Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận cao học, Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ cấp xã ở nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.82 KB, 27 trang )

MỤC LỤCC LỤC LỤCC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN QUY CHẾ THỰC
HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ.........................................................................4
1.1. QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ - KHÁI NIỆM, PHẠM
VI ĐIỀU CHỈNH.............................................................................................4
1.1.1. KHÁI NIỆM, QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ..........4
1.1.2. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Ở XÃ:................................................................................................................4
1.2. VAI TRÒ CỦA QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ......6
1.2.1. VAI TRÒ CỦA QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ VỚI
VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM:....................6
1.2.2. VAI TRÒ CỦA QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ TRONG
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI:.......................................................................................8
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THI HÀNH QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ CẤP XÃ Ở NGHỆ AN HIỆN NAY...................................................11
2.1.1. THỰC HIỆN DÂN BIẾT....................................................................11
2.1.2. THỰC HIỆN DÂN BÀN:...................................................................14
2.1.3. THỰC HIỆN DÂN GIÁM SÁT, KIỂM TRA:.................................16
2.2. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ Ở NGHỆ AN............................17
2.2.1. THÀNH TỰU......................................................................................17
2.2.2. HẠN CHẾ............................................................................................18
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP XÃ Ở NGHỆ AN HIỆN NAY
.........................................................................................................................20
3.1. KIẾN NGHỊ............................................................................................20
3.2. GIẢI PHÁP.............................................................................................21



KẾT LUẬN....................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................25


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Qua 20 năm triển khai thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở (1998-2018) đã đem lại nhiều thay đổi
quan trọng và tích cực trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, nhất là cấp
cơ sở. Tuy nhiên, bối cảnh và thực tiễn hiện nay cũng cho thấy pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cơ sở cần được tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện.
Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở là lĩnh vực pháp luật về quyền
dân sự của người dân. Ở Việt Nam, theo nghĩa rộng pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cơ sở có phạm vi điều chỉnh rộng, gồm: điều chỉnh vấn đề thực
hiện dân chủ của người dân, nhất là ở xã (trước đây) và nay là xã, phường, thị
trấn; điều chỉnh về thực hiện dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước,
trong các đơn vị sự nghiệp cơng lập; trong các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng
lao động. Theo nghĩa hẹp, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định
những nội dung mà chính quyền xã (gồm Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy
ban nhân dân (UBND), Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, cá
nhân, cán bộ, cơng chức, có trách nhiệm kịp thời công khai để nhân dân biết,
những việc nhân dân được bàn và quyết định, những nội dung nhân dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân
dân giám sát; những nội dung liên quan đến trách nhiệm của người có thẩm
quyền ở cơ sở..
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CTTƯ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hố một bước
Chỉ thị này, ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/ND-CP về thực
hiện dân chủ ở xã. Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước
ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy
lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách,

xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ trong nhân dân, góp phần thúc đẩy
cơng cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
0


Nhằm đưa vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống với phương
châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
được Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI ban hành, đánh dấu bước tiến mới
trong thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về dân chủ ở cơ sở và
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Căn cứ Điều 28 Pháp lệnh số
34/2007/PL-UBTVQH11, Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT ngày
17/4/2008 để hướng dẫn thi hành các điều 11, 14, 16, 22, 26 của Pháp lệnh.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, ngoài
những mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hồn chỉnh như:
Tính dân chủ hố, cơng khai hố trong việc cung cấp những thơng tin có liên
quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế.
Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương
chính sách của chính quyền cịn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy
định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân
chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng của việc thực hiện
quyền dân chủ ở cấp xã.
Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển
khai nghiên cứu đề tài: "
Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã ở
Nghệ An hiện nay"là việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
2. Mục đích và nhiệm vụ của bài tiểu luận:

2.1. Mục đích:
Mục đích của tiểu luận là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về dân chủ ở cơ sở và đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ cấp
cơ sở ở tỉnh Nghệ An trong điều kiện hiện nay; đề xuất phương hướng và các
1


giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện
nay.
2.2. Nhiệm vụ:
Từ mục đích trên, tiểu luận có nhiệm vụ:
- Tìm hiểu, phân tích một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài
nghiên cứu: Khái niệm, đặc điểm nền dân chủ, bản chất, vai trò của dân chủ ở
cơ sở; khái niệm, nội dung, vai trị và tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ và thực
trạng thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã ở Nghệ An hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng
nền dân chủ XHCN, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và
về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận là phương pháp nghiên cứu của
chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch
sử - cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh,
điều tra xã hội học.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu
gồm 3 chương

2



NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CẤP XÃ
1.1. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã - khái niệm, phạm vi điều
chỉnh.
1.1.1. Khái niệm, quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã
Quyền dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật và
các văn bản dưới luật khác. Để thực hiện quyền dân chủ của công dân đòi hỏi
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các nhân viên Nhà nước, các cán bộ,
công chức và mọi công dân phải triệt để tuân thủ pháp luật. Nói cách khác
thực hiện quyền dân chủ là tất cả các quyền dân chủ do pháp luật quy định
được tôn trọng và thực hiện trên thực tế.Thực hiện dân chủ ở xã là việc chính
quyền (HĐND và UBND) phải thực hiện một số hành vi nhất định để công
dân thực hiện được các quyền dân chủ của mình.
Quy chế thực hịên dân chủ ở cấp xã là văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính
quyền cơ sở với công dân trong việc phải thông tin kịp thời và công khai
những việc để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những
việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước quyết định; những việc
dân giám sát kiểm tra và việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn.
1.1.2. Phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã:
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật (nói chung) là giới hạn điều chỉnh của
hệ thống pháp luật nhưng không phải là giới hạn chung cho tất cả các chế
định pháp luật và các ngành luật. Mỗi chế định pháp luật, mỗi ngành luật đều
có phạm vi điều chỉnh riêng, đó là những quan hệ xã hội cùng loại thuộc một
lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Ví dụ: Luật
dân sự có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá

3


- tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản; luật hành chính có đối tượng
điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý của các cơ quan hành chính Nhà nước…
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là một chế định pháp luật do vậy nó
cũng có đối tượng điều chỉnh tiêng. Đối tượng điều chỉnh của Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã cũng được xác định trên cơ sở lý luận về đối tượng điều
chỉnh của pháp luật nói chung, nghĩa là Quy chế thực hiện dân chủ ở xã chỉ
điều chỉnh trong giới hạn xác định hoạt động của chính quyền cấp xã,
phường, thị trấn liên quan đến quyền dân chủ của công dân.
Hiện nay Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ban hành kèm theo nghị định
79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ có phạm vi điều chỉnh gồm:
Thứ nhất: Những việc cần thông báo để nhân dân biết:
Đây là những nội dung rất quan trọng đối với nhân dân nó liên quan
đến các quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội.
Chính quyền cấp xã có trách nhiệm phối hợp với uỷ ban mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các thành viên của MTTQ Việt Nam cùng cấp và trưởng thôn
để thông báo cho nhân dân biết những nội dung này bằng nhiều hình thức.
Thứ hai: Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
Đây là những nội dung liên quan đến quyền lợi trực tiếp của nhân dân,
nhân dân có quyền quyết định trực tiếp những cơng việc này, phù hợp với
pháp luật. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm xây dựng phương án, chương
trình, kế hoạch để nhân dân xem xét, bàn bạc và quyết định. UBND cấp xã
phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chỉ đạo trưởng thôn và
trưởng ban công tác mặt trận tổ chức thực hiện những vấn đề do nhân dân tự
quyết định đã được UBND xã công nhận.
Thứ ba: Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã

quyết định.
Đây là những cơng việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền
cấp xã hoặc của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng có liên quan đến việc phát
4


triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội ở địa phương. Nhân dân được bàn bạc,
tham gia ý kiến. Chính quyền cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân dân cơng khai để
dựa vào đó mà ban hành quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ tư: Những việc nhân dân giám sát kiểm tra.
Đây là những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành của
chính quyền cấp xã, nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra đối với các hoạt
động ấy bằng nhiều hình thức khác nhau. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm
giải quyết và trả lời những nội dung mà nhân dân quan tâm theo thẩm quyền.
Thứ năm: Xây dựng cộng đồng dân cư thôn:
Nhằm thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy các
hình thức hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và là nơi tổ chức cho nhân
dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và nhiệm vụ cấp trên giao. Tổ chức thôn được thành lập. Trưởng thôn là
người đại diện cho nhân dân trong thôn do nhân dân bầu và được Chủ tịch
UBND xã công nhận. Thôn xây dựng hương ước, quy ước về công việc nội
bộ cộng đồng dân cư, kế thừa và phát huy thuần phong, mỹ tục của cộng
đồng, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành nhằm bài trừ hủ tục, mê
tín dị đoan, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an tồn giao thông, vệ sinh
môi trường, xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh.
Xác định phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã có ý
nghĩa hết sức quan trọng, một mặt giúp cho chính quyền thấy được những nội
dung công việc cụ thể phải thực hiện mặt khác để người dân thực hiện quyền
dân chủ trong khuôn khổ của pháp luật tránh việc lợi dung dân chủ để gây
mất đoàn kết nội bộ, phá rối trật tự cơng cộng hoặc có những hành vi chống

phá chính quyền nhân dân.
1.2. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
1.2.1. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã với việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam:
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể các quy
phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy định thành các
5


chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình
thức nhất định1. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành kèm theo
Nghị định số 29/1998/ND-CP ngày 11/5/1998 là một chế định pháp luật hợp
thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Sự ra đời của Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã đã góp phần hồn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với sự phát
triển của các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Bảo
đảm nguyên tắc pháp chế XHCN là những quan hệ xã hội quan trọng phải
được điều chỉnh bằng pháp luật. Đồng thời Quy chế thực hiện dân chủ đã thể
chế hoá các chủ trương lớn của Đảng là: Quyền làm chủ của nhân dân còn bị
vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền,
tham nhũng, sách nhiễu, gây phiều hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm
trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được.Phương châm "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật
pháp, chậm đi vào cuộc sống… phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thu hútnhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà
nước, khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham
nhũng"2.
Trong phạm vi điều chỉnh của mình, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
góp phần nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác như: "Luật tổ
chức HĐND - UBND, luật giải quyết khiếu nại, tố cáo; luật bầu cử: Quốc hội,

Luật bầu cử HĐND các cấp". Có thể xem Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
như một văn bản "tố tụng" về dân chủ nó đã thúc đẩy các cơ quan Nhà nước,
các nhà chức trách thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ pháp lý để bảo đảm
các quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định của pháp luật.
Như vậy Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã góp phần hồn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam "nó" khơng chỉ là cơng cụ thể chế hố một số chủ
Giáo trình lý luận chung về nhà nước - pháp luật - HVCTQGHCM - NXB LL chính trị Hà Nội, 2004 trang173
2 Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/2/1998
1

6


trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển
đất nước mà cịn đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động của
các ngành luật khác.
1.2.2. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
trong đời sống xã hội:
Với các quan điểm chỉ đạo trong quá trình xây dựng Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã là:
"Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế
tổng thể của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ", coi trọng cả ba mặt nói trên, khơng vì nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ
thấp các mặt khác. Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất
lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội, chính phủ, hội đồng nhân dân và
uỷ ban nhân dân các cấp vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ
sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng
thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Phát huy dân chủ phải gắn liền với
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ
có chất lượng và hiệu quả"1

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ra đời đã có vai trị hết sức quan trọng
trong đời sống xã hội thể hiện trên các lĩnh vực.
* Trong lĩnh vực chính trị:
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị, theo Lênin "áp dụng chế độ dân chủ
Xô Viết, tức là chế độ dân chủ vô sản một cách cụ thể nhất… trước hết các
cử tri đều phải là quần chúng cần lao và bị bóc lột… Hai là: Mọi thủ tục và
những hạn chế có tính quan liêu đều bị xố bỏ, quần chúng tự quy định lấy
thể thức và thời hạn bầu cử, hồn tồn có quyền tự do bãi miễn những người
mà họ bầu ra"2. Nhân dân có nhu cầu ổn định chính trị, an ninh, trật tự ở nơi
mình sinh sống làm điều kiện tiên quyết để an tâm sản xuất, kinh doanh, phát
1

Chỉ thị 30 - CT/TW ngày 10/2/1998 của BCHTW.

2

V.I. Lênin toàn tập, tập 27, NXB Tiến bộ năm 1971, trang 343.

7


triển kinh tế, đời sống mọi mặt. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, khi dân được cung
cấp đầy đủ thông tin, hiểu đúng đắn và đầy đủ chính sách pháp luật của Nhà
nước và các quyền cơ bản của mình, thì khi đó nhân dân giác ngộ và quyền
dân chủ mới được phát huy một cách lành mạnh và đúng hướng.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã cho nhân dân thấy được vai trò làm
chủ thực sự của mình, họ thực sự là chủ thể của quyền lực Nhà nước, là đối
tượng kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước. Được tham gia tổ chức và
tự giác trong bầu cử trực tiếp ra các cơ quan Nhà nước của mình (bầu Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp). Được nâng cao dân trí, hiểu biết cơ bản về

đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà
nước để có hiểu biết, có ý thức pháp luật, hiểu rõ quyền hạn, quyền lợi, trách
nhiệm , nghĩa vụ của công dân… một cách ngày càng rõ ràng đúng đắn. Được
tham gia bảo vệ Đảng, chính quyền bằng việc giám sát, kiểm tra, góp ý xây
dựng, phê bình… đối với Đảng viên, cán bộ Nhà nước và đoàn thể các cấp.
Phát hiện, ngăn chặn các biểu biểu hiện sai trái, tiêu cực. Được tham gia quản
lý Nhà nước trực tiếp ở cấp cơ sở theo phương châm: Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra:
* Trong lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội:
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ra đời phù hợp với ý Đảng, lòng dân,
nâng cao hơn quyền làn chủ trực tiếp của nhân dân, nhân dân được bàn bạc và
quyết định những công việc trong sản xuất, lưu thông phân phối, xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội; nhân dân phấn khởi, tự giác và tích cực xây dựng
nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu.
Thực tế cho thấy trong những năm qua trên phạm vi cả nước nhân dân đã dốc
công, dốc của để xây dựng các cơng trình phúc lợi cơng cộng "Điện, đường,
trường, trạm", tham gia các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, quỹ vì người
nghèo, hiến tặng đất đai, tài sản cho các cơng trình quan trọng của quốc gia.
Được quyền làm chủ trên lĩnh vực kinh tế nhân dân tự giác hơn trong việc
thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước, nhất là nghĩa vụ thuế.
8


Như vậy, nhiều vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội trước đây giải quyết rất
khó khăn, phức tạp, nhưng nhờ Quy chế thực hiện dân chủ mà phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, mọi người được biết, được bàn dân chủ, chính quyền
các cấp nâng cao trách nhiệm và cơng khai hố nên đã giải quyết các vấn đề
kinh tế một cách thuận lợi, không phát sinh khiếu kiện đông người, kéo dài.
Không nảy sinh mâu thuẫn lớn; nhiều cơng trình kinh tế, văn hố, xã hội địi
hỏi sự đóng góp sức dân rất lớn, nhờ vận dụng phương châm "Nhà nước và

nhân dân cùng làm", nên đã đem lại những thành tựu rất lớn cho nền kinh tế,
xã hội của đất nước.

9


Chương 2
THỰC TRẠNG THI HÀNH QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP
XÃ Ở NGHỆ AN HIỆN NAY.
2.1. Thực trạng thi hành quy chế thực hiện dân chủ ở Nghệ An
Bám sát chương trình cơng tác QCDC ở cơ sở năm 2017, Ban Chỉ đạo
QCDC ở cơ sở của tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị triển khai thực hiện Kết luận số
120-KL/TW của Bộ Chính trị (khố XI) về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất
lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở.
Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã xây dựng được 50 điểm sáng về
thực hiện QCDC cơ sở và 49 điểm sáng về cơng tác dân vận chính quyền.
UBND các cấp đã tổ chức có hiệu quả những việc phải cơng khai để dân biết,
dân bàn, quyết định và nhân dân giám sát. Trong đó tập trung cơng khai các
dự án, quy hoạch đất, khu, cụm công nghiệp, dân cư, mức giá bồi thường thu
hồi đất, thủ tục hành chính…
Các xã, phường, thị trấn thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả QCDC ở cơ
sở theo Pháp lệnh 34/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, gắn
thực hiện QCDC ở cơ sở với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nơng thơn mới, đô thị văn minh.
2.1.1. Thực hiện dân biết
Dân biết là nội dung đầu tiên của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã có
thể nói "Dân biết" là điểm khởi đầu của dân chủ, là tiền đề để thực hiện các
nội dung của dân chủ. Nói cách khách nếu dân khơng biết thì khơng thể bàn,
khơng thể tham gia ý kiến và không thể kiểm tra hay giám sát được hoạt động
của chính quyền, đồn thể…. và như vậy khơng có quyền lực của nhân dân

hay khơng có dân chủ. Vấn đề đặt ra là, để người dân thực hiện tốt quyền dân
chủ của mình, đồng thời cũng bảo vệ được lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân thì phạm vi, giới hạn những nội dung
mà chính quyền phải thơng báo để nhân dân biết cũng cần được tính tốn,
10


xem xét để vừa bảo đảm được những bí mật quốc gia, tránh rối loạn thị
trường vừa bảo đảm được quyền dân chủ của nhân dân. Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã (ban hành kèm theo Nghị định 29 năm 1998) và Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo Nghị định 79 năm 2003) đã quy định
cụ thể 14 việcchính quyền xã phải thơng báo kịp thời và công khai để nhân
dân biết.
Qua hơn 6 năm thực hiện nội dung "dân biết" của Quy chế, xin được
đánh giá ở nội dung sau:
* Sự đánh giá của cán bộ lãnh đạo chính quyền, đồn thể và người dân
về những nội dung cần được thông báo để dân biết.
Thứ nhất, tuyệt đại bộ phận cán bộ Đảng, chính quyền, đồn thể xã và
người dân cho rằng: 14 nội dung mà Quy chế dân chủ quy định phải thông
báo cho dân biết là thực sự cần thiết. Hầu hết các nội dung mà Quy chế dân
chủ quy định phải thông báo cho dân biết, được trên 80% số người được hỏi
trả lời là "thực sự cần thiết". Nhiều nội dung, tỷ lệ này đạt đến 100% hoặc gần
100%. Tỷ lệ người dân cho rằng: Thông báo điều chỉnh địa giới hành chính là
"thực sự cần thiết", thấp nhất cũng đạt 68,78%. Người dân có xu hướng quan
tâm những thơng tin liên quan đến lợi ích cụ thể, thiết thân hơn là những thơng
tin có liên quan nhưng ở tầm xa. "Các quy định của Pháp luật liên quan trực tiếp
đến quyền và lợi ích của nhân dân trong xã", "Chủ trương kế hoạch vay vốn phát
triển sản xuất xố đói giảm nghèo", "Dự tốn, quyết tốn thu, chi các quỹ,
chương trình dự án, các khoản huy động của nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng xã (phường)… "Cơng tác văn hố -xã hội, phịng chống tệ nạn xã hội,

giữ gìn an ninh trật tự, an tồn của xã, phường" là những việc được đông đảo
nhân dân quan tâm nhất. Trong khi đó, "Điều chỉnh địa giới hành chính", "Xét
chọn các dự án đầu tư" lại ít được quan tâm hơn.
Thứ hai: Nhu cầu thông tin về 14 nội dung mà Quy chế dân chủ quy
định phải thơng báo đối với người dân nơng thơn có phần cao hơn ở thành thị.
Tuy nhiên vẫn theo quy luật chung: Người dân hướng đến lợi ích "sát sườn".
11


Thứ ba: Tỷ lệ cán bộ đoàn thể đánh giá "Thực sự cần thiết" ln cao
nhất và ở nhóm người dân là thấp nhất.
* Về các hình thức cơng khai thơng tin cho nhân dân biết:
Chính quyền cơ sở, bằng nhiều hình thức đã nỗ lực truyền thơng về 14
nội dung mà Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã quy định. Đa số người dân
được hỏi đều ghi nhận hiện nay chính quyền xã đã và đang tích cực sử dụng
các hình thức thơng tin, tun truyền để công khai cho dân biết về 14 nội
dung mà Quy chế thực hiện dân chủ ở xã quy định đó là: Niêm yết công khai
văn bản tại trụ sở uỷ ban nhân dân xã và các trung tâm dân cư, văn hố xã,
phường; Thơng báo qua hệ thống loa truyền thanh của xã, thơn và các tổ chức
văn hố, thơng tin, tuyên truyền cơ sở; Qua tiếp xúc cử tri của Đại biểu Hội
đồng nhân dân xã, phường; Qua các kỳ họp của chính quyền, đồn thể ở xã,
phường, các cuộc họp của thôn; Gửi văn bản đến hộ gia đình.
Trong số các hình thức truyền thơng nêu trên, hầu hết cán bộ Đảng,
chính quyền, đồn thể và người dân đều đánh giá là phù hợp nhưng phù hợp
nhất là các hình thức thơng báo tại các cuộc tiếp xúc cử tri của Đại biểu Hội
đồng nhân dân xã, phường; Các cuộc họp của chính quyền, đồn thể, thơn vì
tại đây người dân được trực tiếp trao đổi với cán bộ về nội dung thơng báo,
được giải thích những điều chưa hiểu, chưa thơng. Việc thơng báo bằng hình
thức " Niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân và các Trung tâm dân cư, văn hoá,
xã phường", hay "Gửi văn bản tới hộ gia đình hoặc trưởng thơn" cho phép

người dân tiếp cận và nghiên cứu kỹ văn bản bất kỳ lúc nào. Hệ thống loa
truyền thanh có sức mạnh là thông tin nhanh và rộng khắp đến nhiều người,
là những hình thức thường được sử dụng.
Những nội dung ít được người dân biết là chính quyền đã công khai
thơng báo, gồm: Điều chỉnh địa giới hành chính, kết quả thanh tra, kiểm tra,
giải quyết các vụ tiêu cực, tham nhũng của cán bộ xã, thơn; Các chương trình,
dự án do Nhà nước, các tổ chức và các cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã,
phường.
12


Một điều đáng lưu ý là tỷ lệ người dân thành thị khẳng định chính
quyền phường đã thơng báo 14 nội dung theo quy định tại Nghị định 79/CP
lại thấp hơn nhiều so với người dân nông thôn. Điều này do nhiều nguyên
nhân. Chẳng hạn việc "Dồn điền, đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển nông nghiệp, kinh tế trang trại, hợp tác xã" chỉ có ở nông thôn.
Mặt khác, người dân nông thôn cư trú ở địa phương nào thì cũng"Trồng cấy,
chăn ni", ngay trên địa phương đó, tức là những lợi ích, kinh tế - xã hội gắn
liền với nơi cư trú. Trong khi đó, nhiều người dân đơ thị, sống ở phường
nhưng việc làm, thu nhập, các quyền lợi và sinh hoạt chính trị lại ở cơ quan,
xí nghiệp, đơn vị độc lập với phường. Vì vậy, người ta ít quan tâm đến thơng
báo từ phường.
Bên cạnh các hình thức tun truyền nêu trên, nhiều địa phương cũng
đã áp dụng các phương thức phổ biến khá phong phú như: Tổ chức các cuộc
tìm hiểu về nội dung Quy chế, lồng ghép các nội dung của Quy chế với các
hoạt động khác của các tổ chức như: Hội nông dân, phụ nữ; công tác tư pháp,
hoà giải… Đây là cách làm hiệu quả, tiết kiệm thời gian làm cho quan hệ giữa
các tổ chức chính trị, xã hội với nhân dân chặt chẽ hơn.
2.1.2. Thực hiện dân bàn:
Điều 7 Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định 79/

CP) quy định 5 vấn đề nhân dân ở xã, thôn, bàn và quyết định trực tiếp là:
1) Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơng
trình phúc lợi cơng cộng;
2) Xây dựng hương ước làng văn hố, nếp sống văn minh, giữ gìn an
ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;
3) Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành;
4)Thành lập Ban giám sát các cơng trình xây dựng do dân đóng góp;
5) Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh…

13


Để thực hiện tốt việc người dân được bàn và quyết định đặt trực tiếp
những nội dung nêu trên; Điều 7 Quy chế quy định phương thức thực hiện là:
Uỷ ban nhân dân xã xây dựng phương án, chương trình kế hoạch; phối hợp
với uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chỉ đạo, tổ chức nhân dân
thảo luận, quyết định những công việc bằng một trong các hình thức; Họp
tồn thể nhân dân hoặc chủ hộ gia đình hay cử tri đại diện hộ gia đình ở từng
thôn, thảo luận và biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín: Phát phiếu lấy ý
kiến các hộ gia đình.
Nhìn chung, hầu hết các đơn vị cơ sở đã thực hiện nghiêm túc việc tổ
chức cho dân bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề nêu trên bằng cách:
- Họp là hình thức sinh hoạt dân chủ ở xã, phường khá phổ biến để giữa
người dân và cán bộ chính quyền được trao đổi, bàn bạc, thảo luận, tranh luận
để tìm ra quyết định tối ưu, đây là hình thức mà đa số người dân cho là phù
hợp. Có tới 92,4% số người được hỏi cho biết chính quyền cơ sở đã sử dụng
hình thức họp để dân bàn và quyết định trực tiếp.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hình thức họp, bàn và quyết định trực tiếp
đã gặp hàng loạt các trở ngại, khó khăn đó là:

Thứ nhất: Số cuộc họp của người dân trong thơn rất ít. Điều 16 Nghị định
70/CP quy định một năm chỉ họp hai lần, trong khi đó những nội dung cần bàn
lại rất nhiều do vậy, không thể bàn trực tiếp được hết các vấn đề phát sinh.
Thứ hai: Khơng có địa điểm họp phù hợp. Hầu hết các thôn thuộc xã
vùng đồng bằng số hộ dân cư thường rất đông, khoảng xấp xĩ 1000 hộ/thơn;
thơn, tổ dân phố thường khơng có nhà văn hố hay hội trường riêng hoặc có
nhưng chật hẹp, sơ sài nên tổ chức được những cuộc họp là rất khó khăn hoặc
chất lượng khơng cao.
Thứ ba: Người dân bận rộn với công việc làm ăn, ngại đi họp.
Thứ tư: Năng lực cán bộ ở cơ sở còn hạn chế, khơng có khả năng giải
đáp những thắc mắc cho dân cũng là nguyên nhân dẫn đến tủ lệ người dân đi
họp thấp.
14


- Hình thức phát phiếu lấy ý kiến nhân dân:
Đây là hình thức mà đa số người dân cho là phù hợp, hình thức này sẽ
giúp cho việc tham khảo được nhiều ý kiến đóng góp của người dân, đỡ tốn
thời gian và đặc biệt là người dân không ngại bị va chạm, thành kiến nên
thường có những phản ánh đúng với tâm tư, nguyện vọng của mình.
2.1.3. Thực hiện dân giám sát, kiểm tra:
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định 79/CP)
quy định phạm vi giám sát, kiểm tra của nhân dân gồm 11 việc với 5 phương
thức giám sát cụ thể đã cho người dân nhận thức được quyền kiểm tra, giám
sát của mình đối với hoạt động của chính quyền, đồn thể cũng như phẩm
chất tư cách đạo đức của cán bộ, cơng chức. Từ đó nhân dân tin tưởng vào bộ
máy chính quyền và tích cực tham gia xây dựng chính quyền. Kết quả khảo
sát cho thấy việc thực hiện quyền kiểm tra giám sát của nhân dân theo Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã như sau:
- Chính quyền và các đoàn thể đã tạo điều kiện để người dân thực hiện

quyền kiểm tra, giám sát hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội của địa
phương như: Mời đại diện Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của mặt Trận Tổ quốc cùng cấp, các đối tượng liên quan trực tiếp tham
gia các cuộc họp của chính quyền xã bàn bạc về các vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích trực tiếp của nhân dân địa phương; xem xét, giải quyết các
kiến nghị theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, tổ
chức có kiến nghị; Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND xã gửi cho Trưởng thôn
bản kiểm điểm cơng tác và tự phê bình tại cuộc họp tổng kết hằng năm để
Trưởng thôn tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến; lấy phiếu tín nhiệm đối
với các chức vụ chủ chốt do HĐND xã bầu ra; tổ chức các cuộc họp thu thập
ý kiến của nhân dân về các vấn đề do nhân dân tự quyết định. Nhìn chung, đa
số người dân được hỏi cho rằng chính quyền đã tạo điều kiện cho họ giám sát,
kiểm tra đối với hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương

15


Từ khi có Quy chế dân chủ, mọi khoản thu, chi quỹ đóng góp của dân đều
được cơng khai, minh bạch, rõ ràng. Hình thức phổ biến để người dân kiểm tra,
giám sát việc đóng góp và chi tiêu các quỹ của thôn, tổ dân phố là thực hiện định
kỳ niêm yết công khai các khoản thu, chi tại các bảng thông báo của thôn, tổ dân
phố và cộng đồng dân cư.
2.2. Những thành công và hạn chế trong việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cấp xã ở Nghệ An
2.2.1. Thành tựu
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo Pháp lệnh
34 gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, phong trào thi đua "Dân
vận khéo", phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", cuộc
vận động "Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh",
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới,… Cơng tác cải cách

hành chính cấp xã ngày càng được cải thiện hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn;
các vấn đề nảy sinh tại cơ sở được chú trọng giải quyết, cấp ủy, chính quyền
các cấp chủ động và tích cực tiếp xúc, đối thoại với nhân dân khơng để xảy ra
và lan rộng các “điểm nóng” phức tạp, kéo dài. Sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân được phát huy, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng
cao, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân. Nổi bật nhất trong việc phát huy
hơn nữa dân chủ đối với nhân dân chính là phong trào xây dựng nông thôn
mới. Bên cạnh công tác chỉ đạo, điều hành, nhờ phát huy tốt dân chủ, sự
“khéo vận động” nhân dân mà chúng ta đã huy động được sức dân, nhân dân
toàn tỉnh đã hiến hơn 5.217.919 m2 đất, đóng góp hơn 4.241.884 ngày cơng và
hơn 5.000 tỷ đồng để xây dựng và hồn thành các tiêu chí nơng thôn mới như
làm đường giao thông nông thôn; kênh mương thủy lợi nội đồng, xây dựng
cánh đồng mẫu lớn… Trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo các cấp đã về sát với
dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, các kiến nghị đề xuất của nhân dân và
giải quyết kịp thời và thấu đáo; từ đó đã giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn, các vướng mắc, khó khăn của người dân; tranh thủ được sự đồng
16


thuận, quan tâm ủng hộ của nhân dân và góp phần to lớn vào việc từng bước
hoàn thành các mục tiêu đề ra.
2.2.2. Hạn chế
- Những hạn chế của việc thực hiện "dân biết".
Mặc dù đã có sự hỗ trợ của chính quyền, đồn thể trong việc tun
truyền, phổ biến các nội dung của Quy chế để người dân thực hiện quyền
được "biết" của mình song thực tế vẫn cịn có những hạn chế, bất cập như:
Thứ nhất, Hệ thống truyền thơng ở cở cịn nhiều hạn chế như: Vẫn cịn
một tỷ lệ đáng kể cán bộ chính quyền cấp xã cho rằng việc thông báo đến dân
14 nội dung như: Quy chế dân chủ quy định là chưa thực sự cần thiết; đội ngũ
cán bộ cơ sở hạn chế về năng lực truyền thơng, chưa có khả năng lựa chọn,

tóm tắt, cụ thể hố, đơn giản hố các văn bản do cấp trên gửi xuống đã dẫn
đến tình trạng người dân không hào hứng khi đọc, khi nghe các văn bản do
địa phương đưa ra và không nắm vững các nội dung. Các văn bản nhiều, dài
và thường có nội dung phức tạp, dẫn tới tình trạng là cán bộ và người dân
không nắm bắt kịp thời và hiểu đầy đủ, sâu sắc nội dung mà Quy chế dân chủ
quy định phải thơng báo. Ngồi ra một số văn bản quy định khơng sát với
thực tế cũng gây khó khăn cho việc công khai như lĩnh vực chi tiêu tài chính
cấp xã, phường. Phương tiện truyền thơng cũng cịn nhiều hạn chế như tình
trạng loa truyền thanh khơng phải ở địa phương nào cũng có, cũng tốt.
Thứ hai, Trình độ dân trí thấp, khơng đồng đều và thiếu quan tâm của
người dân, có nơi cịn thấp dẫn đến việc tiếp thu và hiểu rõ nội dung của Quy
chế dân chủ là rất khó khăn. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi
người dân có trình độ học vấn thấp nên việc niêm yết thông tin trên các bản
tin, hoặc phát tờ rơi là khơng có hiệu quả: "Người dân có trình độ học vấn
khơng cao nên thường khơng thích đọc tài liệu, tờ rơi gì, thậm chí báo chí có
phát cũng ít đọc, bản tin dán thấy thơng tin trên giấy với những chữ chi chít
thì chẳng ai đọc cả"1.

1

Lãnh đạo ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An

17



×