Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Khảo sát kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc nkhhct ở trẻ dưới 5 tuổi tại khoa nhi bệnh viện đa khoa huyện mai sơn năm 2022 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.36 KB, 74 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn hơ hấp cấp tính (NKHHCT) là tình trạng
viêm nhiễm đường hơ hấp do virus hoặc vi khuẩn gây ra, là
một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em
dưới 5 tuổi, nhất là ở trẻ em dưới 1 tuổi. cùng với suy dinh
dưỡng và tiêu chảy, được xếp vào nhóm những bệnh có ảnh
hưởng nhiều nhất đến sức khỏe trẻ em. Trong những năm gần
đây NKHHCT ở trẻ em, đã và đang là một trong những vấn đề
mang tính chất tồn cầu, thu hút sự quan tâm của mọi quốc
gia, là một trong những vấn đề mà Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) quan tâm, nhất là tại các nước đang phát triển ở châu
Á, châu Phi, châu Mỹ - La tinh. Theo Tổ chức Y tế thế giới,
hàng năm trên thế giới có khoảng 15 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
chết, trong đó có khoảng 5 triệu trẻ em chết vì NKHHCT chủ
yếu là viêm phổi, nhất là ở các nước đang phát triển.
Tại Việt Nam, NKHHCT cũng là một vấn đề quan
trọng đối với sức khỏe cộng đồng nói chung và của trẻ em
nói riêng, đặc biệt đối với trẻ em dưới 5 tuổi, là nguyên
nhân hàng đầu gây mắc và tử vong ở trẻ em. Theo số liệu
điều tra chung của tồn quốc thì tỷ lệ mắc và tử vong do
NKHHCT chiếm 1/3 so với tổng số trẻ em vào khám và chữa
bệnh tại các cơ sở y tế, ước tính hàng năm có từ 20.000 –
25.000 trẻ em chết vì bệnh lý đường hơ hấp. Số lần mắc
bệnh của một trẻ trong một năm cũng cao, trung bình một
trẻ có thể mắc bệnh từ 3 – 5 lần/năm. Vì tính chất phổ biến
và nghiêm trọng của bệnh NKHHCT, Tổ chức Y tế Thế giới
đề ra chương trình phịng chống NKHHCT ở trẻ em và được

1



phát triển trên phạm vi toàn cầu từ năm 1981. Tại Việt Nam
chương trình phịng chống NKHHCT đã được triển khai áp
dụng và mở rộng từ năm 1984. Nhưng hàng năm, NKHHCT
vẫn cịn là ngun nhân có số lần mắc và tử vong khá cao ở
trẻ dưới 5 tuổi. Vai trị của người chăm sóc trẻ có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc nhận biết và xử trí bệnh cho trẻ. Trẻ
mắc bệnh NKHHCT chỉ có thể điều trị sớm nếu người mẹ có
đầy đủ kiến thức, để nhận biết các dấu hiệu bệnh, biết cách
chăm sóc trẻ. Khi trẻ bệnh nặng, người mẹ cũng phải biết
các dấu hiệu bệnh nặng hoặc các dấu hiệu nguy hiểm để
đưa trẻ đến cơ sở y tế tránh dẫn đến những hậu quả xấu và
tử vong.
Huyện Mai Sơn là một huyện miền núi, có dân số
đơng và nhiều dân tộc sinh sống, chủ yếu là dân tộc Thái,
H’Mơng, Khơ mú… Có nhiều nét riêng biệt, trình độ văn hóa
khơng đồng đều. Phần lớn các dân tộc ít người có trình độ
văn hóa thấp, điều kiện sống cịn nhiều khó khăn, phong
tục tập qn còn lạc hậu, nên việc tiếp cận các dịch vụ y tế
cịn hạn chế và nhiều yếu tố khác khơng thuận lợi đặc biệt
trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, đặc biệt là trẻ
em dưới 5 tuổi. Nhận thức ra tầm quan trọng của việc
phòng chống các bệnh NKHHCT ở trẻ em dưới 5 tuổi, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát kiến thức,
thực hành của bà mẹ về chăm sóc NKHHCT ở trẻ dưới
5 tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện đa khoa huyện Mai Sơn
năm 2022 - 2023” với mục tiêu:

2



1. Khảo sát kiến thức của bà mẹ về NKHHCT ở trẻ em
dưới 5 tuổi.
2. Khảo sát thực hành của bà mẹ về NKHHCT ở trẻ em
dưới 5 tuổi.

3


Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
1.1.1. Đại cương về NKHHCT
1.1.1.1. Khái niệm về NKHHCT
Hệ hô hấp bao gồm từ mũi xuống họng, thanh quản, khí
quản, phế quản và phổi – có chức năng thu nhận khơng khí từ
bên ngồi vào cung cấp oxy cho cơ thể, đồng thời thải khí
cacbonic ra ngồi. Vì thế, bộ máy hơ hấp đóng vai trị quan
trọng trong cơ thể sống. Người ta có thể nhịn ăn trong vài
ngày, nhưng không thể nhịn thở được dù chỉ trong vài phút.
Khi bị NKHHC, nghĩa là trẻ bị viêm nhiễm ở bất cứ phần nào
của đường hô hấp như: bị viêm nhiễm ở mũi họng, thanh
quản, khí quản; trong đó đặc biệt viêm phổi là bệnh nguy
hiểm nhất. Tai cũng là một bộ phận của đường hô hấp và
thông với họng, vì vậy những bệnh viêm nhiễm ở tai cũng
được xếp vào các bệnh NKHHCT.
NKHHCT là một nhóm bệnh do vi khuẩn hoặc virus gây
nên những tổn thương viêm cấp tính ở một phần hay tồn bộ
hệ thống đường hơ hấp kể cả tai, mũi, họng cho đến phổi,
màng phổi. Thời gian bị bệnh không quá 30 ngày, ngoại trừ
viêm tai giữa cấp là 14 ngày.
1.1.2. Nguyên nhân gây NKHHCT

Virus là nguyên nhân chủ yếu gây NKHHCT ở trẻ em (60
– 70%). Vì phần lớn các virus có ái lực đường hô hấp. Khả
năng lây lan của virus rất dễ dàng, tỷ lệ người lành mang
virus cao và khả năng miễn dịch đối với virus yếu và ngắn.

4


Ở Việt Nam, các nghiên cứu ban đầu của Viện Bảo vệ
sức khỏe trẻ em và khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai, phối hợp với
Viện Vệ sinh dịch tễ cho thấy virus gây bệnh NKHHCT ở trẻ
em đứng hàng đầu là virus hợp bào hơ hấp (Repspiratory
Syncitial virus). Sau đó là các loại virus cúm, á cúm và
adenovirus.
Vi khuẩn còn là nguyên nhân quan trọng gây NKHHCT ở
trẻ em, đặc biệt là các nước đang phát triển. Các loại vi khuẩn
thường gặp xếp thứ tự như sau: Haemophilus influeza,
Stretococcus

pneumonia,

Moracella

catarrhalis,

Staphylococcus aureus, Chlamydia trachomatis và các loại vi
khuẩn khác.
1.1.3. Các yếu tố nguy cơ gây NKHHCT
- Tuổi: tuổi căng nhỏ càng dễ bị NKHHCT, thường gặp
chủ yếu ở trẻ dưới 3 tuổi.

- Yếu tố dinh dưỡng, bệnh tật: NKHHCT hay gặp ở trẻ suy
dinh dưỡng, đẻ non, không được bú sữa mẹ, tim bẩm sinh,….
- Môi trường: môi trường vệ sinh kém, nhà ở chật chội,
ẩm thấp, nhiều bụi, nhiều khói (thuốc lá, bếp than,….).
- Thời tiết: bệnh thường gặp vào mùa đông xuân, thời
tiết lạnh, thay đổi độ ẩm và chuyển mùa (tháng 4 – 5 và
tháng 9 – 10).
- Cơ địa: những trẻ có cơ địa dị ứng, thể tạng tiết dịch,
….
- Ngoài các yếu tố trên, thiếu vitamin A cũng là những
điều kiện làm cho trẻ dễ mắc nhiễm khuẩn hơ hấp cấp tính.
Thiếu vitamin A làm giảm đáp ứng miễn dịch của cơ thể và

5


giảm khả năng biến hóa của các biểu mơ dễ gây sừng hóa
niêm mạc, đặc biệt niêm mạc đường hơ hấp và đường tiêu
hóa, do đó trẻ dễ bị NKHHCT.
1.1.4. Phân loại NKHHCT và dấu hiệu chính của bệnh
1.1.4.1. Phân loại theo vị trí giải phẫu (vị trí tổn thương)
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp được phân loại là nhiễm khuẩn
đường hô hấp trên (URIs) hoặc nhiễm khuẩn đường hô hấp
dưới (LRIs). Đường hơ hấp trên bao gồm đường dẫn khí quản
từ lỗ mũi đến dây thanh trong thanh quản, bao gồm xoang và
tai giữa. Đường hô hấp dưới bao gồm sự tiếp tục của đường
thở từ khí quản và phế quản đến các phế quản và phế nang.
NKHHCT không chỉ giới hạn ở đường hơ hấp mà cịn có thể
ảnh hưởng đến gia tăng sự nhiễm khuẩn hoặc các độc tố vi
khuẩn, viêm và giảm chức năng phổi.

Nhiễm khuẩn hô hấp trên bao gồm ho, cảm lạnh, viêm
tai giữa, viêm mũi – họng (trong đó có viêm VA, viêm
amidan…) phần lớn các trường hợp NKHHCT ở trẻ em là
nhiễm khuẩn đường hô hấp trên (70 – 80%) và thường là nhẹ.
Nhiễm khuẩn hơ hấp dưới ít gặp hơn nhưng thường là nặng
bao gồm các trường hợp viêm thanh quản, khí quản, phế
quản, tiểu phế quản và viêm phổi – màng phổi.
1.1.4.2. Phân loại theo mức độ nặng nhẹ
Thực tế hay dùng để đánh giá xử trí kịp thời các trường
hợp NKHHCT.
NKHHCT ở trẻ em có thể có nhiều dấu hiệu lâm sang như
sốt, khó thở, ho, đau họng, chảy nước mũi, đau tai, nhịp thở
nhanh, cánh mũi phập phồng, rút lõm lồng ngực, thở khò khè,

6


thở rít, tím tái … Nhưng theo WHO thỉ có thể dựa vào các dấu
hiệu cơ bản như ho, thở nhanh, rút lõm lồng ngực và một số
dấu hiệu nguy hiểm khác để phân loại xử trí theo mức độ
nặng nhẹ của bệnh.
Bảng 2.1. Phác đồ xử trí trẻ NKHHCT từ 2 tháng đến 5
tuổi.
Dấu
hiệu

Không uống Dấu hiệu rút
được,
co lõm
lồng

giật, ngủ li ngực
bì khó đánh
thức, thở rít
khi
nằm
n.
Suy
dinh dưỡng
nặng

Khơng rút
lõm lồng
ngực.
Khơng thở
nhanh.

Xếp
loại

Bệnh
nặng

Xử trí

Chuyển
ngay
đi
bệnh viện.
Tiêm ngay
một

liều
kháng sinh.
Dùng thuốc
hạ
nhiệt
(nếu

sốt). Điều trị
thở khị khè
(nếu
có).
Nếu ở vùng
sốt rét: thì
cho
thuốc
chống
sốt
rét.

Khơng
viêm phổi
(ho hoặc
cảm lạnh)
Nếu
ho
trên
30
ngày
thì
cần

đến
bệnh viện
khám tìm
ngun
nhân
xử
trí. Điều trị
viêm tai,
viêm họng
nếu
có.
Khám và
chữa bệnh
khác. Điều
trị sốt và
khị
khè
nếu
có.

rất Viêm
nặng

Thở nhanh
(≥ 50 lần/
phút
đối
với trẻ từ 2

12

tháng,

40
lần/phút
với trẻ 1 –
5 tuổi)
phổi Viêm phổi

Gửi ngay đi
bệnh viện.
Tiêm ngay 1
liều kháng
sinh. Dùng
thuốc
hạ
nhiệt (nếu

sốt).
Điều trị thở
khị
khè
(nếu
có).
Nếu khơng
có điều kiện
chuyển
tuyến trên,
có thể điều
trị
bằng

kháng sinh
7

Chăm sóc
tại
nhà.
Cho
một
liều kháng
sinh. Điều
trị sốt (nếu
có). Điều
trị khị khè
(nếu có).
Theo
dõi
sát 2 ngày
điều
trị
(hoặc sớm
hơn
nếu
tình trạng
xấu)
cần
đánh
giá
lại.



và theo dõi
sát.

Hướng dẫn
chăm sóc
tại nhà.

Sau 2 ngày điều trị với kháng sinh cần đánh giá lại. Nếu:
Dấu
hiệu

Xử trí

Tình trạng xấu hơn.
Như cũ
Khá hơn
Không uống được.
Không tiến Thở
chậm
Rút lõm lồng ngực.
triển tốt
hơn
Các dấu hiệu nguy
Giảm sốt
hiểm khác
Ăn uống tốt
hơn
Gửi cấp cứu đi bệnh Đổi kháng Cho
đủ
viện

sinh hoặc đi kháng sinh 5
bệnh viện
– 7 ngày

8


Bảng 2.2. Phác đồ xử trí trẻ NKHHCT 0-2 tháng tuổi.
Dấu
hiệu

Xếp
loại
Xử trí

Bú kém hoặc bỏ

Co giật
Ngủ li bì khó
đánh thức.
Thở rít khi nằm
n
Khị khè
Sốt hoặc hạ
thân nhiệt
Bệnh rất nặng

Rút lõm lồng
ngực mạnh
Thở nhanh (từ

60 lần/phút trở
lên)

Không rút lõm
lồng ngực mạnh
Không
thở
nhanh (dưới 60
lần/phút)

Viêm phổi nặng

Gửi cấp cứu đi
bệnh viện
Giữ ấm cho trẻ
Cho liều kháng
sinh đầu tiên

Gửi cấp cứu đi
bệnh viện
Giữ ấm cho trẻ
Cho liều kháng
sinh đầu tiên
Nếu chưa có
điều kiện gửi đi
bệnh viện phải
điều trị kháng
sinh và theo dõi
sát


Không
viêm
phổi (ho, cảm
lạnh)
Hướng dẫn bà
mẹ chăm sóc và
theo dõi tại nhà
Giữ ấm cho trẻ
Cho trẻ bú mẹ
nhiều lần
Lau sạch mũi
Đưa trẻ đến
bệnh viện, nếu:
+ Khó thở hơn
+ Thở nhanh
hơn
+ Bú kém
+ Trẻ mệt hơn

9


Bảng 2.3. Phác đồ xử trí trẻ bị Viêm họng.
Dấu
hiệu
Xếp loại
Xử trí

Khơng uống được


Hạch cổ nổi to, đau
chất xuất tiết trắng ở
họng.
Áp xe họng
Viêm họng liên cầu
Gửi đi bệnh viện
Cho một kháng sinh
Cho một liều kháng sinh điều trị viêm họng liên
đầu tiên trước khi gửi đi cầu.
bệnh viện
Cho thuốc làm dịu đau
Điều trị sốt (nếu có)
họng
Cho paracetamol (khi đau) Điều trị sốt (nếu có)
Cho paracetamol (khi
đau)
Bảng 2.4. Phác đồ xử trí trẻ bị viêm tai

Dấu
hiệu

Sưng
đau
sau tai
Ấn
vùng
sau tai đau

Chảy
mủ

tai dưới 2
tuần
Đau tai hay
lắc đầu
Màng
nhĩ
đỏ, không
di động (Soi
tai)
tai Viêm
tai
giữa cấp

Chảy
mủ
tai trên 2
tuần
Mủ thối

Chảy
mủ
tai trên 2
tuần
Mủ nhầy

Xếp
loại

Viêm
xương

chũm

Viêm
tai
giữa mạn

Xử trí

Gủi đi bệnh
viện
cấp
cứu
Cho
liều
kháng sinh
đầu tiên
Cho
paracetamo
l (khi đau)

Viêm
tai
giữa mạn,

biến
chứng
Gửi đi bệnh
viện, khám
chun
khoa

Làm khơ tai
bằng Quấn
loa kèn
Đánh giá lại
sau 5 ngày
điều trị
Điều trị sốt

Cho
một
liều kháng
sinh uống
Làm khô tai
bằng Quấn
loa kèn
Đánh giá lại
sau 5 ngày
điều trị
Điều trị sốt
(nếu có)
10

Làm khơ tai
bằng Quấn
loa kèn
Đánh giá lại
sau 5 ngày
điều trị
Điều trị sốt
(nếu có)

Cho
paracetamo
l (khi đau)


Cho
(nếu có)
paracetamo Cho
l (khi đau)
paracetamo
l (khi đau)
1.1.5. Phịng bệnh
Để giảm tỷ lệ tử vong và mắc bệnh NKHHCT ở trẻ em, thì
cần tiến hành các biện pháp phịng bệnh sau:
- Đảm bảo nuôi trẻ bằng sữa mẹ, cho trẻ bú mẹ sau khi
đẻ càng sớm, càng tốt, ăn sam một cách khoa học đảm bảo
chế độ dinh dưỡng, đủ vitamin, đặc biệt là Vitamin A.
- Tiêm chủng đúng lịch và đầy đủ.
- Vệ sinh cá nhân và môi trường sạch sẽ, khơng đun bếp
trong nhà, khơng hút thuốc trong phịng chăm sóc và ni
dưỡng trẻ.
- Gữi ấm cho trẻ vào mùa lạnh và khi thay đổi thời tiết.
- Phát hiện sớm và xử lý kịp thời các trường hợp NKHHCT
theo phác đồ.
- Tuyên truyền giáo dục sức khỏe cho bà mẹ về cách
thực hiện, xử trí và chăm sóc trẻ khi bị NKHHCT.
1.2. Tình hình nghiên cứu kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ NKHHCT
của bà mẹ.
1.2.1. Trên thế giới
Tại một số nghiên cứu ở miền tây Nepal, năm 2006, của

Chandrashekhar, cho thấy rằng kiến thức nhận biết những
dấu hiệu nguy hiểm về NKHHCT của các bà mẹ còn rất thấp.
Khơng có bà mẹ nào biết đầy đủ các dấu hiệu nguy hiểm về
bệnh. 3,4% bà mẹ không biết bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào,
51% bà mẹ chỉ biết dấu hiệu sốt, 45,2% bà mẹ chỉ biết bệnh
11


nặng hơn, 42,5% bà mẹ biết trẻ uống kém, 29,5% bà mẹ biết
không uống được hoặc bỏ bú, 28,4% bà mẹ biết trẻ thở nhanh
và 22,3% biết trẻ khó thở. Đồng thời thấy rằng 65,8% bà mẹ
chăm sóc kịp thời, 26,4% bà mẹ chăm sóc hợp lý. Tổng hợp
lại chỉ có 11,3% bà mẹ có chăm sóc vừa hợp lý vừa kịp thời.
Một nghiên cứu có 500 trẻ em dưới 5 tuổi về tỷ lệ
NKHHCT và các yếu tố liên quan ở khu vực thành thị và nông
thôn của huyện Kancheepuram, Nam Ấn Độ của Dhananjaya
Sharma và et al (năm 2010), cho thấy tỷ lệ 27%, có 49,4% ở
nhóm tuổi 1 – 4 sau đó là trẻ sơ sinh chiếm 39,6%. Trẻ nam
chiếm 51,4% và trẻ nữ chiếm 48,6%. Đa số là các gia đình có
đạo Hindu (96%). NKHHCT được nhận thấy nhiều hơn trong số
các tầng lớp xã hội thấp (79,3%), khoảng 42,8% các bà mẹ
được giáo dục đến trường trung học, trong khi 30% khơng có
bằng cấp chính thức, những người ở nhà kutcha (52,6%), nhà
ở quá tải (63,7%), sử dụng khói để nấu ăn (67,4%), khơng khí
(70,4%), tiền sử hút thuốc của bố mẹ (55,6%), trẻ sinh nhẹ
cân (54,8%) và trẻ suy dinh dưỡng (57,8%).
Một nghiên cứu cắt ngang về sự phổ biến nhiễm trùng hô
hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi thuộc huyện Meerut, Ấn Độ của
Goel K và et al, (năm 2012) cho thấy tỷ lệ NKHHCT được tìm
thấy 52%. Tổng số có 234 trường hợp NKHHCT đã được tìm

thấy trong quá trình nghiên cứu. Số lượng các đợt NKHHCT
trung bình là 2,25 lần mỗi trẻ một năm. Theo giới tính,
53,84% là nam và 46,15% là nữ. Các trường hợp NKHHCT
được ghi nhận ở nhóm tuổi từ 1 – 4 (46,15%) và ở nhóm tuổi
này là 45,24% là nam và 47,22% là nữ. Tỷ lệ NKHHCT ở trẻ

12


em có tình trạng kinh tế xã hội thấp (35,89%), mẹ mù chữ
(49,14%), điều kiện quá tải (70,94%), không thông thoáng
(74,35%) và sử dụng Chullah khối (56,83%), suy dinh dưỡng
(26,49%), khói thuốc lá (78,20%).
1.2.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu 393 bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại thị trấn Tân
Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2005),
của Phan Ngọc Hà, cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức chung
đúng về bệnh NKHHCT là 7,9% rất thấp, bà mẹ biết về dấu
hiệu bệnh là 42% trong đó sốt, ho là biết khá cao, cịn dấu
hiệu khó thở các bà mẹ biết rất ít. Bà mẹ biết các bệnh
NKHHCT rất cao chiếm 98,2%. Biết các dấu hiệu viêm phổi
48,6%. Biết chọn nơi khám bệnh 98%, còn một số ít tự mua
thuốc uống. Biết các cho ăn khi trẻ khi trẻ bị NKHHCT chiếm
75,8%. Biết cách làm khô mủ tai đạt 63,4%. Biết cách phòng
ngừa NKHHCT đạt thấp 31,8%. Nhưng trong các biện pháp
phịng bệnh thì giữ ấm trẻ khi trời lạnh được các bà mẹ biết
đến nhiều nhất 74%, biện pháp cho bú sữa mẹ biết đến ít
nhất 22,5%, uống nhiều nước hơn bình thường khi trẻ bị sốt,
ho, yêu cầu thành viên không hút thuốc lá trong nhà 88,3%,
cho trẻ bú sữa mẹ đầy đủ 94,1%, tiêm chủng đúng quy định

97,2%. Làm sạch mũi bằng giấy thấm đạt ở mức độ dưới
trung bình là 47.5%.
Nghiên cứu của Trần Đỗ Hùng, Nguyễn Thị Đài Trang về
kiến thức chăm sóc của bà mẹ có con bị viêm phổi tại Bệnh
viện Nhi Đồng Cần Thơ (từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 3
năm 2013), kết quả cho thấy các bà mẹ nhận biết các dấu

13


hiệu viêm phổi chủ yếu là: Ho 77%, thở khò khè, thở rít 69%;
sốt 30%, khó thở 20%, thở nhanh 13%; tím tái 4 %, rút lõm
lồng ngực 1%, bỏ bú 1%. Có 96% bà mẹ biết rằng nếu trẻ bị
viêm phổi thường xuyên kèm theo không ăn uống được thì sẽ
bị sụt cân có thể dẫn đến suy dưỡng. Có 64% bà mẹ biết rằng
nên cho trẻ ăn uống hoặc bú bình thường hoặc nhiều hơn khi
trẻ bị viêm phổi, 60% bà mẹ biết nên cho trẻ ăn loại thức ăn
như bình thường hoặc bổ dữơng hơn khi trẻ bị bệnh, có 61%
các bà mẹ biết nên cho trẻ uống nước trái cây hoặc uống
thêm sữa khi trẻ bị bệnh viêm phổi. có 97% bà mẹ cho rằng
cần thiết phải theo dõi các dấu hiệu bệnh nặng khi trẻ bị ho
cảm. Có 64% bà mẹ sẽ dùng thuốc ho tây y để làm giảm ho
cho trẻ, chỉ có khoảng 7% bà mẹ dùng các loại thuốc giảm ho
đông y. Có 29% bà mẹ biết nên lau sạch mũi cho trẻ khi trẻ sổ
mũi để làm thơng thống mũi. Kiến thức về phòng bệnh cho
trẻ: giữ ấm cơ thể cho trẻ khi trời lạnh 87%, tránh tiếp xúc với
những người bị ho 74%, tránh tiếp xúc với khói bụi, khói thuốc
lá, lơng súc vật là 52% và có 32% bà mẹ nghĩ có thể phịng
bệnh cho trẻ bằng cách bú sữa mẹ, không để trẻ bị suy dinh
dưỡng.

Năm 2011 nghiên cứu của Nguyễn Thị Thơm về tình hình
NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi tại xã Mai Đình, huyện Sóc Sơn,
thành phố Hà Nội cho thấy hiểu biết của bà mẹ về dấu hiệu
NKHHCT thường gặp là: Đối với các dấu hiệu ho, hắt hơi, sổ
mũi tỷ lệ các bà mẹ biết chiếm 77,2% và 79,3%; các bà mẹ
không biết chiếm tỷ lệ rất nhỏ 1,3%. Đối với dấu hiệu thở
nhanh, thở rít các bà mẹ có biết chiếm 60,9% và 63% riêng

14


dấu hiệu rút lõm lồng ngực thì tỷ lệ các bà mẹ biết chiếm 22%
và tỷ lệ các bà mẹ không biết là 76,4%. Hiểu biết của bà mẹ
về dấu hiệu bệnh nặng cần đưa trẻ đến cơ sở y tế ngay chiếm
tỷ lệ cao nhất từ khoảng 57,8% đến 74,1%, số bà mẹ không
biết chiếm tỷ lệ từ 17,9% đến 30,8%. Hiểu biết của các bà mẹ
về biện pháp xử trí bệnh có 76,2% bà mẹ đưa con đến trạm y
tế; 32,4% tự mua thuốc về nhà chữa; 6,7% đến khám thầy
lang; 1,3% ở nhà không được xử lý gì. Hiểu biết của bà mẹ
trong việc chăm sóc trẻ tại nhà chiếm cao với tỷ lệ mẹ có thái
độ đồng ý từ 73,3% đến 80,8%.
Nghiên cứu của Lý Thị Chi Mai, Huỳnh Thanh Liêm (năm
2012) về tình hình mắc NKHHCT và một số yếu tố liên quan ở
trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Châu Thành tỉnh Trà Vinh cho thấy:
tỷ lệ NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi trong 2 tuần đầu là 36,5%. Tỷ
lệ NKHHCT ở nhóm trẻ suy dinh dưỡng là 50%. Tỷ lệ NKHHCT
ở nhóm trẻ khơng suy dinh dưỡng là 35,5%. Các bà mẹ có
kiến thức đúng về NKHHCT thì con của họ mắc bệnh (31,2%),
thấp hơn con của các bà mẹ có kiến thức khơng đầy đủ
(47,9%). Năm 2012, nghiên cứu của Hồng Văn Thìn, Đàm Thị

Tuyết về thực trạng NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi tại 2 xã huyện
Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang cho thấy tỷ lệ trẻ mắc NKHHCT ở địa
điểm nghiên cứu cịn cao (39,5%), trong đó tỷ lệ khơng viêm
phổi: Ho hoặc cảm lạnh (33,3%), viêm phổi và viêm phế quản
(5,6%), viêm phổi nặng 0,6%.
Năm 2012, Nguyễn Thị Thùy Hương, Lê Hồng Ninh có
một nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành về phịng
chống NKHHCT của bà mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện tại

15


khoa nhi bệnh viện Ninh Phước, Ninh Thuận cho thấy kiến
thức đúng về phòng chống NKHHCT là 65,3%, thái độ đúng là
96,35%, thực hành đúng là 44,3%. Nguồn thông tin bà mẹ
tiếp cận nhiều nhất là truyền hình (79,45%), nguồn thông tin
được tin cậy nhất là cán bộ y tế (68,04%). Bà mẹ có kiến thức
đúng có khả năng thực hành đúng gấp 1,71 lần bà mẹ có kiến
thức khơng đúng.
Năm 2014, một nghiên cứu của Nguyễn Xuân Lành và
cộng sự về kiến thức, sự nhận biết của các bà mẹ có con dưới
5 tuổi về bệnh viêm phổi và các yếu tố liên quan cho thấy tỷ
lệ bà mẹ có kiến thức đúng về bệnh viêm phổi là 57,1%.
Trong đó bà mẹ có kiến thức đúng về khái niệm bệnh viêm
phổi chiếm 67,1%, nguyên nhân viêm phổi chiếm 57,6%, các
yếu tố nguy cơ gây bệnh viêm phổi chiếm 54,8%, tác hại của
viêm phổi được bà mẹ biết đến với tỷ lệ cao nhất 71,9%,
phòng ngừa bệnh viêm phổi chiếm 63,8%, xử lý khi trẻ bệnh
viêm phổi chiếm 54,8%. Ty lệ bà mẹ có nhận biết đúng về các
dấu hiệu của bệnh viêm phổi là 65,7%.

Nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn và cộng sự (năm
2016) về kiến thức, thái độ và thực hành về NKHHCT của bà
mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện tại khoa nhi bệnh viện Trung
Ương Thái Nguyên cho thấy trong 385 bà mẹ được khảo sát
có biết đúng dấu hiệu NKHHCT chiếm 45,7%. Chỉ có 17,1% bà
mẹ biết đúng dấu hiệu cần đưa trẻ đi khám ngay và biết đúng
dấu hiệu bệnh nặng hơn chiếm 14,0%. 100% bà mẹ có thái độ
đúng về biện pháp phòng ngừa. Thực hành đúng về phòng
ngừa NKHHCT chiếm 88,8%. 50,1% bà mẹ thực hành đúng về

16


chọn nơi khám bệnh khi trẻ mắc NKHHCT. Thực hành đúng về
chăm sóc khi trẻ mắc bệnh chiếm 21,8%. Kiến thức, thái độ
và thực hành có mối liên quan với tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, dân tộc của bà mẹ.
Theo Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ
năm 2014 của Tổng cục Thống kê, dấu hiệu phổ biến nhất để
đưa trẻ tới cơ sở y tế là”khi trẻ bị sốt cao hơn” (90,8%). Chỉ có
4,8% cho rằng khi trẻ thở nhanh hơn và 25,5% cho rằng khi
trẻ khó thở là cần đưa ngay tới cơ sở y tế. Tỷ lệ mẹ nhận biết
ít nhất một trong 2 dấu hiệu nguy hiểm của viêm phổi cao
nhất ở Đồng bằng sông Hồng (38,8%) và thấp nhất ở Đồng
bằng sông Cửu Long (22,2%). Khả năng nhận biết này tăng
theo trình độ học vấn của người mẹ, 18,4% ở nhóm bà mẹ
khơng có bằng cấp so với 32,5% ở nhóm trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học trở lên. Nhận thức về các dấu hiệu
nguy hiểm của bệnh viêm phổi có xu hướng tăng lên theo
nhóm mức sống, của các bà mẹ Kinh/Hoa (29,3%) cao hơn

các bà mẹ nhóm dân tộc thiểu số (23,7%). Điều thú vị là
55,2% số phụ nữ được hỏi đã nêu ra các dấu hiệu khác cần
đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế (ngoài 9 dấu hiệu đã cho).
1.3. Dịch tễ bệnh NKHHCT ở trẻ em dưới 5 tuổi
1.3.1. Trên thế giới
NKHHCT có tỷ lệ tử vong cao đặc biệt là viêm phổi theo
số liệu của WHO (1990) trên toàn thế giới, hàng năm có
khoảng 14 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết (95% ở các nước đang
phát triển), trong đó có 4 triệu trẻ em chết vì NKHHCT. Nhìn
chung, tại các nước đang phát triển, NKHHCT là nguyên nhân

17


mắc bệnh hàng đầu ở trẻ em dưới 5 tuổi, là nguyên nhân đến
khám bệnh cũng như vào điều trị hàng đầu tại các tuyến y tế
và cũng là nguyên nhân tử vong làm trẻ chết nhiều nhất. Thật
vậy, nguyên nhân ước tính 12,8 triệu tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi,
1990: NKHHCT 33,4% (4,3 triệu), tiêu chảy 24,8% (3,2 triệu),
nguyên nhân khác 41,8% (5,4 triệu). Theo số liệu của WHO
năm 2000 thì các ngun nhân chính gây tử vong cho trẻ em
dưới 5 tuổi trên toàn cầu là: do suy dinh dưỡng 54%, do tử
vong chu sinh 22%, do viêm phổi 20%, do tiêu chảy 12%, do
sốt rét 8%, do sởi 5%, do HIV/AIDS 4% và do các nguyên nhân
khác 29%. Năm 2001, có 3 triệu trẻ chết do NKHHCT, chiếm
19 đến 20% số tử vong dưới 5 tuổi trên toàn cầu. Trong năm
2000 đến 2003 nguyên nhân gây ra 73% trong số 10,6 triệu
người chết mỗi năm ở trẻ em dưới 5 tuổi: viêm phổi (19%),
tiêu chảy (18%), sốt rét (8%), nhiễm khuẩn huyết (10%), sinh
non (10%) và ngạt lúc sinh (8%). Bốn loại bệnh truyền nhiễm

chiếm hơn một nửa (54%) tất cả các ca tử vong trẻ em. Năm
2006 WHO ước tính 20% số trẻ tử vong là do nhiễm trùng hơ
hấp dưới cấp tính trong đó 90% do viêm phổi. Năm 2015,
viêm phổi lấy đi tính mạng của gần một triệu trẻ em - tức là
cứ khoảng 35 giây lại có một em tử vong, nhiều hơn con số tử
vong do các bệnh sốt rét, lao, sởi và AIDS. Gần 34 triệu trẻ
em bị tử vong vì viêm phổi và tiêu chảy từ năm 2000. Nếu
khơng có sự đầu tư nhiều hơn vào các biện pháp phòng ngừa
và điều trị cơ bản, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF ước
tính rằng sẽ có thêm 24 triệu trẻ em nữa sẽ bị tử vong vì viêm
phổi và tiêu chảy cho đến năm 2030.

18


NKHHCT chiếm 30 đến 35% tổng số các bệnh. Bệnh có
tỷ lệ mắc khá cao ở các nước đang phát triển. Theo số liệu
của Wajula (1991) tỷ lệ đến khám vì NKHHCT ở Ethiopia là
25,5%, ở Batda-Iraq là 39,3%, ở Sao Paulo-Brazil là 41,8%, ở
London-Anh là 30,5%, ở Herston-Australia là 34%.Theo hội
nghị quốc tế của WHO (1997), tỷ lệ mới mắc viêm phổi ở trẻ
dưới 5 tuổi hàng năm là 3% ở nước đã phát triển và 7 – 18% ở
nước đang phát triển. Số trẻ vào bệnh viện điều trị vì NKHHCT
ở Dak-Bangladest là 35,8%, ở Rangun- Mianma 31,5%, ở
Ixlamabat – Pakistan là 33,6% và ở Nadola-Zambia là 34%.
NKHHCT khơng những có tỷ lệ mắc cao mà cịn bị mắc nhiều
lần trong một năm. Tại hội nghị Washington (năm 1991)
những số liệu sau đây đã được thông báo là số lần viêm phổi
mỗi năm trong 100 trẻ ở Gadchiroli là 13,0, ở Basse-Gambia
17,0, ở Magagua-Kenia 18,0, ở Bangkok-Thái Lan là 7,0. Trong

khi đó ở Chapel Hill-Hoa Kỳ là 3,6 và tại Seattle-Hoa Kỳ là 3,0.
Viêm phổi là nguyên nhân lớn nhất gây tử vong trẻ em
trên thế giới, giết chết 1,8 triệu trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm,
trong đó hơn 98% là ở 68 nước đang phát triển. Giám đốc
Điều hành của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF, Ann
M.Venema, cho biết: “Viêm phổi là nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi, giết chết trên 4000 trẻ mỗi
ngày”.
Với tỷ lệ mắc và tử vong cao như vậy NKHHCT sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến kinh tế gia đình cũng như là gánh nặng cho
hệ thống y tế và kinh tế đất nước vì phải tốn những khoản chi
phí lớn cho việc chăm sóc, điều trị trẻ.

19


1.3.2. Tại Việt Nam
Theo nghiên cứu được đăng tải gần đây trên tạp chí
Lancet, 5 nguyên nhân chính gây tử vong trẻ em là tử vong sơ
sinh (44%), viêm phổi (13%), tiêu chảy (9%), sốt rét (7%) và
tai nạn thương tích (5%). Cũng theo nghiên cứu này, 4 nguyên
nhân chính gây tử vong ở trẻ sơ sinh là đẻ non (15%), ngạt
(11%), nhiễm khuẩn nặng (7%) và dị tật bẩm sinh (4%).
Ở Việt Nam, NKHHCT ở trẻ em là bệnh đứng hàng đầu về
tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tỷ vong. Tại Bệnh viện Nhi đồng IThành phố Hồ Chí Minh (1981 – 1983) số trẻ vào điều trị
NKHHCT chiếm 23,3%, số tử vong là 15,9% (so với tử vong
chung) tại Bệnh viện Phú Xuyên (Hà Nội) trong 2 năm 1981 –
1982 số trẻ vào viện điều trị vì NKHHCT là 46%, tử vong do
NKHHCT chiếm 42,3% so với tử vong chung. Một điều tra tiến
hành ở 5 tỉnh phía Nam cho biết số trẻ mắc NKHHCT là 47%,

tỷ lệ tử vong do NKHHCT chiếm 40,8% so với tử vong chung.
Tại 18 xã vùng đồng bằng sông Hồng qua điều tra của Viện
lao và bệnh phổi cho thấy tử vong do NKHHCT chiếm 38,5%
so với tử vong ung (đứng hàng đầu).
NKHHCT phổ biến ở thành thị hơn là ở nông thôn, tỷ lệ
mắc bệnh ở nước ta tăng lên vào tháng 4, 5 và tháng 9, 10
(Viện lao và Bệnh Phổi 1984). Nguyên nhân có thể do yếu tố
ấm nóng, gió mùa Việt nam. Trung bình một xã 8000 dân có
1000 trẻ em dưới 5 tuổi, hàng năm sẽ có khoảng 1600 đến
1800 lượt mắc NKHHCT, trong đó khoảng 400 đến 450 lượt là
viêm phổi và khoảng 40 đến 50 lượt viêm phổi nặng. Bệnh
viện St.Paul (Hà Nội), từ 1987 – 1989: số trẻ đến khám do

20



×