Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phân tích vai trò của thương mại quốc tế đối với các nước đang phát triển? Liên hệ thực tiễn vai trò của thương mại quốc tế ở Việt nam? Vấn đề đặt ra trong hoạch định chính sách phát triển thương mại nhằm phát huy những vai trò này ở Việt Nam hiện nay?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.24 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Câu hỏi: Phân tích vai trị của thương mại quốc tế đối với
các nước đang phát triển? Liên hệ thực tiễn vai trò của
thương mại quốc tế ở Việt nam? Vấn đề đặt ra trong hoạch
định chính sách phát triển thương mại nhằm phát huy những
vai trò này ở Việt Nam hiện nay?

NHÓM 2


DANH SÁCH PHÂN CÔNG VÀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ THẢO LUẬN
Họ và tên

Phân công nhiệm vụ thảo luận

1. Trần Anh
Đức (nhóm
Tổng hợp và thuyết trình bài thảo luận nhóm
trưởng)
2. Lê Tuấn
Chương I. Cơ sở lý thuyết về vai trò của thương
Anh
mại quốc tế đối với các nước đang phát triển
3. Nguyễn Văn Chương II. Cơ sở lý thuyết về vai trò của thương


Bắc
mại quốc tế đối với các nước đang phát triển
4. Chẩu Thu Chương II. Liên hệ thực tiễn vai trò của thương mại
Diệu
quốc tế ở Việt Nam
5. Nguyễn Văn Chương II. Liên hệ thực tiễn vai trò của thương mại
Dũng
quốc tế ở việt nam
Chương II. Liên hệ thực tiễn vai trò của thương mại
6. Lê Anh Duy
quốc tế ở Việt Nam
7. Nguyễn
Chương II. Liên hệ thực tiễn vai trò của thương mại
Trường Giang
quốc tế ở Việt Nam
Chương III. Vấn đề đặt ra trong hoạch định chính
8. Phạm Thu
sách phát triển thương mại nhằm phát huy những

vai trò thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Chương III. Vấn đề đặt ra trong hoạch định chính
9. Trần Thị
sách phát triển thương mại nhằm phát huy những
Minh Hạnh
vai trò thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VAI TRÒ CỦA
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm chính sách thương mại quốc tế


Đánh
giá


Là các quan điểm, nguyên tắc, biện pháp thích hợp của một nước dùng để
điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của nước đó trong một thời gian nhất
định, nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội của nước đó.
2. Vai trị của chính sách thương mại quốc tế
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập và
mở rộng thị trường ra nước ngoài, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh
tế trong nước.
Bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước
đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh
Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận trong chính sách đối ngoại
của một quốc gia.
3. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
- Thuế quan;
- Hạn ngạch thương mại;
- Giấy phép;
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện;
- Các hàng rào kỹ thuật;
- Trợ cấp xuất khẩu;
- Tín dụng xuất khẩu;
- Chống bán phá giá;
- Phá giá tiền tệ;
- Các biện pháp khác (thuế nội địa, độc quyền mua bán, thưởng XK,…)
4. Khái niệm nước đang phát triển
Nước đang phát triển là một quốc gia có bình qn mức sống cịn khiêm
tốn, có nền tảng cơng nghiệp chưa được phát triển hồn tồn và có chỉ số phát

triển con người (HDI) cũng như thu nhập bình quân đầu người không cao. Ở các
quốc gia này, ngoại trừ nhóm thiểu số (các nước cơng nghiệp mới) đạt đến được
mức khá hoặc cao, phần lớn cịn lại có thu nhập bình quân đầu người và chỉ số
phát triển con người chỉ ở mức trung bình.
5. Vai trị của thương mại quốc tế đối với các nước đang phát triển
5.1. Thúc đẩy phân công lao động và phân bố nguồn lực hiệu quả hơn
Phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn sẽ giúp nâng cao hiệu quả
tăng trưởng thay vì cách làm lâu nay là cứ mở rộng thêm quy mô vốn. Muốn vậy
phải cải cách kinh tế theo hướng thị trường, thu hẹp lĩnh vực kinh doanh nhà
nước theo hướng nhỏ hơn song thông minh và hiệu quả hơn.


5.2. Mở rộng thị trường, hạn chế rủi ro cho nền kinh tế, các chủ thể
tham gia
Hầu hết các nền kinh tế của các nước đang phát triển đều tiến tới mơ hình
kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế dựa vào xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp chế biến. Đây là một mơ hình kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích
cực. Nhưng nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế địi hỏi chính phủ các
nước phải có quan niệm đúng và xử lý khéo quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ ở
mức cần thiết; đồng thời phải nắm bắt được các thông lệ và thể chế kinh tế bên
trong, giải quyết đúng đắn việc kết hợp các nguồn lực bên ngoài thành nội lực
bên trong để phát triển. Nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế muốn phát
triển ổn định, đòi hỏi cơ cấu kinh tế bên trong phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu
đa dạng, thể chế kinh tế linh hoạt và có năng lực thích ứng để đương đầu với
những thay đổi của các điều kiện phát triển toàn cầu. Điều đó buộc các nước
đang phát triển phải tìm ra con đường cơng nghiệp hố rút ngắn thích hợp.
Nhiều nước chọn mơ hình cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu, dựa vào tăng
trưởng các sản phẩm công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo sẽ giúp
nền kinh tế các nước đang phát triển nhanh chóng chuyển được nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước chuyển tới nền kinh tế tri

thức. Sự dịch chuyển này đến đâu phụ thuộc vào trình độ thích ứng về tiếp nhận
cơng nghệ, khả năng về vốn, khai thác thị trường. Dù bước chuyển dịch ở trình
độ nào, nền kinh tế ở các nước đang phát triển đều chú trọng tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ; đồng thời tập trung nỗ lực phát triển các
ngành có khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế của nhiều nước đang
phát triển đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng các ngành
nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ.
5.3. Tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao cơng nghệ giữa các
nước (Vịng luẩn quẩn của Nurks)
Nhiều nước phát triển đang thực hiện chính sách thu hút lại các nhà đầu tư
về nước, đồng thời đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, dẫn đến sự cạnh tranh
gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngồi khơng chỉ giữa các nước đang phát triển
mà còn với các nước phát triển.
Đối với tất cả các nước đang phát triển, FDI là nguồn lực quan trọng để
thu hút vốn, công nghệ nhằm tăng cường năng lực cơng nghệ của doanh nghiệp
trong nước. Vai trị này được thể hiện ở hai khía cạnh chính là tiếp nhận chuyển
giao cơng nghệ từ bên ngồi vào và nghiên cứu, cải tiến phát triển công nghệ,


thích nghi, phù hợp với điều kiện thực tế, nâng cao năng lực công nghệ trong
nước. Đây là mục tiêu quan trọng mà nước tiếp nhận FDI luôn hướng đến. Đồng
thời, thông qua các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp FDI tạo
ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên
cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Với cách thức gián tiếp này, nước tiếp
nhận đầu tư sẽ dần tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ
(R&D) của các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
5.4. Nâng cao sự cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến công nghệ, đổi mới
phương pháp quản lý
Thông qua hoạt động FDI, nhiều công nghệ mới đã được thực hiện
chuyển giao công nghệ và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí

nghiệp FDI; nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo lại để cập
nhật kiến thức phù hợp với yêu cầu mới. Hoạt động FDI cũng có tác động thúc
đẩy phát triển cơng nghệ trong nước trong bối cảnh có sự canh tranh của cơ
chế thị trường. Tiến bộ khoa học công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát
triển các cơ sở sản xuất kinh doanh mà còn là yếu tố quyết định nâng cao hiệu
quả khai thác, sử dụng tài nguyên. Do vậy, đây là yếu tố then chốt góp phần
giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
5.5. Thúc đẩy chính phủ các nước đang phát triển cải tổ lại thể chế,
chính sách để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập hiệu quả
vào nền kinh tế khu vực và thế giới
Cải cách thể chế là việc nâng cao chất lượng chính sách, quy định của
Nhà nước, qua đó thiết lập một môi trường thuận lợi để người dân, doanh nghiệp
cùng phát triển và nền kinh tế có sức cạnh tranh hơn. Có một thể chế tốt cũng
đồng nghĩa với việc sẽ giám sát hiệu quả việc phân bổ các nguồn lực, từ đó giúp
Chính phủ có khả năng ứng phó tốt hơn với các "cú sốc" của nền kinh tế.
5.6. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, rút ngắn chênh lệch trình độ phát
triển
Việc phát huy tối đa lợi thế so sánh trong q trình tồn cầu hóa, khu vực
hóa của các nước đang phát triển là nhằm tận dụng tự do hoá thương mại, thu
hút đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Tỷ trọng mậu dịch
thế giới trong tổng kim ngạch mậu dịch thế giới của các nước đang phát
triển ngày một tăng (1985: 23%, 1997: 30%). Các nước đang phát triển cũng
ngày càng đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế, tỷ trọng
hàng công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng tăng (1985: 47%,


1998: 70%) và các nước đang phát triển đang nắm giữ khoảng 25% lượng hàng
cơng nghiệp xuất khẩu trên tồn thế giới.
5.7. Nâng cao đời sống của người dân
Hiện nay, kinh tế số có nhiều bước phát triển vượt bậc, đặc biệt là ở các

nước đang phát triển. Công nghệ kỹ thuật số đã hỗ trợ cuộc sống của người dân
và người tiêu dùng, giúp nâng cao năng suất của người lao động và doanh
nghiệp, đồng thời giúp người dân có thể tiếp cận nhanh các dịch vụ từ Chính
phủ . Tại các nước đang phát triển, một bộ phận quan trọng của chiến lược phát
triển là hoạt động xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nơng thơn, vùng
sâu, vùng xa. Trong đó, nâng cao khả năng tiếp cận cơ chế chính sách chính phủ
là giải pháp hiệu quả, kích thích các hoạt động tạo thu nhập, giúp người dân
kiểm sốt tình hình tài chính của mình, từng bước vượt khỏi đói nghèo. Các
nước đang phát triển đề cập đến các quốc gia hoặc nền kinh tế có thu nhập bình
qn đầu người thấp hơn so với các nước phát triển. Một quốc gia đang phát
triển, nói một cách đơn giản nhất, là một quốc gia nỗ lực hướng tới cải thiện
cơng nghiệp hóa, ổn định kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân.
CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
Ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều coi thương mại quốc tế là yếu tố
quan trọng bậc nhất trong chiến lược phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thương mại
quốc tế không phải lúc nào cũng là giải pháp màu nhiệm mang lại sự thịnh
vượng cho một quốc gia. Thương mại quốc tế phát triển gắn bó chặt chẽ với q
trình tự do hóa thương mại và giảm dần các rào cản thuế quan, phi thuế quan
trong thương mại giữa các nước. Trong điều kiện tồn tại sự chênh lệch về trình
độ phát triển kinh tế và năng suất lao động, thương mại quốc tế có xu hướng làm
gia tăng nhập khẩu tại các nước kém phát triển, hàng hóa nước ngồi cạnh tranh
tốt hơn so với hàng hóa nội địa, làm giảm quy mơ sản xuất nội địa, kéo theo đó
là thất nghiệp của các nước này có thể gia tăng.
Nhìn chung, thương mại quốc tế mang lại nhiều lợi ích cho các nước phát
triển có trình độ cơng nghệ và tổ chức sản xuất cao. Các quốc gia này có khả
năng cạnh tranh cao ở cả bốn bình diện như doanh nghiệp, sản phẩm, ngành và
quốc gia. Đối với các nước đang và kém phát triển, thương mại quốc tế chỉ
mang lại lợi ích thực sự khi có chiến lược hội nhập kinh tế đúng đắn, phù hợp;
biết chủ động và tận dụng lợi ích, hạn chế tác động bất lợi trong thương mại

quốc tế.


Kể từ khi đổi mới năm 1986, hội nhập kinh tế là một trụ cột quan trọng
trong cải cách của Việt Nam. Việt Nam từng bước hội nhập vào kinh tế thế giới
ngày càng sâu rộng, đây là bước đi quan trọng và thành cơng trong q trình đổi
mới. Việc hội nhập kinh tế sâu rộng đã mở ra cơ hội kinh tế, nâng cao tốc độ
tăng trưởng thương mại, đầu tư và thu nhập. Trong bối cảnh bùng nổ các cuộc
chiến thương mại giữa các nước lớn trên thế giới, năm 2019 mang lại nhiều kết
quả ấn tượng của thương mại Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam gần đây đã tăng
trưởng với tốc độ kỷ lục một phần nhờ vào vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Năm
2019, tăng trưởng của Việt Nam là 7,02%, tăng trưởng FDI ở mức cao, thương
mại Việt Nam và thế giới đạt trên 517 tỷ USD và tiếp tục tăng lên 550 tỷ USD
trong năm 2020 - thời gian mà Việt Nam và thế giới cùng nhau đối phó với đại
dịch Covid – 19.
Trong thời gian qua, số lượng bảo hộ thương mại mà các nền kinh tế lớn
thực hiện ngày càng tăng lên, đặc biệt là Mỹ, có thể gây thiệt hại nặng nề cho
chính nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, Mỹ đưa ra những rào cản thuế đối với nhập
khẩu, cũng như khuyến khích các doanh nghiệp chuyển địa điểm sản xuất về
trong nước. Đồng thời, Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cũng tìm
mọi cách tăng kim ngạch xuất khẩu trong bối cảnh gia tăng những rào cản đối
với hàng nhập khẩu, giữ thị phần trong nước cho các doanh nghiệp nội địa, là
những minh chứng rõ nét về xu hướng theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ. Và chính
những căng thẳng kinh tế và địa chính trị là mối đe dọa lớn đối với tăng trưởng
toàn cầu.
Căng thẳng chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng có thể là cơ hội để
Việt Nam thu hút nhiều hơn đầu tư từ Mỹ và là một động lực thúc đẩy sự thay
đổi này diễn ra nhanh hơn. Các doanh nghiệp Mỹ đang ngày càng gặp khó khăn
để kinh doanh ở Trung Quốc, họ sẽ có khả năng chuyển sang Việt Nam như một
sự thay đổi định hướng kinh doanh. Tuy nhiên, Mỹ và Trung Quốc là hai đối tác

thương mại lớn với nước ta, nên việc căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn
trước áp lực phải thu hẹp nhập siêu với Trung Quốc. Cuộc chiến này cũng
mang đến những lo ngại Trung Quốc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ
thơng qua Việt Nam.
Việt Nam cần hài hịa trong quan hệ thương mại với cả Mỹ và Trung
Quốc trong bối cảnh phức tạp của sự thay đổi cục diện kinh tế - chính trị quốc
tế. Các vấn đề kinh tế nội bộ như nợ công và tái cơ cấu thể chế ở Châu Âu, suy


thoái kinh tế ở Nhật Bản và ảnh hưởng của dịch bệnh có thể gây ra nhiều vấn đề
trong thương mại của các nước, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó là chủ nghĩa
bảo hộ đang ngày càng gia tăng đáng kể ở một số đối tác kinh tế lớn của Việt
Nam, cùng với tác động chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có tác động lên
kinh tế và thương mại toàn cầu.
Việt Nam cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
tạo động lực để tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Thơng qua các
chính sách như thúc đẩy đầu tư nước ngoài, thực hiện các cải cách thương mại
trong nước và các khai thác lợi ích từ chính sách thương mại mới, nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế.
1. Thúc đẩy phân công lao động và phân bố nguồn lực hiệu quả hơn
tại Việt Nam
Thị trường lao động (TTLĐ) hình thành và phát triển trong tổng thể phát
triển nền kinh tế thị trường. Xu hướng chung của các nước trên thế giới có nền
kinh tế thị trường đều dựa trên nền tảng phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ
bản, trong đó có TTLĐ. E. Robert, trong tác phẩm “Kinh tế lao động” (xuất bản
năm 1991), cho rằng, TTLĐ là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ
thống các thị trường của nền kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa XII của Đảng “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” xác định: Thị trường lao động là một trong những thị trường

quan trọng của kinh tế thị trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng khẳng định: Thị trường (bao gồm TTLĐ) đóng vai trị quyết định trong
xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ, tạo động lực huy động, phân bố các nguồn
lực.
Các đặc trưng chủ yếu của TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập
là:
1) Thị trường lao động hoạt động theo các quy luật khách quan của kinh
tế thị trường, nhất là quy luật cung - cầu lao động, quy luật cạnh tranh công bằng
trong lao động... Đồng thời, có sự kết nối, liên thơng, khơng rào cản giữa các
khu vực, các vùng trong nước và với ngồi nước trong q trình hội nhập;
2) Sức lao động được giải phóng triệt để. Người lao động được tự do lựa
chọn việc làm, tự do đối thoại, thương lượng, thỏa thuận với người sử dụng lao
động trong quan hệ lao động để ký kết hợp đồng lao động, tự do dịch chuyển
trên TTLĐ...;


3) Lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất (đường cung lao động) có mối
quan hệ tương tác chặt chẽ với cầu lao động (đường cầu lao động), nhưng người
lao động, nhất là người lao động có kỹ năng, là yếu tố quyết định nhất của sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ trong kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội
nhập;
4) Quan hệ cung - cầu lao động trên TTLĐ là quan hệ thỏa thuận giữa các
bên về các nội dung quan hệ lao động theo những tiêu chuẩn lao động cơ bản
tiếp cận các chuẩn mực quốc tế do Nhà nước quy định (về việc làm, tiền lương,
bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động và các điều kiện làm việc khác) làm
căn cứ cho các bên quan hệ lao động thương lượng, thỏa thuận, định đoạt và tự
chịu trách nhiệm; người lao động có cơ hội bình đẳng tham gia TTLĐ để có thể
tìm việc làm bền vững;
5) Đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về các nội dung quan hệ lao
động của các chủ thể quan hệ lao động theo cơ chế ba bên ở cấp ngành hay quốc

gia (đại diện người sử dụng lao động, đại diện người lao động và Nhà nước) và
theo cơ chế hai bên ở cấp doanh nghiệp (đại diện người sử dụng lao động và đại
diện người lao động) phải bảo đảm tính độc lập, công khai, minh bạch và thực
chất;
6) Thị trường lao động hoạt động theo các quy luật khách quan nhưng
không tuyệt đối hóa sự điều tiết bởi “bàn tay vơ hình”, mà có sự điều tiết của
Nhà nước thơng qua các cơng cụ quản lý và hỗ trợ để phịng ngừa, giải quyết
những trục trặc, thất bại của thị trường, nhất là khi xảy ra khủng hoảng kinh tế,
biến đổi khí hậu và dịch bệnh, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... tác
động tiêu cực đến hoạt động bình thường hoặc kìm hãm sự phát triển của TTLĐ.


BIỂU ĐỒ PHÂN BỔ NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
2. Mở rộng thị trường, hạn chế rủi ro cho nền kinh tế, các chủ thể
tham gia tại Việt Nam
Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban
hành các quy định, các luật chơi trên thị trường, mà cịn đóng vai trị chủ thể
hoạt động sản xuất (nhất là các hàng hóa và dịch vụ cơng), là người mua và bán
các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Như vậy lúc này quan hệ giữa nhà nước
và thị trường biểu hiện ra là quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, quan hệ
giữa những người mua và người bán hàng hóa và dịch vụ chịu sự tương tác,
giàng buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản lý điều
hành của nhà nước thông qua hệ thống quy định luật pháp và các cơng cụ quản
lý.
Xét về mục đích thực hiện các chức năng, dù xuất hiện với tư cách nào,
thì quan hệ giữa nhà nước và thị trường, về bản chất, là quan hệ lợi ích. Đó là
lợi ích của nhà nước và lợi ích của các chủ thể trên thị trường. Nhà nước thực
hiện quản lý là hướng tới mục đích bảo đảm cho thị trường phát triển hiệu quả.
Thị trường phát triển chính là cơ sở kinh tế, bảo đảm sự phát triển của nhà nước.
Do vậy trong xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần bảo đảm hài hịa lợi

ích giữa các chủ thể trên thị trường. Điều cần khẳng định là, sự tương tác giữa
nhà nước và thị trường đều hướng đến gia tăng lợi ích, tạo ra sự tăng trưởng nói
chung của các chủ thể trên thị trường. Đây chính là mặt thống nhất trong mối


quan hệ giữa nhà nước và thị trường, thúc đẩy nhà nước và thị trường gắn bó,
tương tác với nhau.
Về bản chất, đó chính là quan hệ tương hỗ, tùy thuộc vào nhau cùng phát
triển, cùng đạt được lợi ích. Mặt khác trong q trình tương tác có sự cạnh tranh
vai trị, lợi ích. Khi “phân vai” phù hợp, đúng với trình độ phát triển và năng lực
xử lý thì lợi ích sẽ được thỏa mãn. Ngược lại, khi “phân vai” không đúng, nhà
nước lấn át thị trường, hay thị trường lấn át nhà nước thì sẽ dẫn đến kết cục: sự
quản lý của nhà nước kém hiệu quả và bản thân thị trường sẽ không thể phân bổ
hợp lý, hiệu quả các nguồn lực. Đây chính là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa
nhà nước và thị trường.

BIỂU ĐỒ QUY MÔ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2016
3. Tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ giữa các
nước tại Việt Nam
Trong những năm qua, Việt Nam đã chú trọng thu hút chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài để tận dụng ưu thế của nước đi sau, sớm tiếp cận những
công nghệ tiên tiến để phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Đối với tất cả các
nước đang phát triển, FDI là nguồn lực quan trọng để thu hút vốn, công nghệ
nhằm tăng cường năng lực cơng nghệ của các DN trong nước. Vai trị này được
thể hiện ở hai khía cạnh là tiếp nhận chuyển giao cơng nghệ từ bên ngồi vào và
nghiên cứu, cải tiến phát triển công nghệ, phù hợp với điều kiện thực tế, nâng
cao năng lực công nghệ trong nước. Đây là mục tiêu quan trọng mà nước tiếp
nhận FDI luôn hướng đến.



Qua các hoạt động cải tiến công nghệ của các DN FDI tạo ra nhiều mối
quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng
công nghệ trong nước. Với cách thức gián tiếp này, nước tiếp nhận đầu tư sẽ
tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ (R&D) của các tổ chức
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Trong lĩnh vực cơng nghệ cao,
Việt Nam đã có các chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngồi
vào các khu cơng nghệ cao
Việc chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian
qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được
du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực như: Dầu khí, điện tử, viễn thơng... Cùng
với đó, nhiều sản phẩm mới được tạo ra với cơng nghệ hiện đại, góp phần tăng
năng lực sản xuất và cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng hiện đại, phù hợp với Cách mạng công nghiệp 4.0.
Đi liền với chuyển giao cơng nghệ là q trình tiếp nhận kinh nghiệm
quản lý tiên tiến trên thế giới và đào tạo được đội ngũ lao động có trình độ cao,
có khả năng sử dụng được các công nghệ hiện đại. Nhiều kỹ sư sau một thời
gian làm việc tại các DN FDI đã học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, trưởng thành, từ
đó hình thành nên một thế hệ chủ DN có năng lực cạnh tranh và trình độ cơng
nghệ tương đương với các đối tác nước ngồi.
Bên cạnh đó, những cơng nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI
thường là cơng nghệ được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư. Trong khi đó,
cơng tác đánh giá, lựa chọn cơng nghệ của Việt Nam hiện nay cịn nhiều hạn
chế, những công nghệ được chuyển giao phần lớn là do phía nước ngồi giới
thiệu, khơng phải tự các DN trong nước tìm kiếm hoặc nghiên cứu, tìm hiểu.
Do vậy, các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam trong thời gian qua
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới. Nếu
chúng ta khơng chủ động lựa chọn cơng nghệ thì khơng thể có được những cơng
nghệ đem lại lợi ích cao và đáp ứng u cầu của tiến trình phát triển kinh tế đất
nước. Ngồi ra, hoạt động R&D của các doanh nghiệp FDI mới chỉ dừng ở
những công nghệ nhỏ, đơn giản hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp

với điều kiện Việt Nam. Nhìn chung, việc khai thác, học hỏi cơng nghệ thông
qua FDI chưa đạt được kết quả như mong muốn.


BIỂU ĐỒ THU HÚT VỐN FDI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2020

BIỂU ĐỒ TỈ LỆ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM
4. Nâng cao sự cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến công nghệ, đổi mới
phương pháp quản lý tại Việt Nam
Trong quá trình thực hiện cải cách từ những năm 1990 đến nay, Việt Nam
đã nỗ lực ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo, nhằm
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Với môi trường, thể chế, kinh doanh và đầu tư đang từng bước được cải
thiện, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam đã có những bước


phát triển mạnh mẽ. Theo đánh giá của Startup Blink (2020), hệ sinh thái khởi
nghiệp của Việt Nam được đánh giá ở vị trí 59 trên thế giới, trong đó nếu tính
riêng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng
tạo Việt Nam đang nằm trong top 20 - 25 hệ sinh thái hàng đầu.
Đặc biệt, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), chỉ số cạnh tranh toàn
cầu (GCI) của Việt Nam đều được cải thiện và đứng thứ hạng cao cùng với các
nước phát triển.
Theo số liệu của Bộ KH&CN (2020), đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP) giai đoạn 2016 - 2020 đã tăng lên 45,2% so với mức 33,58% của
giai đoạn 2011 - 2015 là 33,6%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai
đoạn 2016 - 2020 đã tăng lên 5,8%/năm so với giai đoạn 2011 - 2015 là
4,3%/năm. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị
xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020...
Bên cạnh đó, những đóng góp về KH&CN và đổi mới sáng tạo trong phát

triển KT-XH ở nước ta đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Trong bảng xếp
hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2020, Việt Nam xếp hạng
42/131 quốc gia/nền kinh tế.
Việt Nam tiếp tục đứng đầu trong nhóm 29 quốc gia có thu nhập trung
bình thấp được xếp hạng GII năm 2020; trong 10 nước khu vực Đông Nam Á,
Việt Nam đứng thứ ba, sau Singapore và Malaysia.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc phát triển
KH&CN và đổi mới sáng tạo. Việc dành nguồn lực đầu tư đã tạo ra nhiều thay
đổi về nền tảng cho nghiên cứu khoa học như cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu khoa
học và đổi mới công nghệ; từ đó đã có được những đề tài khoa học và sản phẩm
cơng nghệ có giá trị, phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách để hỗ trợ DN đổi
mới sáng tạo, giảm dần sự phụ thuộc tăng trưởng kinh tế vào khai thác tài
nguyên, xuất khẩu thô, lao động giá rẻ, từng bước chuyển sang dựa vào ứng
dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ, biến đổi mới sáng tạo thành tài nguyên vô
tận cho tăng trưởng bền vững.
Theo thống kê của Bộ KH&CN (2021), Việt Nam hiện có hơn 1.400 tổ
chức có năng lực hỗ trợ khởi nghiệp, trong đó có 196 khu làm việc chung, 69
vườn ươm DN và 28 tổ chức thúc đẩy kinh doanh được thành lập.
Số lượng Quỹ Đầu tư mạo hiểm coi Việt Nam là thị trường mục tiêu có
108 Quỹ đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có 23 Quỹ có pháp nhân Việt


Nam, 23 Quỹ thuần Việt. Những con số này liên tục tăng trong những năm qua,
thể hiện sự tham gia tích cực của cộng đồng vào sự phát triển hệ sinh thái đổi
mới sáng tạo.
Chiến lược phát triển KT-XH Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của KH&CN, đổi mới sáng tạo, đặc biệt được thúc đẩy bởi
q trình cơng nghiệp hóa. Trong Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2021 2030, các nội dung KH&CN và đổi mới sáng tạo được thể hiện đồng bộ, xuyên
suốt từ chủ đề của Chiến lược đến quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển, đột

phá chiến lược và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển, bảo đảm được
tính kế thừa, phát triển từ các thành cơng và có tính đến bối cảnh mới ở trong
nước và quốc tế.
Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về
một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, trong đó xác định rõ vai trị của các trung tâm đổi mới sáng tạo, cũng
như khẳng định DN là trọng tâm trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Để cụ thể hóa nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
50/NQ-CP năm 2020, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành và
khuyến khích thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo tại các địa phương và các
DN…
Với các giải pháp cụ thể, Chính phủ yêu cầu phát triển mạnh mẽ
KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; thúc đẩy ứng dụng, chuyển
giao công nghệ; làm chủ một số cơng nghệ mới, cơng nghệ có tính chiến lược.
Các nghị quyết cũng nêu rõ việc thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, phát
triển mạnh, đồng bộ hạ tầng số, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số, đẩy
nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế
số và xã hội số…
Khó khăn, thách thức trong hoạt động đổi mới, sáng tạo của Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu nổi bật và những nỗ lực tổ chức thực hiện, hiện
nay, KH&CN và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam vẫn cịn đối diện với khơng ít khó
khăn, thách thức, cụ thể:
- Các chương trình KH&CN và đổi mới sáng tạo chưa có sự gắn kết với
các chương trình liên quan, phân bổ nguồn kinh phí và nguồn nhân lực cho các
mục đích và lĩnh vực cụ thể chưa được liên kết một cách có hệ thống.


- Các chính sách đổi mới KH&CN của Việt Nam tập trung nghiên cứu và
phát triển và sáng tạo tri thức mà chưa tập trung cho các DN lựa chọn, ứng

dụng. Hiện nay, vẫn thiếu một giải pháp đủ khả thi để khuyến khích các DN và
đầu tư tư nhân vào hoạt động nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng KH&CN.
- Các DN tư nhân Việt Nam ít sử dụng và cải tiến công nghệ, đổi mới.
Theo Bộ KH&CN (2020), 97% DN Việt Nam là nhỏ và vừa, chưa đổi
mới mạnh về tư duy để bắt kịp xu hướng về cơng nghệ. Các chính sách cũng
thiếu sự liên kết giữa DN và khu vực nghiên cứu, dẫn đến các sản phẩm nghiên
cứu bị hạn chế trong thương mại hóa, hoặc thiếu các nghiên cứu ứng dụng, điều
này làm hạn chế tiến bộ cơng nghệ đóng góp vào tăng trưởng năng suất.
- Mặc dù, nguồn lao động của Việt Nam khá dồi dào, song lại thiếu
chun mơn sâu, thiếu trình độ công nghệ cao và các kỹ năng cần thiết. Trong
khi đó, yếu tố con người là một trong những điều kiện bắt buộc khi thực hiện đổi
mới sáng tạo.
- Năng lực của các tổ chức nghiên cứu và nhà nghiên cứu còn nhiều hạn
chế. Ở cấp độ tổ chức, các viện nghiên cứu và các tổ chức nghiên cứu đối diện
với thực trạng thiếu nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực.
Quy mô của các viện nghiên cứu tương đối nhỏ về cả số lượng nhà nghiên
cứu và ngân sách để khai thác quy mô kinh tế và triển khai các nghiên cứu liên
ngành. Trong khi đó, năng lực của các nhà khoa học còn hạn chế, thiếu những
nhà khoa học hàng đầu; số lượng bằng sáng chế và số lượng tác phẩm được
cơng bố trên các tạp chí quốc tế có danh tiếng bị hạn chế...

BIỂU ĐỒ NĂNG LỰC CẠNH TRANH TOÀN CẦU CỦA ASEAN


5. Thúc đẩy chính phủ các nước đang phát triển cải tổ lại thể chế,
chính sách để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập hiệu quả
vào nền kinh tế khu vực và thế giới tại Việt Nam
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 5/7/2023 về nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền
vững giai đoạn 2023 – 2030.

Mục tiêu chung của Nghị quyết là thực hiện thắng lợi các chủ trương,
chính sách lớn đã đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII trong bối cảnh
nước ta đang triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021 - 2025 và
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030, trong đó trọng tâm
là: Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế; bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế
vĩ mô, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; nhanh chóng phục hồi
kinh tế vượt qua các tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19; chủ động hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả nhằm thu hút nguồn lực bên ngoài
cho phát triển, tăng cường sự gắn kết lợi ích với các đối tác và nâng cao vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, bảo đảm an ninh quốc gia.
Mục tiêu cụ thể là chuyển hóa các lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế đã
đạt được thành kết quả cụ thể trong việc tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ; nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ và hiệu quả sử dụng
vốn của nền kinh tế; thúc đẩy phát triển các khu vực kinh tế trong nước, xác lập
vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể
chế, pháp luật đầy đủ, hiện đại, hội nhập hơn.
Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập
kinh tế quốc tế nói riêng đóng góp tích cực vào q trình đổi mới mơ hình tăng
trưởng theo hướng bền vững, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước phát triển
hơn trong khu vực và thế giới.
Tăng cường hợp tác công - tư, huy động các nguồn lực xã hội, trong đó có
hỗ trợ của các cơ chế đa phương, các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng doanh
nghiệp,... trong q trình thực thi các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết,
đặc biệt các cam kết trong các FTA.
Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực
từ bên ngoài; tăng cường khả năng ứng phó và xử lý linh hoạt hiệu quả trước các
diễn biến trên thế giới có thể xảy ra đe dọa ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động



xuất nhập khẩu, giao dịch thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của các ngành
kinh tế; hoàn thiện hệ thống phòng vệ thương mại để bảo vệ nền kinh tế, doanh
nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Đồng thời, tăng
cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm Việt
Nam; tạo điều kiện, môi trường để các doanh nghiệp phát triển ổn định, vững
chắc.
Nhận thức đúng, đầy đủ về vai trị, vị trí của pháp luật quốc tế trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; chủ động, tích cực tham gia xây
dựng quy tắc pháp lý quốc tế; tận dụng tối đa pháp luật quốc tế trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhất là
trong giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh.
Đẩy mạnh hợp tác, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh Cách
mạng Công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chủ động, tích cực tham gia hội nhập kinh tế số nhằm góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế số, xã hội số của Việt Nam theo Chiến lược
quốc gia phát triển kinh tế số, xã hội số đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm
2030.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế: trong đó chú trọng vào khai thác hiệu quả các FTA nhằm mở rộng và đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu, không để phụ thuộc quá lớn vào một số thị
trường. Tích cực đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa
phương cũng như tham gia vào các mơ hình, khn khổ hợp tác và liên kết mới
về kinh tế. Tiếp tục hồn thiện chính sách thương mại phù hợp với điều kiện của
đất nước và hội nhập quốc tế.
6. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, rút ngắn chênh lệch trình độ phát
triển tại Việt Nam
Mơ hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ đổi mới đến nay được vận
hành khá tốt theo cơ chế thị trường có kiểm sốt đã thúc đẩy tổng sản phẩm

trong nước (GDP) tăng trưởng liên tục và duy trì dài hạn, đưa Việt Nam trở
thành nước có thu nhập trung bình trong nhóm các nước đang phát triển. Động
lực của tăng trưởng được tạo bởi các động lực bộ phận cho phép khai thác tốt
tiềm năng của các thành phần kinh tế, từng bước chuyển dần theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.


Cấu trúc kinh tế dịch chuyển tích cực, hiện đại và phù hợp với xu thế
chung, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế liên tục trong
những năm qua. Kinh tế vĩ mô liên tục được duy trì ổn định hơn trên cơ sở tăng
trưởng GDP và việc làm, lạm phát nhìn chung được kiểm sốt. Các chính sách
vĩ mơ, như tiền tệ, tài khóa và thương mại... đã trở thành yếu tố công cụ trong cơ
chế vận hành mơ hình tăng trưởng kinh tế và được sử dụng để kích thích tăng
trưởng kinh tế, bình ổn kinh tế vĩ mô.
Không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, mơ hình tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam thời gian qua còn tạo được cơ chế phân bổ và phân phối sản
lượng tương đối phù hợp với trình độ phát triển, góp phần cải thiện và tạo bước
tiến đáng kể về phát triển xã hội trên nhiều khía cạnh, như thu nhập và mức sống
cho các tầng lớp nhân dân đã tăng lên và được cải thiện đáng kể; cơng tác xóa
đói, giảm nghèo đạt những kết quả khá bền vững; chỉ số phát triển con người
Việt Nam được nâng cao; các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe được cải thiện; sự
nghiệp giáo dục được đầu tư đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực; việc làm được tạo ra gần tương đương với tốc độ gia tăng của nguồn lao
động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống khá thấp.
Tuy nhiên, mơ hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam những năm qua đã
bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong cơ chế vận hành. Nghiêm trọng nhất là tình
trạng trục trặc, thiếu linh hoạt và kém hiệu quả trong sự kết hợp giữa tổng cung
và tổng cầu, khiến sản lượng luôn thấp hơn tiềm năng, không phát huy được hết
các động lực. Bên cạnh đó, nó cịn chứa đựng khơng ít bất ổn và nhiều vấn đề xã
hội chưa được giải quyết.

Tăng trưởng sản lượng thấp hơn tiềm năng, tính ổn định chưa cao trước
những biến động kinh tế cả trong và ngoài nước. Tăng trưởng kinh tế ở nước ta
dựa quá nhiều vào đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, quá coi trọng
vai trò của khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả, trong khi lại chưa quan
tâm đúng mức đến các động lực khác của nền kinh tế, như khoa học - công
nghệ, nhu cầu của thị trường trong nước...
Mơ hình tăng trưởng kinh tế dựa quá nhiều vào cấu trúc kinh tế thiên lệch
về nguồn lực cho công nghiệp, dịch vụ, chưa chú trọng và đầu tư thích đáng cho
nơng nghiệp, nơng thơn. Điều đó đã tạo ra sự mất cân bằng và tiềm tàng bất ổn
về kinh tế - xã hội.
Những nhân tố gây bất ổn cho kinh tế vĩ mô luôn tiềm ẩn do đầu tư quá
cao so với khả năng tiết kiệm của nền kinh tế, thâm hụt ngân sách liên tục kéo


dài càng khiến vay nợ đầu tư và thâm hụt tăng. Các chính sách vẫn chưa thực sự
hiệu quả. Vấn đề bình ổn kinh tế vĩ mơ vẫn ln là thách thức.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội vẫn tồn tại dai dẳng, chưa được giải
quyết. Tình trạng bất bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo, chênh lệch vùng, miền,
khu vực chưa được rút ngắn, tốc độ giảm nghèo còn chậm. Hệ thống cung cấp
dịch vụ y tế, giáo dục chưa đáp ứng kịp với yêu cầu đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu. Vấn đề việc làm vẫn còn là thách thức lớn...
7. Nâng cao đời sống của người dân tại Việt Nam
Với những thành tựu, kinh nghiệm của quá trình đổi mới, Việt Nam bước
vào giai đoạn phát triển mới. Những kết quả của tiến trình đổi mới đất nước đã
tạo sức mạnh tổng hợp lớn hơn so với giai đoạn trước. Diện mạo của đất nước
có nhiều thay đổi. Thế và lực của Việt Nam tiếp tục được củng cố, vị thế của
Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để
đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống
của nhân dân.
Công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai sâu rộng và

hiệu quả, góp phần tạo dựng mơi trường hịa bình, ổn định và tăng thêm nguồn
lực cho phát triển đất nước. Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) đánh giá:
“Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở
rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào
việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam,
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác”.
Thương mại - dịch vụ phát triển đã góp phần quan trọng trong việc giải
quyết đầu ra, tiêu thụ sản phẩm cho các ngành sản xuất; đồng thời tạo ra thị
trường hàng hóa sơi động, khối lượng hàng hóa lưu thơng liên tục tăng đã đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng, sản xuất của người dân. Thương mại dịch vụ đang từng bước giữ vai trị, vị trí quan trọng trong nền kinh tế, góp phần
quan trọng vào tăng trưởng GDP của đất nước.



×