Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật việt nam từ thời phong kiến đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.96 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
I.

Thời kỳ phong kiến:

II.

Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1954

III.

Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975

IV.

Luật hơn nhân và gia đình giai đoạn từ 1975 đến nay

1
Bài tập lớn HN&GĐ


Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ thời kì phong kiến đến nay, vấn đề
gia đình được các bộ luật nhắc đến, trong đó, một trong những vấn đề lớn là
vấn đề “ly hôn”. Sau đây, em xin đi tìm hiểu về vấn đề “ly hơn” trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.

I.

Thời kỳ phong kiến:

Thời kỳ phong kiến, nền pháp luật đã phát triển hưng thịnh, được biểu hiện


khi nhiều bộ luật mới được ban hành để khẳng định uy quyền và trật tự mới của
mỗi triều đại vua mới lên ngơi: Bộ Hình thư được ban hành dưới triều Lý, Bộ
Quốc triều thống chế được ban hành dưới triều Trần, Bộ Quốc triều Hình Luật
được ban hành dưới triều Lê, Bộ Hoàng Việt Luật lệ được ban hành dưới triều
Nguyễn. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, một số bộ luật đã bị thất lạc, tồn tại được
đến nay, tiêu biểu có Quốc Triều Hình Luật được ban hành dưới triều đại Vua Lê
Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức và Hoàng Việt Luật lệ được ban hành dưới triều
đại Vua Gia Long.
Ở Quốc Triều Hình luật (Luật Hồng Đức), các nhà làm luật quy định các
duyên cớ ly hôn là do lỗi của vợ hoặc chồng, chứ không phải lỗi chung của cả hai
vợ chồng, trong đó, lỗi của người vợ là chủ yếu. Các trường hợp ly hơn được chia
làm 3 nhóm:
- Pháp luật buộc vợ chồng phải ly hơn: Đó là hơn nhân vi phạm các quy định
cấm kết hôn được coi là hôn nhân trái pháp luật và các nhà làm luật buộc họ phải
ly hơn, đó là những quy định tại điều 317, 318, 319, 320, 323, 324, 334 – Luật
Hồng Đức, đó là: kết hơn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng; kết hôn khi
ông bà, cha mẹ đang bị giam cầm, tù tội; lấy người trong họ; ép gạ người vợ góa
kết hơn với người khác; lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ; lấy vợ góa của anh,
em, thầy học; con của quan ty kết hôn với con của tù trưởng địa phương nơi biên
giới.
Như vậy, các nhà làm luật đã đưa ra được một số quy định cấm kết hôn, mà
những quy định này trái với đạo đức xã hội,…Nhưng tuy vậy, vẫn còn tồn tại
nhược điểm khá lớn, đó là các nhà làm luật đã đồng nhất ly hơn với hủy hơn trái
pháp luật, có nghĩa là, mặc dù, những người kết hôn và buộc phải ly hơn do phạm
vào các điều kiện kết hơn thì giá trị pháp lý vẫn tồn tại đến khi có án xử ly hơn thì
thơi. Ngồi ra, hậu quả pháp lý của việc ly hôn không được quy định rõ trong luật,
như vậy, nhà làm luật đã bỏ ngỏ, để vấn đề này được giải quyết theo phong tục tập
quán (chia tài sản ly hơn, chăm sóc, ni dưỡng con chung,…)
2
Bài tập lớn HN&GĐ



- Ly hôn do lỗi của vợ: Điều 388 Luật Hồng Đức quy định rõ: “vợ cả, vợ lẽ
phạm phải điều nghĩa tuyệt (như thất xuất) mà người chồng chịu giấu khơng bỏ thì
xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ”. Như vậy, có nghĩa là: khi người vợ phạm vào
một trong bảy điều thất xuất thì người chồng bắt buộc phải bỏ vợ. Nếu khơng bỏ
vợ thì pháp luật cũng buộc họ phải bỏ và đồng thời người chồng cịn bị xử biếm.
Đó là các tội: Vơ tử, ghen tng, ác tật, dâm đãng, khơng kính cha mẹ, lắm lời,
trộm cắp.
Tóm lại, người chồng khơng có quyền lựa chọn một cách xử sự nào khác
ngoài việc bắt buộc phải bỏ vợ, mặc dù, có thể người chồng khơng mong muốn.
Như vậy, sự bất bình đẳng đã được thể hiện giữa vợ và chồng, bởi nó chỉ thừa nhận
quyền bỏ vợ đơn phương từ phía người chồng.
- Ly hơn do lỗi của chồng: Đó là các quy định tại điều 308 Luật Hồng Đức:
“phàm chồng bỏ lửng vợ 5 tháng khơng đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã
quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn 1 năm. Vì việc quan
phải đi xa thì khơng theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn cản người khác lấy vợ cũ
thì phải tội biếm”.
Còn ở Quốc Việt Luật lệ, hầu hết những quy định về vấn đề ly hôn gần giống
với các quy định tại Luật Hồng Đức được nêu trên, những có một số điểm khác, đó
là: tại quyển 7, điều 15: đã quy định rõ về xuất thế: nếu phạm vào 7 điều nghĩa
tuyệt thì phải bỏ, khơng bỏ sẽ bị phạt. Nếu vợ khơng có trạng thái nghĩa tuyệt mà
bỏ sẽ bị phạt, ngoài ra, dù vợ phạm vào 7 điều nghĩa tuyệt nhưng có 3 điều khơng
thể bỏ: “để tang 3 năm, trước nghèo sau giàu, có người cưới cũng khơng ưng”.
Nhưng nếu bỏ, thì vợ được giảm 2 bậc tội, cho về đồn tụ. Bên cạnh đó, nếu vợ
chồng lấy nhau mà chung sống không ăn ý, vui vẻ, mà cả hai đều muốn ly dị thì
cho ly dị và xét cả hai khơng có tội.
Như vậy, Hồng Việt Luật lệ đã có đơi chút tiến bộ so với Luật Hồng Đức về
vấn đề ly hôn của vợ chồng: bảo vệ một chút quyền lợi của phụ nữ và đã ưng thuận
vấn đề ly dị của cả hai bên và không xét tội (nếu hai bên thể hiện ý chị tự nguyện,

cùng mong muốn được ly dị vì cuộc sống chung sau hơn nhân khơng tốt đẹp) mà
khơng cần chờ một sự kiện nào đó xảy ra.
Đến thời kì Pháp thuộc, nước ta chia thành ba miền, mỗi miền có một bộ luật
riêng để áp dụng: Đầu tiên là bộ dân luật Giản yếu (năm 1883) được áp dụng ở
miền Nam (DLGY), bộ dân luật Bắc kỳ (năm 1931) được người Pháp khởi xướng
soạn thảo và áp dụng ở miền Bắc gọi là dân luật Bắc Kỳ (DLBK), bộ dân luật được
ban hành năm 1936 là Hoàng việt Trung kì hộ luật (HLTK) được áp dụng tại miền
Trung. Có thể thấy rằng, vào thời kì này thì quan hệ hơn nhân và gia đình được
quy định trong các bản dân luật nêu trên ở mỗi miền trên đất nước ta.
Pháp luật thời kì Pháp thuộc cũng quy định riêng căn cứ ly hôn áp dụng cho
trường hợp vợ yêu cầu, căn cứ ly hôn áp dụng riêng cho trường hợp chồng yêu cầu
3
Bài tập lớn HN&GĐ


và căn cứ ly hôn áp dụng riêng cho trường hợp cả vợ và chồng yêu cầu. Đây là
những quy định tại Điều 118, 119, 120 – Bộ Dân luật Bắc Kỳ (DLBK); Điều 117,
118, 119 – Bộ Hoàng triều Trung Kỳ Hộ luật (HLTK).
- Trường hợp chồng yêu cầu ly hôn: Điều 117, bộ dân luật Trung kỳ và Điều
118, Bộ dân luật Bắc kỳ quy định chồng có thể xin ly hơn vợ vì các dun cớ: Vợ
phạm gian; vợ bỏ nhà chồng ra đi, tuy đã buộc phải về nhưng không chịu về; vợ
thứ đánh chửi, bạo hành vợ chính.
Cịn ở DLGY được áp dụng tại Nam Kỳ, dù vẫn giữ lại “tam bất khứ” của
Luật Gia Long nhưng lại trừ trường hợp “vợ ngoại tình, bị phạt về trọng tội hay tự
ý bỏ nhà chồng”.
- Trường hợp vợ yêu cầu ly hôn: Điều 118, Bộ dân luật Trung kỳ và Điều 119,
bộ dân luật Bắc kỳ quy định vợ có thể xin ly hơn chồng vì những duyên cớ như:
chồng bỏ nhà đi quá 2 năm khơng có lý do chính đáng và khơng lo liệu việc nuôi
nấng vợ con; chồng đuổi vợ ra khỏi nhà mà khơng có lý do chính đáng; làm trái
trật tự trong thê đẳng; chồng không làm nghĩa vụ đã cam đoan khi kết hôn, là phải

tùy theo kế sinh nhai mà nuôi nấng vợ con.
- Trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn: Điều 119 HLTK và Điều 120
DLBK quy định: vợ và chồng có thể cùng xin ly hơn nếu vì một bên can án trọng
tội, vì một bên vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia khơng thể ở chung được.
Ngồi ra, luật cịn quy định điều kiện để hai vợ chồng có thể xin thuận tình ly hơn
là đã chung sống với nhau 2 năm (Điều 121 DLBK và Điều 120 HLTK). Còn tại
DLGY ở Nam Kỳ lại quy định chặt chẽ hơn điều kiện để vợ chồng thuận tình xin
ly hơn, sẽ khơng được chấp thuận, nếu: chưa chung sống đủ 2 năm hoặc đã quá 20
năm; người chồng dưới 25 tuổi hay người vợ dưới 21 tuổi hoặc đã q 45 tuổi;
khơng có sự thuận tình của bố mẹ.
- Bên cạnh đó, tại điều 116 DLBK, Điều 115 HLTK đã quy định rõ việc tự
rẫy vợ bị cấm, việc xin ly hôn phải được Tòa án xét xử. Nhưng tại DLGY, đối với
việc rẫy vợ lại không được quy định rõ ràng: “Tất cả các cuộc hôn nhân chỉ chấm
dứt do vợ hoặc chồng chết hoặc do được ly hôn” (Thiên thứ IV – Giản yếu năm
1883). Nhưng đến cuối Thiên thứ V, khi nói về hiệu lực của giá thú, lại có quy
đinh: “Người chồng chỉ có thể rẫy vợ trong các trường hợp được Luật dự liệu”.
 Ưu điểm: do công việc soạn thảo luật, đặc biệt là quyển thứ nhất của Bộ
DLBK về chế định hơn nhân và gia đình, được tiến hành khá cơng phu, có tìm hiểu
thực tế qua trả lời về các câu hỏi, có tham khảo các quy định của Luật Hồng Đức,
Luật Gia Long, nên ta thấy ở những quy định nêu trên sự tiếp thu ở mức độ nhất
định những điểm tiến bộ của cổ luật Việt Nam và phong hóa Việt Nam. Bên cạnh
đó, phần nào, câu chữ đã được sử dụng phù hợp hơn, có phần tây hóa hơn trong
những bộ luật thời kỳ này.
4
Bài tập lớn HN&GĐ


 Nhược điểm: Những điều được quy định trong các bộ luật Bắc Kỳ, Trung
Kỳ, Nam Kỳ, còn rất nhiều vấn đề gây tranh luận, đã bị phê phán, có thể là do hạn
chế về nhãn quan chính trị - pháp lý của nhà lập pháp đối với vấn đề cơ bản nhất là

quyền bình đẳng của phụ nữ, phần nữa, có thể do hạn chế của chế độ chính trị. Bên
cạnh đó, dưới chế độ thuộc địa với nền kinh tế nông nghiệp cá thể lạc hậu và đại đa
số người dân cịn mù chữ, trong đó số đơng lại là phụ nữ, những quy định có tính
tiến bộ cũng chỉ phát huy được hiệu lực ở một số người thuộc tầng lớp trí thức,
cơng thường,…
Nhưng quả thật, chúng ta khơng thể địi hỏi hơn được ở những bộ luật vào
giai đoạn lịch sử nước ta thời bấy giờ, cần phải có một cuộc cách mạng về chính
trị, tư tưởng, văn hóa,… nhằm hồn thiện những quy định bất cập còn tồn tại.

II. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm
1954
Đây là giai đoạn quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại (chỉ hạn chế bóc
lột phần nào) – là cơ sở của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến. Mặt khác,
việc xóa bỏ chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu khơng phải dễ dàng,
nhanh chóng, ngày một, ngày hai; hoặc cũng không thể chỉ thực hiện các văn bản
pháp luật bằng mệnh lệnh, cưỡng bức. Việc xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc
hậu của chế độ cũ, đã tồn tại lâu đời trong tiềm thức của nhân dân ta, thật sự là
cơng việc khó khăn, địi hỏi cần có một q trình kiền trì bền bỉ.
Sau khi Bản Hiếp pháp đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1946 ghi nhân
quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt (Điều 9) – cơ sở pháp lý để đấu tranh
xóa bỏ những hủ tục của chế độ hơn nhân và gia đình cũ, xây dựng chế độ hơn
nhân và gia đình mới dân chủ và tiến bộ; cùng với sự phát triển nhanh chóng của
xã hội và sự thay đổi nhận thức của toàn dân thì năm 1950, Nhà nước ta đã ban
hành hai sắc lệnh quy định về hơn nhân và gia đình: sắc lệnh số 97/SL ngày
22/5/1950 và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950.
Vấn đề ly hôn được Nhà nước ta quy định rõ tại Sắc lệnh số 159 – SL ngày
17/11/1950. Sắc lệnh gồm 9 điều chia thành 3 mục: Duyên cớ ly hôn, thủ tục ly
hôn và hiệu lực của việc ly hôn. Cụ thể, tại mục đầu tiên về “Duyên cớ ly hơn” quy
định cụ thể:
- Tồ án có thể cho phép vợ hoặc chồng ly hôn trong những trường hợp sau

(Điều 2): Ngoại tình; một bên can án phát giam; một bên mắc bệnh điên hoặc một
bệnh khó chữa khỏi; một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có dun cớ chính
5
Bài tập lớn HN&GĐ


đáng; vợ chồng tính tình khơng được hoặc đối xử với nhau đến nổi không thể sống
chung được.
Sắc lệnh này thật sự đã thực hiện nguyên tắc tự do hôn nhân: công nhân
quyền tự do kết hôn và tự do ly hơn. Ở đây, nhà làm luận khơng cịn phân biệt
duyên cớ ly hôn cho riêng vợ hay riêng chồng mà gộp vào làm một với cách dung
từ “một bên”, thể hiện rõ sự bình đẳng giữa đơi bên vợ và chồng, xóa bỏ sự bất
bình đẳng trong các Bộ dân luật cũ.
- Vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn. (Điều 3).
Đây cũng là một điểm tiến bộ trong sắc lện số 159-SL ngày 17/11/1950, như
vậy, nhà làm luật đã cho phép vợ chồng có thể xin ly hơn theo như đúng ý chí của
họ mong muốn, mà không phải chịu một sự ràng buộc nào về điều kiện cho đôi bên
được ly hôn, duy nhất là đôi bên, với ý chí tự nguyện, xin thuận tình ly hơn. Theo
đó, với vấn đề thuần tình ly hơn này, các nhà làm luật đã đơn giản hóa thủ tục ly
hơn, cụ thể: Khi xét xử ly hơn, tịa án áp dụng các thủ tục thông thường như xử các
việc hộ khác; trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hơn, tịa án tiền hành hịa
giải khơng thành và nếu sau đó một tháng, vợ chồng vẫn giữ nguyên ý định xin ly
hơn, thì tịa án sẽ chính thức cơng nhân việc thuận tình ly hơn (Điều 4).
Ngồi ra, sắc lệnh nay còn bảo vệ phụ nữ và thai nhi trong việc ly hơn, cụ thể:
nếu người vợ đang có thai thì vợ hay chồng có thể xin tịa án hỗn sau khi sinh nở
mới xử lý việc ly hơn (Điều 5).
Tại Điều 6, quy định rõ: tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành
niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng đã ly
hôn phải cùng chịu phí tổn về việc ni dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của
mình. Như vậy, với quy định này, nhà làm luật đã nhằm mục đích vỏa vệ quyền lợi

của con chưa thành niên sau khi bố mẹ chúng ly hôn. Điều này đã trái ngược hẳn
với những tập quán và pháp luật cũ của ta, rằng: vợ chồng ly hôn, con cái luôn
thuộc về người cha, người phụ nữ khơng được mang theo con mình. Điều này trực
tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của người phụ nữ và gián tiếp ảnh hưởng đến quyền
lợi của con chưa thành niên.
 Ưu điểm: Với sắc lệnh này, việc xét xử ly hơn được áp dụng thống nhất
trong tồn quốc, xóa bỏ việc giải quyết ly hôn với quy định riêng của từng miền do
giai đoạn lịch sử cũ đưa đến. Ngoài ra, việc bao vệ phụ nữ và thai nhi trong việc ly
hơn là khi người vợ có thai mà nếu có việc ly hơn, đây là điểm mới mà các bộ luật
cũ không hề đề cập đến. Đặc biệt, trong sắc lệnh này, quyền bình đẳng cho người
phụ nữ được tự do ly hôn được nhấn mạnh và thật sự là một bước ngoặt lớn trong
chế độ hôn nhân và gia đình thời bất giờ.
 Nhược điểm: căn cứ ly hôn giữa vợ và chồng vẫn dựa trên cơ sở lỗi, ngoài
ra, việc sử dụng phương pháp liệt kê các nguyên cớ để ly hôn sẽ khiến cho lý do để
6
Bài tập lớn HN&GĐ


tịa án cho phép vợ chồng được ly hơn bị hạn hẹt, dần dần sẽ bị lỗi thời so với sự
phát triển của xã hội mới, với nhiều phát sinh mới, hay dễ dẫn đến việc đánh giá
chưa đúng mức độ của tình trạng hơn nhân, nên có thể có những phán quyết chưa
chính xác đối với quan hệ hơn nhân và gia đình nói trên.

III. Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn từ năm
1954 đến năm 1975:
Năm 1954, cuộc cách mạng chống thực dân Pháp thắng lợi, tuy nhiên, đất
nước ta tạm bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt do Mỹ nhảy
vào, áp đặt chính sách thực dân kiểu mới ở miền Nam nước ta và thực hiện âm
mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Bời đặc điểm chính trị - xã hội này nên ở thời kỳ
này nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: Cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
với mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng xã hội mới miền
Bắc, tiến lên thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà.
- Văn bản pháp luật ban hành ở miền Bắc:
Quốc hội khóa I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thơng qua Luật hơn nhân
và gia đình năm 1959 ngày 29/12/1959 và có hiệu lực thi hành từ ngày 13/01/1960
– một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất và đã đánh dấu một bước phát
triển tiến bộ vượt bậc trong công tác lập pháp của nước ta. Bộ luật gồm 6 chương
và 35 điều, vấn đề ly hôn được đề cập tại chương V với 9 điều.
Luật HN&GĐ năm 1959 và Sắc lệnh 159-SL ngày 17/11/1950 về vấn đề ly
hơn có nhiều điểm chung nhưng có nhiều điểm tiến bộ vì Luật HN và GĐ năm
1959 đã được kế thức và cụ thể hóa dựa trên sắc lệnh nêu trên:
+ Tịa án chấp thuận việc thuận tình ly hơn của vợ và chồng sau khi điều tra,
xét đúng là hai bên tự ngun xin ly hơn.
Cùng dựa trên tình thần như đối với Sắc lệnh số 159-SL thì nhà làm luật cho
phép vợ chồng được thuận tình ly hơn khi cả hai vợ chồng đều mong muốn được ly
hôn. Nhưng đối với quy định tại Điều 25 LHN&GĐ năm 1959 thì vấn đề tự
ngun của đơi bên đã được chú trọng khi mà nhà làm luật đã đưa ra quy định “sau
khi điều tra, xét đúng là hai bên tự nguyện xin ly hơn”.
+ Trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hơn sau khi vợ đã sinh đẻ
được một năm.
7
Bài tập lớn HN&GĐ


Như vậy, cũng giống như Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 thì quy định
này nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và thai nhi, nhưng ở đây, Luật
HN&GĐ năm 1950 đã cụ thể hóa thời gian để người chồng có thể xin ly hơn sau
khi người vợ sinh là 1 năm, khơng nêu chung chung là “có thể xin hỗn đến sau kì
sinh nở mới xử lý việc ly hôn” như đối với Sắc lệnh số 159.

+ Vợ chồng đã ly hơn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con chung;
vợ chồng đã ly hôn phải chịu phí tổn về việc ni nấng và giáo dục con, mỗi người
tùy theo khả năng của mình (Điều 31, Điều 32 – LHN&GĐ năm 1959).
Đối với việc nuôi con chung, Sắc lệnh số 159-SL mới chỉ nhắc đến và bảo vệ
quyền lợi cho con chưa thành niên, còn đối với Luật HN&GĐ năm 1959 đã đưa ra
thuật ngữ “con chung” để bao quát được vấn đề quyền và nghĩa vụ đối với con cái
của vợ chồng khi họ ly hơn.
Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ năm 1959 có một số điểm mới: Điều 30: về vấn đề
yêu cầu cấp dưỡng của một bên vợ hoặc chồng; Điều 28: khi ly hơn, cấm địi trả
của;…
Ở đây, Luật HN&GĐ đã có một bước tiến lớn, thể hiện sự tiến bộ vượt bậc
của Luật HN&GĐ năm 1959 so với các bộ Luật cũ và các Sắc lệnh được đưa ra
trước đây: Căn cứ ly hơn khơng cịn dựa trên cơ sở lỗi của vợ hoặc chồng hay của
cả hai vợ chồng nữa mà nó được dựa trên cơ sở: tình trạng trầm trọng; đời sống
chung khơng thể kéo dài; mục đích của hơn nhân khơng đạt được.
Nếu như ba cơ sở đó được đáp ứng thì tịa án sẽ giải quyết cho ly hơn. Với
việc đáp ứng đủ ba cơ sở đó thì ngun cớ để tịa án có thể dựa vào để giải quyết ly
hôn đã được bao quát rộng hơn, khơng cịn hạn hép, bó buộc như đối với việc liệt
kê của quy định tại Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1959.
Tóm lại, Luật HN&GĐ năm 1959 được Nhà nước ta ban hành đã khẳng định
bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp lý của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động; là cơ sở mới để
từng bước xây dựng ngành Luật HN&GĐ trong hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
- Văn bản pháp luật ban hành ở miền Nam:
Nhà nước tay sai phản động của chính quyền Ngụy Sài Gòn ban hành hệ
thống văn bản pháp luật với những nội dung lạc hậu, bao gồm: Luật gia đình ngày
2/1/1959 (Luật số 1 – 59) dưới chế độ Ngơ Đình Diệm; sắc lệnh số 15/64 ngày
23/7/1964 về giá thú, tử hệ, và tài sản cộng đồng; bộ dân luật ngày 20/12/1972
dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.


8
Bài tập lớn HN&GĐ


Quy định giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng; đặc biệt, Bộ luật
gia đình dưới chế độ Ngơ Đình Diệm đã cấm vợ chồng khơng được ly hôn (Điều
55).
Như vậy, các văn bản pháp luật này chính là cơng cụ của Nhà nước phản
động, đi ngược với lợi ích của nhân dân lao động.

IV. Luật hơn nhân và gia đình giai đoạn từ 1975 đến nay:
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày
30/4/1975, cả nước thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới,
giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất…tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến
nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với việc chính thức thơng qua bản Hiếp pháp năm 1980 của Quốc hội
khóa VI, kỳ họp thứ 7, ngày 18/12/1980 thì sau đó, Luật HN&GĐ năm 1986 đã
được Quốc hội khóa VII kì họp thứ 12 thơng qua ngày 29/12/1986 và được công
bố ngày 3/1/1987 gốm 10 chương và 57 điều. Tuy rằng Luật HN&GĐ năm 1959
đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xóa bỏ những tàn tích lạc hậu của
chế độ HN&GĐ phong kiến, thực hiện chế độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, song tình hình nước ta đã thay đổi về căn bản so với những năm
1959, việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959, một số điều đã khơng cịn phù hợp,
vậy nên, việc ban hành Luật HN&GĐ năm 1986 là một tất yếu khách quan để thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
Vấn đề ly hôn được nhà làm luật quy định tại 6 điều ở chương VII – Luật
HN&GĐ năm 1986. So với Luật HN&GĐ năm 1959 thì Luật HN&GĐ năm 1986
có những điểm giống nhau, song có những điểm mới, cụ thể hơn, tiến bộ hơn.
- Vấn đề thuận tình ly hơn của cả hai bên vợ chồng được tòa án điều tra, hòa

giải và giải quyết sau khi có đơn xin ly hơn của vợ hoặc chồng. Khi xét nếu đúng
là hai bên thuận tình ly hơn thì sau khi hịa giải khơng thành, tịa án sẽ giải quyết ly
hôn cho họ; nếu trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hơn thì sau khi hịa giải
khơng thành, tịa sẽ đưa ra xét xử và dựa trên căn cứ ly hôn để xét việc có cho họ
ly hơn hay khơng (Điều 40).
Như vậy, nhà làm luật đã xét trường hợp: vợ chồng cùng thuận tình ly hơn và
trường hợp: một bên thuận tình ly hơn. Khi đó, tùy vào từng trường hợp để lựa
chọn cách giải quyết sao cho phù hợp; đồng thời, vấn đề căn cứ ly hôn dù vậy vẫn
không dựa trên cơ sở lỗi mà dựa trên ba căn cứ rất tổng qt: tình trạng trầm trọng,
đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được, thì tịa
9
Bài tập lớn HN&GĐ


dựa vào đó, quyết định cho vợ chồng có được ly hơn hay khơng. Ngồi ra, việc ly
hơn của vợ chồng sẽ được tịa giải quyết khi có đơn xin ly hôn được gửi đến của vợ
hoặc chồng, tức là, nhà làm luật đã nêu ra thủ tục ban đầu của việc xin ly hơn, đồng
thời lấy đó là căn cứ mà vợ chồng yêu cầu tòa giải quyết vấn đề ly hôn cho họ.
- Vấn đề bảo vệ phụ nữ và thai nhi (Điều 41), việc một bên yêu cầu cấp dưỡng
sau khi ly hôn (Điều 43) và vợ chồng vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con
chung (Điều 44) vẫn được giữ nguyên nội dung trong Luật HN&GĐ năm 1986.
- Điểm mới trong Luật HN&GĐ năm 1986 đó là: giải quyết vấn đề tài sản sau
khi ly hôn giữa vợ chồng (Điều 42). Tại đây, nhà làm luật đưa ra những nguyên tắc
để giải quyết vấn đề chia tài sản khi ly hôn trong bốn mục a, b, c, d tại Điều 42
Luật HN&GĐ năm 1986.
Được ban hành trong những năm đầu thới kỳ đổi mới, Luật HN&GĐ năm
1986 thật sự đã đạt được những thành tựu to lớn; nhưng bên cạnh đó, thực tế áp
dụng cho thấy những quy định nêu trên còn mang tính khái quát, định khung, chưa
cụ thể, việc áp dụng giải quyết các tranh chấp từ quan hệ hôn nhân và gia đình
gặp nhiều vướng mắc. Tình hình đó địi hỏi Nhà nước ta cần phải sửa đổi, bổ sung

Luật HN&GĐ năm 1986 một cách toàn diện nhằm phù hợp với giai đoạn nước ta
hiện này: Đang trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với các điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội khơng ngừng phát triển đã tác động mạnh đến quan hệ
hôn nhân và gia đình ngày nay.
Đáp ứng sự mong mỏi của tình hình đất nước, Luật HN&GĐ năm 2000 đã
được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 7 chính thức thơng qua ngày 22/6/2000, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Luật HN&GĐ năm 2000 tiếp tục kế thừa và phát
triển hệ thống phát luật hơn nhân và gia đình Việt Nam; Luật gồm 13 chương, 110
điều. Vấn đề ly hôn được đề cập tại chương X với 15 điều.
Tại đây, nhà làm luật đã quy định rõ về những vấn đề được xem là chung
chung trong những bộ luật trước, kể cả bộ luật được coi là đạt được nhiều thành
tựu trước đó là Luật HN&GĐ năm 1986, đó là: quyền u cầu tịa được giải quyết
ly hơn (Điều 85); nhà làm luật khuyến khích việc hịa giải ở cơ sở (Điều 86); Thụ
lý đơn yêu cầu ly hôn (Điều 87); Hòa giải tại tòa án (Điều 88); Căn cứ cho ly hơn
(Điều 89); Thuận tình ly hơn (Điều 90); Ly hôn theo yêu cầu của một bên (Điều
91); việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, ni dưỡng con khi ly hơn, …(Điều 92,
93, 94). Bên cạnh đó là sự cụ thể hóa của việc giải quyết vấn đề tài sản khi ly hôn
(Điều 95, 96, 97, 98, 99) – là một trong những vấn đề được quan tâm, còn nhiều
thiếu sót trong việc giải quyết vấn đề ly hơn hiện nay.
- Tại Điều 85, nhà làm luật đã cụ thể hóa, nêu ra hai vấn đề, là: chỉ có vợ hoặc
chồng hoặc cả vợ và chồng mới có quyền yêu cầu tịa giải quyết việc ly hơn cho họ
và hạn chế quyền ly hôn của người chồng khi mà người vợ có thai hoặc đang ni
10
Bài tập lớn HN&GĐ


con dưới 12 tháng tuổi, nhằm bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ có thai và thai nhi – một
vấn đề được quan tâm lớn.
So với Điều 41 Luật HN&GĐ năm 1986 thì khoản 2 Điều 85 Luật HN&GĐ
năm 2000 quy định rõ rang hơn, quy định này đã hạn chế những cách hiểu khác

nhau khi vận dụng.
- Tại Điều 86 và Điều 88, nhà làm luật nêu ra vấn đề hòa giải ở cơ sở và hòa
giải tại tòa án, điều này cho thấy, chủ trương khuyến khích của Nhà nước thơng
qua các quy định về hịa giải, đây chính là sự pháp điển hóa những tập qn tiến
bộ, qua đó, phục vụ được lợi ích xã hội, ngồi ra, cùng với phương châm “còn
nước, còn tát”, nhà làm luật đã đưa ra vấn đề hòa giải ở cả địa phương và tịa án.
- Căn cứ ly hơn được quy định rõ tại Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000, theo
đó thì căn cứ của việc ly hơn vẫn dựa trên ba cơ sở: tình trạng trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được; bên cạnh đó, tại
khoản 2 điều này, nhà làm luật đã dự liệu trường hợp vợ hoặc chồng của người bị
Tịa án tun bố mất tích thì tịa án giải quyết cho họ được ly hôn (nếu họ có mong
muốn).
Nhà làm luật dựa vào bản chất của hơn nhân tan vỡ, hồn tồn khơng dựa vào
lỗi của vợ, chồng. Đây là căn cứ đã được áp dụng ở nước ta từ khi nước ta ban
hành Luật HN&GĐ năm 1959 và thật sự đã đáp ứng được cả cơ sở lý luận và thực
tiễn áp dụng.
Điều 42 Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định các nguyên tắc chia tài sản của
vợ chồng khi ly hơn, tuy nhiên, do tính chất phức tạp của loại việc và quan hệ xã
hội vốn có nhiều biến động , nên việc áp dụng quy định có tính ngun tắc chung
này bộc lộ nhiều khó khăn và vướng mặc. Do đó, để khắc phục những hạn chế này,
cũng như nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích của các bên khi ly hơn, Luật
HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu cụ thể hơn về các nguyên tắc chung khi xác định và
chia tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng; đặc biệt, đối với những tài sản là
nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng (Điều 95, 96, 97, 98, 99 Luật HN&GĐ
năm 2000). – lần đầu tiên được đưa vào Luật HN&GĐ một cách cụ thể, rõ ràng.
Tóm lại, theo từng thời gian, để phù hợp với sự nghiệp cách mạng của đất
nước, phù hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và thực tế
các quan hệ hơn nhân và gia đình. Hệ thống pháp luật hơn nhân và gia đình dần
được hồn thiện, là công cụ pháp lý của Nhà nước ta, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân lao động.


11
Bài tập lớn HN&GĐ



×