gia, có ưu thế hơn hẳn trong việc áp dụng những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Do
đó các nước tư bản phát triển và các cơng ty độc quyền đó có nhiều khả năng
sản xuất GTTD siêu ngạch. Đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi
nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và các công ty độc
quyền thu được trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát triển. Hậu quả
của quá trình này là các nước tư bản phát triển thu được lợi nhuận siêu ngạch
kếch xù và giầu lên nhanh chóng. Trái lại các nước kém phát triển thì tài
nguyên ngày một cạn kiệt, sức người mòn mỏi, nợ nần chồng chất và nạn đói
kinh niên…
Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động có trình độ ngày nay vào q
trình sản xuất mà giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, do trình độ
đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có
mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động
và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Nhưng trong điều kiện hiện nay,
sản xuất giá trị thặng dư có những nhân tố tác động mới sau đây:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên
khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động.
Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có
đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì
máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có
sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao
18
động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao
động cơ bắp. Do đó, lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày
càng; có vai trị quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính nhờ
sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng
dư đã tăng lên rất nhiều.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế
ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa,
trao đổi khơng ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản phát
triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên
gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày
càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay.
19
KẾT LUẬN
Mục đích chung của mọi nhà tư bản cũng như của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa đều là sản xuất giá trị thặng dư tối đa. Nó khơng chỉ phản ánh mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn
mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích, đặc biệt là thơng qua nghiên
cứu về các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Bởi vậy, nó có tính thực
tiễn sâu sắc.
Mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất
giá trị thặng dư. sản xuất giá trị thặng dư là động lực vận động của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.C.Mác viết “mục đích của sản xuất tư bản chủ
nghĩa là làm giàu, nhân giá trị lên, làm tăng giá trị do đó bảo tồn giá trị trước
kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Để sản xuất giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản đã dùng mọi thủ đoạn
để bóc lột cơng nhân làm thuê như “kéo dài ngày lao động và tăng cường độ
lao động”.
Như vậy nội dung của quy luật giá trị thặng dư là để thu được giá trị
thặng dư một cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và
tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay các nhà tư bản đã thực hiện cải tiến thiết bị
máy móc trong sản xuất để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng
hoá.Đồng thời thu hút đội ngũ kỹ sư có trình độ cao mà chức năng của họ chủ
yếu là đảm bảo sử dụng hiệu quả tất cả các nhân tố của sản xuất trước hết là
sức lao động chính vì vậy mà tăng giá trị thặng dư.
20