Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn tín ngưỡng thờ thiên hậu ở thành phố biên hòa, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.04 KB, 84 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài “ Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa ở
thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai”. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
cơ, giảng viên Cao học Văn hóa học khóa 03 năm học 2015-2017, đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại
trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, tơi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Đậu Thị Ánh
Tuyết đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tơi hồn thành luận văn này. Tơi
xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, lãnh đạo công ty TNHH Hoa
viên Bình An và gia đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện giúp đỡ tơi
trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn này.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên do thời gian ngắn, kiến thức
cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong, q thầy cơ
hướng dẫn, đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn chỉnh. Xin chân thành
cảm ơn!
Đồng Nai, ngày 09 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Xuân Hiệp


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của bản thân. Kết quả
nghiên cứu chưa được công bố ở các nghiên cứu khác. Các dẫn luận tài liệu
sử dụng trong luận văn chân thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của
mình.
Đồng Nai, ngày 09 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Xuân Hiệp




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................2
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu .........................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................6
4.1. Đối tượng nghiên cứu ...............................................................................6
4.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................6
5. Lý thuyết nghiên cứu ..........................................................................................7
5.1. Lý thuyết chức năng (Functionalism).......................................................7
5.2. Lý thuyết lựa chọn duy lý .........................................................................8
5.3. Lý thuyết về sự biến đổi văn hóa ..............................................................9
6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu .....................................................................10
7. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................10
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ..........................................................................13
8.1. Ý nghĩa khoa học ....................................................................................13
8.2. Ý nghĩa thực tiễn.....................................................................................13
9. Bố cục đề tài .....................................................................................................14
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................................... 15
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................15
1.2 Tổng quan về Thành phố Biên Hòa và người Hoa ở Biên Hòa .....................24
Tiểu kết ................................................................................................................37
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG THỜ THIÊN HẬU CỦA NGƯỜI
HOA Ở BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI ....................................................................38
2.1. Lịch sử hình thành và kiến trúc các miếu thờ Thiên Hậu ....................... 38
2.1.1.Truyền thuyết gắn liền với tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa .....38
2.1.2. Các miếu thờ Thiên Hậu ....................................................................40
2.2. Tổ chức thờ tự và lễ hội ...............................................................................50



2.2.1.Tổ chức thờ tự ......................................................................................50
2.2.2 Lễ hội ....................................................................................................51
Tiểu kết: ...............................................................................................................60
Chương 3. BIẾN ĐỔI TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ THIÊN HẬU TẠI
BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI ...................................................................................62
3.1. Yếu tố tác động đến biến đổi các giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ
Thiên Hậu ........................................................................................................62
3.2. Các yếu tố biến động đến tín ngưỡng thờ Thiên Hậu tại Biên Hòa –
Đồng Nai...........................................................................................................64
Tiểu kết ................................................................................................................72
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................76
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 80


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai là
khoảng thời gian không nhiều nhưng đủ để tạo dựng các giá trị văn hóa
riêng cho mình, cùng với người Việt thì người Hoa và các các tộc người
khác đã góp phần làm phong phú thêm cho văn hóa vùng đất Biên Hịa
ngày nay.
Lịch sử trình hình thành phát triển vùng đất Biên Hịa Đồng Nai gắn
liền với văn hóa riêng biệt của mỗi tộc người. Trong đó, tín ngưỡng thờ
Thiên Hậu đã trở thành mạch nguồn không thể thiếu trong tổng thể nền văn
hóa của cộng đồng người Hoa.

Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu khơng ngồi mục đích là bày tỏ lòng biết
ơn đối với thần linh mà còn cầu mong các vị thần chở che, bảo vệ con
người trước những khó khăn mà cịn là sợi chỉ tâm linh gắn kết cộng đồng
người Hoa lại với nhau.
Bà Thiên Hậu trong tâm thức người Hoa, là đấng linh thiêng phù hộ
độ trì cứu giúp họ thốt khỏi khó khăn. Lễ hội vía Bà Thiên Hậu được tổ
chức vào ngày sinh Bà (23 tháng 3 âm lịch). Cộng đồng người Hoa mượn
tục thờ Thiên Hậu để thực hiện chức năng giáo dục truyền thống, định
hướng cho cộng đồng về nhân cách, đạo đức sống, quy tụ các thành viên
thành cộng đồng vững mạnh chính vì vậy tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Biên
Hòa là một trong những hạt nhân phản ánh bản sắc văn hóa người Hoa.
Hiện nay, tín ngưỡng Thiên Hậu ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai vẫn đang được duy trì một cách vững chãi, vẫn lưu truyền một cách
nhuần nhuyễn bởi cộng đồng người Hoa, tuy vậy cũng có sự biến đổi trong
hành vi tín ngưỡng. Vì vậy, tơi chọn đề tài " Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở


2

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” để làm luận văn tốt nghiệp cao học
ngành văn hóa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tín ngưỡng Thiên Hậu trong cộng đồng người Hoa thờ
Thiên Hậu tại Biên Hòa – Đồng Nai.
Lý giải những nguyên nhân tác động đến sự biến đổi trong tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa ờ Biên Hịa.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tín ngưỡng Thiên Hậu ở Biên Hịa, Đồng Nai nằm trong tổng thể tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam nói chung và khu vực Nam Bộ nói riêng, tín
ngưỡng Thiên Hậu như một đặc trưng văn hóa của người Hoa, trong đó

chứa đựng nhiều yếu tố huyền bí. Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Biên Hịa,
Đồng Nai là nét văn hóa đặc trưng người Hoa thể hiện tính cố kết cộng
đồng trong văn hóa của tâm linh người Hoa tại Biên Hịa.
Tín ngưỡng Thiên Hậu từ trước đến nay được các nhà nghiên cứu
quan tâm rất nhiều, có thể liệt kê một số cơng trình nghiên cứu như:
Trong cuốn sách Đạo Mẫu Việt Nam, nhà xuất bản tôn giáo GS.
Ngô Đức Thịnh (2010) gồm tập 01 và tập 02, trong nghiên cứu này tác giả
đã nói về tín ngưỡng thờ Mẫu. Đồng thời, tác giả đã khái quát sơ bộ về Đạo
Mẫu trong đó tín ngưỡng thờ Thiên Hậu cũng là một trong những bộ phận
của Đạo Mẫu. Tác giả đưa ra những dẫn chứng về sự hiện diện và phát
triển của Đạo Mẫu trong đời sống tín ngưỡng của ngưởi Việt từ xưa đến
nay chỉ ra các gía trị của tín ngưỡng thờ mẫu ở Việt Nam. Ngô Đức Thịnh
đã khẳng định đạo Mẫu khơng phải là một hình thức tín ngưỡng tơn giáo
đồng nhất, mà nó là một hệ thống các tín ngưỡng, trong đó ít nhất bao gồm
ba lớp khác nhau, nhưng có mối quan hệ hữu cơ và chi phối lẫn nhau, đó là
lớp tín ngưỡng thờ nữ thần, lớp thờ mẫu thần và lớp thờ mẫu tam phủ, tứ


3

phủ. Tác giả đề cập đến Nam Bộ khó phân biệt rõ rệt được hai lớp Mẫu
Thần và Nữ Thần do có sự giao lưu văn hóa và hỗn dung trong việc thờ
cúng. Riêng tín ngưỡng Thờ Thiên Hậu khơng có sự Việt hóa trong tín
ngưỡng. Tuy nhiên, khi vào Việt Nam thì Thiên Hậu khơng chỉ là vị nữ
thần bảo hộ trên biển cho ngư dân mà còn là mang nhiều chức năng khác
như cầu an trong gia đình, cầu tài lộc bn bán…
Trong cuốn sách Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ-Tín ngưỡng & tơn
giáo, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội của tác giả Trần Hồng Liên
(2003), đề cập đến nội dung nghiên cứu về văn hóa của người Hoa ở Nam
Bộ những nét đặc trưng của văn hóa người Hoa và những giao lưu và tiếp

biến văn hóa các dân tộc cùng chung sống trên cùng một điạ bàn nhưng vẫn
giữ được những nét văn hóa đặc trưng cơ bản riêng của dân tộc mình, qua
đó góp vào việc chứng minh cho xu thế hội nhập của người Hoa vào cộng
đồng chung của dân tộc Việt Nam nhưng vẫn luôn giữ lại được những nét
đặc thù của tộc người mình.
Trong bài viết Nghiên cứu tơn giáo thiết chế văn hóa tâm linh qua
tục thờ thiên Hậu của người Hoa ở Tây Nam Bộ: truyền thống và biến đổi
Trần Hồng Liên đã đề cập đến văn hóa tổ chức xã hội của người Hoa qua
tục thờ cúng Thiên Hậu từ truyền thống cho đến hiện đại. trong bài viết này
tác giả cho ta cái nhìn khái quát về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu từ tên gọi
các cơ sở thờ tự như cung/miếu/chùa tùy vào cách đặt tên theo từng địa
phương, cho đến vị trí xây dựng các miếu thờ Thiên Hậu đa phần là các
ngã ba sông, các thị trấn thị tứ, đây cũng là kiểu xây dựng phổ biến của tất
cả các miếu ở Nam Bộ. Tiếp đến là tác giả cũng bàn đến đặc đểm chung về
mặt kiến trúc của các miếu thờ bà Thiên Hậu theo từng Nhóm người Hoa
theo các Bang khác nhau. Về lễ hội, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, hoạt
động phúc lợi xã hội của được Trần Hồng Liên khai thác và đối chiếu theo


4

trật tự rõ ràng từ xưa cho đến nay. Qua đó cho ta cái nhìn đối chiếu giữa
xưa và nay, những gì biến đổi để thích nghi tồn tại, những gì giữ ngun và
biến mất.
Cơng trình nghiên cứu tơn giáo số 03-2002 của Tác giả Phan An tục
thờ cúng Bà Thiên Hậu của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, Phần
đầu Tác giả đưa ra những giai thoại về xuất thân của Bà Thiên Hậu và lý
giải vì sao bà được nhân dân tôn thờ và trở thành một tín ngưỡng thiên
liêng, Thiên Hậu là một nhân vật huyền thoại có thật của Trung Hoa. Tác
giả liệt kê tổng số miếu thờ trong thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, Bà

Thiên Hậu là vị thần chủ trong các cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng người
Hoa tại Hồ Chí Minh bởi lẽ bà gắn liền trong cuộc sống người Hoa khi du
nhập vào Việt Nam. Đồng thời, bà cũng là vị thần được phối thờ trong các
cơ sở tín ngưỡng và thờ cúng tại nhà của người Hoa ở Hồ Chí Minh. Bài
viết chỉ tập chung giới thiệu và nêu những nét cơ bản về tín ngưỡng thờ
cúng bà Thiên Hậu. Từ đây, phần nào cho ta những cứ liệu để tìm hiểu cơ
bản về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa.
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một số 04 (29) 2016, Tìm hiểu
về lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu ở cộng đồng ngư dân Sông Đốc Nguyễn
Ngọc Thơ − Dương Hoàng Lộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn tác giả cũng giới thiệu về lai lịch và xuất thân của bà Thiên Hậu và vì
sao bà được nhân dân tơn thờ. Sau đó, tác giả giới thiệu về tín ngưỡng thờ
thiên hậu ở huyện Sông Đốc tỉnh Cà Mau cũng như diễn trình của lễ hội
Thiên Hậu cùng những chức năng chính của lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu ở
cộng đồng ngư dân Sông Đốc (Cà Mau). Từ đây cho ta cái nhìn khái quát
nhất về bà Thiên Hậu ở tây Nam Bộ góp phần làm phong phú cho những
nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng Thiên Hậu.


5

Bên cạnh đó tuyển tập cơng trình nghiên cứu của tác giả Trịnh Hồi
Đức Gia Định thành thơng chí, vào đầu thế kỷ XIX, với nội dung đề cập
đến sự di dân của người Hoa và việc hình thành cảng thị Cù lao phố ở Biên
Hòa cùng với các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai – Gia Định
vào cuối thế kỷ XVII. Trong đó, Biên Hịa là một trong những cơ sở tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa được xây dựng đầu tiên ở Nam Bộ.
Tuy nhiên cơng trình này chỉ nghiên cứu các cơng trình tín ngưỡng của
người Hoa nói chung.
Bộ Biên Hịa sử lược toàn biên gồm 05 quyển của Lương Văn Lựu

(nhà nghiên cứu người Việt gốc Hoa) biên soạn và xuất bản (1972), quyển
một Trấn Biên cổ kính, quyển hai Biên Hùng oai dũng, quyển ba Đồng Nai
thơ mộng, quyển bốn Biên Hòa tân tiến và quyển năm Ba trăm năm người
Việt gốc Hoa. Hai tập Trấn Biên cổ kính và Biên Hòa oai dũng được xuất
bản năm 1972, 1973. Ba tập còn lại do nhiều nguyên nhân chưa được xuất
bản. Bộ sách là một trong những tư liệu hiếm hoi giới thiệu về vùng đất và
con người Biên Hòa – Đồng Nai.
Trong cuốn sách Miếu thờ và lễ hội làm chay ở Biên Hòa, của tác giả
Nguyễn Thị Nguyệt, nhà xuất bản đồng nai xuất bản năm 2014 cuốn sách
là một trong những tư liệu khá ít viết về người Hoa ở Biên Hòa. Miếu thờ
và lễ hội làm chay ở Biên Hòa là cuốn sách tổng hợp những tư liệu thực tế
của tác giả về vùng đất Biên Hòa Đồng Nai các miếu thờ ở Biên Hòa và lễ
hội làm chay của người hoa tại Thiên Hậu cổ miếu. Trong cuốn sách này,
tác giả miêu tả khá chi tiết tiến trình của lễ hội, các bước tiến hành lễ hội và
các nghi thức thực hiện.
Bài viết trong Ban dân Dân tộc tỉnh Đồng Nai tục thờ bà Thiên Hậu
của người Hoa ở Biên Hòa Nguyễn Thị Dung. Là bài viết viết riêng cho
tục thờ Thiên Hậu tại Đồng Nai của của Hoa. Bài viết khái quát về nhiên


6

Hậu cũng như liệt kê các cơ sở thờ cúng Bà Thiên Hậu kể cả thờ chính và
phối thờ với các vị thần linh khác ở Biên Hòa – Đồng Nai. Đồng thời,
Nguyễn Thị Dung cũng nói sơ bộ về ngày lễ vía bà 23/3 ( âm lịch) và các
vật phẩm cúng tế trong ngày vía bà.
Trong luận văn này tôi kế thừa và phát huy những nghiên cứu của
Nguyễn Thị Nguyệt về miếu thờ và lễ hội làm Chay của người Hoa tại Biên
Hịa – Đồng Nai để tìm hiểu rõ hơn về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu và qua Lễ
hội Làm Chay để nhìn nhận được nhiều biến đổi trong Tín ngưỡng thờ

Thiên Hậu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Thiên hậu của người Hoa ở
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai gắn liền với các giá trị văn hóa và các
cơng trình thờ cúng tâm linh, lễ hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khơng gian nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu thơng qua cách
thực hành tín ngưỡng ở các miếu thờ Thiên Hậu liên kết với nhau trong
thành phố Biên Hòa gồm: Miếu Cây Quăn (phường Bửu Long, thành phố
Biên Hòa), Miếu Thiên Hậu Cung (phường Hòa Bình, thành phố Biên
Hịa), và Miếu Thiên Hậu cổ miếu – Miếu Tổ sư (phường Bửu Long, thành
phố Biên Hòa), tỉnh Đồng Nai.
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động tín ngưỡng tại các miếu
thờ Thiên Hậu trong giai đoạn từ 2016 đến nay.
Chủ thể nghiên cứu: Người Hoa theo tín ngưỡng thờ Thiên Hậu
thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng.


7

5. Lý thuyết nghiên cứu
5.1. Lý thuyết chức năng (Functionalism)
Trường phái chức năng ra đời vào nữa đầu thế kỷ XX gắn liền với
tên tuổi hai nhà khoa học tương ứng với hai nhánh chính, Bronislaw
Malinowski (1884-1942) và Arthur Reginald Radcliffe-Brown (18811955). Trong đó Malinowski quan tâm đến chức năng nhu cầu của cá nhân,
mà tín ngưỡng thờ Thiên Hậu cũng chính là nhu cầu cá nhân bậc cao của
con người.
Lý thuyết của Bronislaw Malinowski nhấn mạnh đến chức năng tâm
sinh lý của lễ nghi và những phong tục khác. Ông tiếp cận văn hóa với khái

niệm “là một tổng thể bao gồm các công cụ, hàng tiêu dùng, đặc quyền
hiến pháp cho các nhóm xã hội khác nhau, tư tưởng con người, nghề thủ
cơng, tín ngưỡng và phong tục” Khái niệm về văn hóa của Bronislaw
Malinowski là lấy các khái niệm về tổng số bao hàm, liệt kê nội dung và
thêm một chút thuật ngữ kinh tế, cụm từ ưu dùng của ông là “các đặc
quyền của hiến pháp” – nhằm ám chỉ “luật lệ hay cách thức”. Do đó, lý
thuyết của B. Malinowski đưa ra một giả thuyết là “môi trường càng bất
trắc và kết quả càng bấp bênh thì con người lại càng cần đến lễ nghi phù
phép”.
Trong đề tài này, tôi vận dụng thuyết chức năng của Malinowski để
giải thích những giá trị của nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người
Hoa tại Biên Hòa nhưng tập trung ở các miếu là Miếu Cây Quăn (Bửu
Long, Biên Hịa), Miếu Thiên Hậu Cung (Hịa Bình, Biên Hòa), và Miếu
Thiên Hậu cổ miếu – Miếu Tổ sư (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa)
Quan điểm này rất có giá trị cho nghiên cứu của tơi về đặc điểm duy trì
sinh hoạt văn hóa truyền thống, duy trì nhận thức, thẩm mỹ, nhân sinh quan


8

và việc trao truyền văn hóa giữa các thế hệ trong cộng đồng người Hoa ở
khu vực đã nêu được thể hiện trong tín ngưỡng Thiên Hậu.
Với lý thuyết trên, tơi tiên liệu rằng việc duy trì sinh hoạt văn hóa
truyền thống nói chung cũng đồng thời duy trì tín ngưỡng Thiên Hậu là nhu
cầu truyền thống, thiết yếu và khơng thể mất, bởi lẽ, tín ngưỡng Thiên Hậu
như là phương tiện giao tiếp đặc biệt của họ với thế lực siêu nhiên, thỏa
mãn nhu cầu giao tiếp của họ với thần linh, thực hiện chức năng giáo dục
truyền thống, định hướng cho cộng đồng về nhân cách, đạo đức sống, quy
tụ các thành viên thành cộng đồng vững mạnh.
5.2. Lý thuyết lựa chọn duy lý

Thuyết lựa chọn duy lý ra đời vào nữa đầu thế kỷ XX gắn liền với
tên tuổi của nhà nhân học gốc Na Uy là Fredrik Barth (22/12/1928 –
24/1/2016) và hai nhà nhân chủng học Penelope Brown và Stephen
Levinson (6/12/1947). Trong đó, trong lời giới thiệu về cơng trình Các
nhóm sắc tộc và ranh giới (1969), Fredrik Barth cho rằng đối với các tộc
người thiểu số trước sự tác động một cách phổ biến và tất yếu của xã hội
hiện đại, sự mưu cầu tham gia vào các hệ thống xã hội rộng hơn để duy trì
các dạng thức mới các giá trị sẽ xảy ra tình trạng sau: “Lựa chọn cách làm
nổi bật bản sắc dân tộc và sử dụng chúng để mở ra những địa vị và mơ
hình mới” (Trích tạp chí Kinh tế xã hội Đà Nẵng: Biến đổi văn hóa tộc
người trong bối cảnh phát triển đô thị ở Đà Nẵng; Lê Anh Tuấn – Trần Đức
Sáng – Trần Đức Anh Sơn; Fredrik Barth, “Lời mở đầu”, Những ranh giới
và sự biến đổi dân tộc (Boston: Little, Brown 1969, 24).
Trong trường hợp nghiên cứu này, tôi tiên liệu rằng, cộng đồng
người Hoa ở thành phố Biên Hòa, Đồng Nai chủ động duy trì văn hóa
truyền thống theo cách riêng và đáp ứng nhu cầu cụ thể trong quá trình duy
trì sự sống của họ tại mỗi vùng, cụ thể là tín ngưỡng Thiên Hậu và tôi cũng


9

tiên liệu rằng người Hoa theo tín ngưỡng Thiên Hậu ở Biên Hòa Đồng Nai
sẽ mở ra những “ lựa chọn mơ hình mới” trong tín ngưỡng của mình. Bởi lẽ
chính bản thân họ mong muốn lưu giữ truyền thống của cha ông để lại, họ
giữ lại cách giao tiếp đặc biệt với thần linh và sử dụng chúng như một thói
quen khơng thể thiếu, nhằm duy trì bản sắc tộc người và đáp ứng nhu cầu
thực tế mà ở mỗi vùng có sự phân hóa về ngành nghề.
5.3. Lý thuyết về sự biến đổi văn hóa
Theo F.G. Bailey (1957), quá trình xã hội sẽ biến đổi dần về hình
thức và đặc trưng nếu xuất hiện một dạng lực thúc đẩy quan trọng. Con

người trong quá trình ấy tham gia như một tác nhân, biết tính tốn những
cái lợi và hại đối với bản thân mình hay gia đình mình, chính vì thế họ sẽ
điều chỉnh các thực hình sao cho phù hợp nhất với điều kiện thực tế và hữu
ích nhất. Ở một chừng mực ấy, sự biến đổi ấy trong văn hóa cũng phản ánh
sự lựa chọn duy lý vốn hiện hữu trong tâm thức mọi người dân.
Theo F. Barths (1996), quá trình sống là quá trình nhào nặn nên hình
hài xã hội, cái được nhào nặn nên phải vừa mang linh hồn, cốt cách của
truyền thống song vẫn gắn liền với hơi thở thời đại. Các thực hành trong
phong tục hôn nhân ở Việt Nam hiện tại đang trong quá trình tự thân vận
động và chuyển đổi, hình hài mới chưa định hình, song vẫn thể hiện đúng
quy luật phát triển của văn hóa dân gian.
Evans-Pritchard (1949) nhấn mạnh “Chỉ hiểu văn hóa và cấu trúc
của nó khơng thơi là khơng hiệu quả để giải thích định mệnh nhân loại.
Chúng ta cịn phải tính đến tác nhân và hành động của cộng đồng với
những sự kiện mà họ tạo nên và thúc đẩy các quá trình văn hóa - xã hội”.
Trong trường hợp nghiên cứu này tơi tiên liệu rằng người Hoa thờ
Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Đồng Nai sẽ điều chỉnh hành vi tín ngưỡng của
mình theo mức thích hợp mà cộng đồng có thể chấp nhận và phát huy tốt


10

các giá trị văn hóa trong cộng đồng của mình để duy trì nó một cách tốt
nhất.
6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Đặc điểm tín ngưỡng Thiên Hậu của cộng đồng người Hoa ở Biên
Hòa, Đồng Nai như thế nào?
Tín ngưỡng Thiên Hậu có giá trị văn hóa tinh thần như thế nào đối
với cộng đồng người Hoa Biên Hòa trong cuộc sống hiện đại?

6.2. Gỉa thuyết nghiên cứu
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa tại Đồng Nai là minh
chứng cho sự phát triển của văn hóa các tộc người tại Đồng Nai, ngày nay
khi xã hội ngày càng phát triển q trình đơ thị hóa kéo theo đó là hàng loạt
những tác động về Kinh tế Chính trị Xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu. Như vây, vấn đề nghiên cứu bảo tồn và phát huy về
tín ngưỡng thờ Thiên Hậu là hết sức quan trọng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính thơng qua q trình điền dã dân tộc học để thu thập nguồn tài liệu
cần thiết về Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu trong cộng đồng người Hoa tại
thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai, qua đó xem xét sự việc một cách khách
quan và tồn diện nhất. Trong nghiên cứu định tính, chúng tơi sử dụng và
kỹ thuật thu thập thông tin cụ thể như: Quan sát tham dự, phỏng vấn sâu,
phỏng vấn lịch sử cuộc đời và kết hợp với thu thập hình ảnh, ghi âm, ghi
nhật ký.
Kỹ thuật khảo sát
Để thu thập và xử lý thơng tin định tính hiệu quả chúng tơi đã tiến
hành khảo sát nghiên cứu với các kỹ thuật khảo sát cơ bản sau đây.


11

 Quan sát tham dự và ghi chép nhật ký
Tham gia vào sinh hoạt tính ngưỡng chung với cộng đồng tại các cơ
sở nhằm ghi chép nhật ký, lưu giữ bằng hình ảnh âm thanh những sự kiện,
hiện tượng diễn ra, các hình ảnh, ghi âm các cuộc phỏng vấn, chụp ảnh các
hoạt động, các nhân vật, hiện vật liên quan như: người coi Miếu, ban quản
trị Miếu, các sinh hoạt có liên quan đến cộng đồng, các hành vi thực hành
tín ngưỡng khác...

Đây là nguồn tài liệu quan trọng và bổ ích cho q trình nghiên cứu,
là nguồn thơng tin thứ cấp quan trọng giúp chúng tôi miêu tả lại q trình
sinh hoạt, thực hành tín ngưỡng thờ Thiên Hậu, qua đó phát hiện những
biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Hoa tại Biên Hịa – Đồng
Nai. Phương pháp này cịn góp phần kiểm chứng thơng tin, gợi mở các ý
tưởng cho các cuộc phỏng vấn, kết hợp điều tra bằng bảng hỏi trong nghiên
cứu định lượng ở các khía cạnh như: quy mơ, số người tham dự lễ , thời
gian, số người tham dự với tư cách khác...Ghi chép sinh hoạt văn hóa, kinh
tế, xã hội của cộng đồng.
Điểm nghiên cứu định tính: điểm số 01 Miếu Cây Quăn (Bửu Long,
Biên Hòa), điểm số 02 Miếu Thiên Hậu Cung (Hịa Bình, Biên Hịa), và
điểm số 03 Miếu Thiên Hậu cổ miếu – Miếu Tổ sư (phường Bửu Long,
thành phố Biên Hòa), nhằm so sánh để thấy các nét khác nhau về hành vi
tín ngưỡng của người Hoa ở các điểm trên.
 Phỏng vấn sâu
Là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu và
người cung cấp thơng tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận
thức của người cung cấp thông tin thơng qua chính ngơn ngữ của người ấy.
Phương pháp này được dùng để tìm hiểu vai trị của sinh hoạt tín ngưỡng
của cộng đồng người Hoa trong tại thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.


12

Với phỏng vấn sâu chúng tôi dự định phỏng vấn trong cộng đồng
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, cụ thể sẽ tiến hành phỏng vấn các đối
tượng khác nhau. Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu chi
tiết về vai trị của sinh hoạt tín ngưỡng đối với cộng đồng, tầm quan trọng
của sinh hoạt tín ngưỡng trong cuộc sống hiện nay của họ, họ muốn hay
khơng muốn thay đổi việc duy trì sinh hoạt đó. Vấn đề duy trì những sinh

hoạt đó trong cộng đồng, liệu thế hệ sau họ có biết cách sinh hoạt cộng
đồng như vậy hay không để đảm bảo sự kế tục truyền thống. Ghi âm cuộc
nói chuyện (nếu được sự đồng ý người được phỏng vấn).
Việc chọn mẫu để phỏng vấn sâu tôi cũng cân nhắc đến các yếu tố
như nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính.
Chọn mẫu có chủ đích: Tập trung vào Ban trì sự các miếu Thiên
Hậu trên địa bàn thành phố Biên Hịa, Đồng Nai vì Họ đại diện và am hiểu
về tín ngưỡng Thờ Thiên Hậu của người Hoa. Mỗi Ban trì sự phỏng vấn 03
người trong tổng số các ông từ Chăm coi miếu. Gồm có 03 miếu trong đó
có 02 miếu thờ chính thiên Hậu và 01 miếu phối thờ Thiên Hậu.
Chọn mẫu thuận tiện: Tập trung các hộ dân gần các miếu có theo
tín ngưỡng thờ Thiên Hậu và thường xuyên đến cúng bái tại các miếu thờ
Thiên Hâu dự kiến khoảng 20 người ( bao gồm các mạnh thường quân
nước ngoài đến hành hương).
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản: Chọn phỏng vấn ngẫu nhiên 10
người là những người đến hành lễ tại các miếu Thiên Hậu.


Phỏng vấn lịch sử cuộc đời

Đây là phương pháp phỏng vấn lịch sử qua lời kể, nó thể hiện những
trải nghiệm, những cảm xúc của của người được phỏng vấn, đặc biệt là các
thành viên cao tuổi trong cộng đồng – Ban trì sự miếu. Trong đề tài sẽ tiến
hành phỏng vẩn hồi cố thành viên của Ban quản trị và những người già lớn


13

tuổi có uy tính trong cộng đồng. Nhằm tìm hiểu về cách thức, tầm quan
trọng của sinh hoạt tín ngưỡng trong cộng đồng, tái hiện những hình ảnh

sinh hoạt tín ngưỡng qua lời kể của họ, phát hiện những biến đổi trong cách
sinh hoạt khi so sánh với các bài thông tin của các đối tượng phỏng vấn
khác (so sánh với giới trẻ, giữa người Hoa ở các Miếu để thấy sự khác biệt
về cách sinh hoạt tín ngưỡng trong thời gian gần đây và thời gian trước đó).
Bên cạnh đó sẽ so sánh, đối chiếu, kiểm tra chéo...nhằm kiểm chứng
tư liệu để hạn chế những sai sót khi thu thập thông tin.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
8.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu tín ngưỡng Thiên Hậu ở thành phố Biên Hịa,
Đồng Nai góp phần khẳng định giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Mẫu nói
chung và tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của cộng đồng người Hoa trong đời
sống văn hóa tinh thần dân tộc. Kết quả nghiên cứu đóng góp luận chứng
vào việc lý giải sự tồn tại bền vững của tín ngưỡng Thiên Hậu trong đời
sống văn hóa của Người Hoa. Sự giao lưu và tếp biến văn hóa giữa người
Việt và người Hoa, giữa các nhóm người Hoa trong q trình sinh sống ở
vùng đất Đông Nam Bộ.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên xác định vai trị ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Thiên
Hậu trong việc duy trì văn hóa truyền thống của người Hoa ở Đồng Nai
hiện nay gắn với các miếu thờ Thiên Hậu tiêu biểu.
Kết quả nghiên cứu giúp cho các cấp chính địa phương tỉnh Đồng
Nai hiểu rõ thêm về nhu cầu thực tế sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh của cộng
đồng người Hoa ở địa phương. Từ đó, có phương hướng, chính sách phù
hợp giúp người dân thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần phù hợp với việc


14

bảo tồn truyền thống, bản sắc văn hóa tộc người và sự phát triển của địa
phương.

Có thể làm tài liệu, tư liệu tham khảo cho người có nhu cầu tìm hiểu
về tín ngưỡng Thiên Hậu tại Biên Hịa – Đồng Nai.
9. Bố cục đề tài
Bố cục của luận văn “ Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa ở
thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai”. Ngồi phần mở đầu và kết luận, tài
liệu tham khảo. Phần chính luận văn bao gồm ba chương với các nội dung
như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Làm rõ các khái niệm có liên quan đến đề tài, các lý thuyết vận
dụng trong đề tài. Khái quát sơ lược về Biên Hòa và đời sống kinh tế văn
hóa xã hội của người Hoa tại Biên Hịa.
Chương 2: Đặc điểm tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa
tại Biên Hòa – Đồng Nai
Giới thiệu, phân tích và làm rõ những giá đặc điểm của tín ngưỡng
thờ Thiên tại Biên Hịa Đồng Nai. Truyền thuyết gắn liền với Tín ngưỡng
thờ Thiên Hậu và các cơng trình tâm linh, tổ chức thờ tự và lễ hội gắn liền
với tín ngưỡng thờ Thiên Hậu tại Biên Hòa – Đồng Nai.
Chương 3: Biến đổi giá trị văn hóa trong tín ngưỡng thờ Thiên
Hậu của người Hoa tại Biên Hịa
Tìm hiểu những biến đổi trong trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của
người Hoa tại Biên Hòa – Đồng Nai, để từ đó có những định hướng cho
các cấp lãnh đạo trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu .


15

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận

Khái niệm Văn hóa:
Văn hóa gắn với các mối quan hệ ứng trong xã hội như: Văn hóa
giao thơng, Văn hóa giao tiếp, Văn hóa cơng sở, trình độ văn hóa, hay văn
hóa cịn được gán với cộng đồng như: Văn hóa làng xã, Văn hóa thành thị,
văn hóa nông thôn… hay “văn” đơn giản chỉ là cái hay cái đẹp và “hóa” là
biến hóa, làm thay đổi, suy rộng ra văn hóa có phải là biến cái xấu thành
cái hay cái đẹp thì được gọi là văn hóa? có thể nói chưa có định nghĩa nào
đa dạng và phong phú như định nghĩa về văn hóa. Vậy Văn hóa thực chất
là gì ?
Theo nhà nghiên cứu ngơn ngữ học người Đức W.Wundt thì văn hóa
có nguồn gốc từ chữ Latinh “colere” sau này chuyển thành “cultura”, có
nghĩa là cày cấy, chăm sốc vun trồng, vậy văn hóa có nguồn gốc bắt nguồn
từ nơng nghiệp là chăm sóc vun trồng cho cây trồng nhưng cây trồng ờ đây
là cây trồng của tâm hồn tức nói về chăm sóc ni trồng tinh thần cho con
người để tạo nên các giá trị Văn hóa.
Trong cơng trình Primitive Culture (1871) của nhà dân tộc học người
Anh E.B Tylor, lần đầu tiên đưa ra khái niệm văn hóa ở dạng mơ tả liệt kê
các thành tố văn hóa “Văn hóa là tồn bộ phức thể bao gồm hiểu biết tri
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán những khả năng
và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của
xã hội”. Dẫn theo, Trần Quốc Vượng trong Cơ sở văn hóa Việt Nam [44,
tr. 188]. Từ năm 1871 đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa văn hóa khác


16

nhau của các nhà khoa học ra đời. Như vậy, có thể nói khái niệm về văn
hóa là khái niệm mới so với các khái niệm của các ngành khoa học khác.
Trong thập kỷ 50 của thế kỷ XX, A.L.Kreber và C.L.Kluckhon trong
cơng trình nghiên cứu của mình đã liệt kê có hơn 150 định nghĩa về văn

hóa. Cho tới nay, các định nghĩa và khái niệm về văn hóa không ngừng
tăng lên.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Phan Ngọc trong cuốn “Văn hóa Việt
Nam và cách tiếp cận mới” ông đã thống kê có hơn 400 định nghĩa về văn
hóa và con số ấy đang khơng ngừng được tăng lên.
Trần Quốc Vượng đã nói rằng: Văn hóa là sản phẩm do con người
sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội lồi người [45, tr. 17].
Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa, đa tầng, do vậy mỗi người từ
những góc độ chun mơn khác nhau hay vì những mục đích khác nhau sẽ
có những cách tiếp cận và những quan niệm hay định nghĩa khác nhau về
văn hóa nên việc mà ta thấy những định nghĩa văn hóa khác nhau là chuyện
bình thường và chấp nhận được.
Việc đồng nhất văn hóa với các định nghĩa về văn hóa thể hiện rõ
góc độ tiếp cận của người nghiên cứu, như người ta tiếp cận văn hóa từ góc
độ thích ứng mơi trường, coi văn hóa là sự rèn luyện, giáo dục, coi văn hóa
là chuẩn mực ứng xử xã hội, hay coi văn hóa là nhân cách, là tâm lý là
quan hệ,… Có loại định nghĩa về văn hóa theo quan niệm giá trị và phi giá
trị. Ngồi ra, cịn có định nghĩa khẳng định văn hóa là các giá trị do con
người sáng tạo ra và mang lại cho con người những gì tốt đẹp, cao cả, nâng
cao phẩm giá con người thì lại định nghĩa từ
Theo Đào Duy Anh: “Văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các
phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa
tức là sinh hoạt” [06, tr. 13].


17

Có thể nói định nghĩa về văn hóa rất đa dạng và phong phú. Hầu như
mỗi nhà nghiên cứu văn hóa đều có thể đưa ra những định nghĩa về văn hóa
riêng cho mình và tùy vào mục đích và hướng nghiên cứu và các nhà

nghiên cứu chọn cho mình những định nghĩa riêng. Trong luận văn này, tôi
lựa chọn cách định nghĩa “giá trị” đối với văn hóa của tác giả Trần Ngọc
Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”
[36, tr. 27]. Bởi lẽ, với định nghĩa này chứa đựng đầy đủ hai yếu tố “Vật
chất” “ tinh thần” và định nghĩa này khẳng định rõ văn hóa là những sáng
tạo của con người mang lại giá trị cho con người và chỉ có con người mới
có văn hóa. Văn hóa bao gồm cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần nó
được rút ra từ trong đời sống thực tiễn của con người trong sự tương tác với
môi trường tự nhiên và xã hội mà họ đang sống. Điều đó có nghĩa khơng
phải tất cả những cái gì con người sáng tạo ra điều là văn hóa, mà chỉ có
những cái kết tinh thành giá trị thì cái đó mới là cốt lõi của văn hóa.
Khái niệm di sản văn hóa
Khái niệm Di sản văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong
xã hội. Ngay từ sau cách mạng Pháp thì khái niệm di sản được hình thành
với ý nghĩa là tài sản của các tầng lớp quý tộc được thu thành tài sản quốc
gia và coi đó là di sản. Con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật
chất và nhu cầu tinh thần, do vậy con người cũng có hai loại hoạt động cơ
bản đó là hoạt động sản xuất ra vật chất và hoạt động tạo ra các giá tinh
thần. Di sản văn hóa cũng vậy nó như một hệ thống thường được hiểu ở hai
dạng: Văn hóa vật thể mang yếu tố về vật chất và phi vật thể mang yếu tố
về tinh thần. Khái niệm di sản được khẳng định trong Điều 1 Luật Di sản
Văn hóa số 28/2001/QH10, ngày 29/6/2001 của Quốc Hội nước Cộng Hòa


18

Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “Di sản văn hóa gồm Di sản văn hóa vật thể
và Di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch

sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Như vậy di sản văn hóa được khái quát lại là tổng thể những tài sản
văn hóa truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết
và đưa vào sử dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu và địi hỏi của hiện tại.
Di sản văn hóa vật thể là những sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học được lưu truyền lâu đời trong đời sống của các dân tộc, bao
gồm các di tích lịch sử - văn hóa, các cơng trình xây dựng kiến trúc, danh
lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật Quốc gia
Văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia. (dẫn theo Điều 1 Luật Di sản Văn hóa số
28/2001/QH10, ngày 29/6/2001 của Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam).
Văn hóa phi vật thể Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh
thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ
viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian,
lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức
về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống
dân tộc và những tri thức dân gian khác. (dẫn theo Điều 1 Luật Di sản Văn
hóa số 28/2001/QH10, ngày 29/6/2001 của Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam)


19

Tín ngưỡng Thờ Thiên Hậu cũng đã được cơng nhận là di sản văn
hóa phi vật thể nhân loại vào năm 2009.

Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một thức sinh hoạt văn hóa đặc biệt có tính tập thể phản
ánh tín ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất hay
trong việc hình dung lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội giữ một vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần và đời sống xã hội, nó chứa đựng và phản
ánh nhiều mặt của đời sống như: Kinh tế - xã hội, văn hóa, tâm lý và tơn
giáo tín ngưỡng của tộc người. Ở mỗi vùng miền khác nhau sẽ có những lễ
hội mang nét độc đáo riêng mang đậm dấu ấn của vùng miền đó.
Trong Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê (1988), NXB Khoa
học xã hội thì lễ hội được định nghĩa như sau “Lễ là hệ thống các hành vi,
tác động nhằm biểu hiện lịng tơn kính của con người đối với thần linh,
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà
bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn
giáo nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn
tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc
của từng gia đình, sự sinh sơi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng
là ước mơ bao đời của con người’’
Như vậy, lễ hội có thể chia làm 02 loại cơ bản là lễ hội truyền thống
và lễ hội hiện đại, lễ hội bản địa và các lễ hội du nhập…. xong tất cả các lễ
hội đều có hai phần chính là một phần lễ và, một phần hội. Tùy vào tính
chất của lễ hội mà người ta có thể chia ra phần lễ và phần hội như thế nào
cho hợp lý trong lễ hội.
Khái niệm tín ngưỡng và tơn giáo
Khái niệm tín ngưỡng: Khái niệm tín ngưỡng là khái niệm được sử
dụng khá phổ biến và rộng rãi trong nghiên cứu tôn giáo.Trong pháp lệnh


20

tín ngưỡng, tơn giáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 21/2014 PL –

UBTVQH ngày 18/06/2004 điều 03 khoản 1 có quy định như sau: Hoạt
động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tơn
vinh những người có cơng với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh,
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác
tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
Khái niệm tơn giáo: Trong pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội số 21/2014 PL – UBTVQH ngày 18/06/2004 điều
03 khoản 03 có quy định như sau: “Tổ chức tơn giáo là tập hợp những
người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo
một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận”
Theo cách phân loại trên thì có thể phân loại thờ Thiên Hậu là một
dạng tín ngưỡng của cộng đồng người Việt gốc Hoa chứ không phải là tôn
giáo.
Thuật ngữ giao lưu văn hóa
Thuật ngữ giao lưu văn hóa được đề cập là một thuật ngữ không mới
Thuật ngữ giao lưu văn hóa được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành
khoa học xã hội như khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học …
tức là những ngành học có đối tượng nghiên cứu là con người và văn hóa.
Tùy theo truyền thống khoa học của mỗi nước mà khái niệm giao lưu văn
hóa được diễn đạt bằng các thuật ngữ khác nhau. Các thuật ngữ này có hàm
lượng chữ nghĩa chung, nhưng mỗi thuật ngữ đều mang sắc thái khác nhau
về nghĩa. Trong tập bài giảng lý luận văn hóa của GS-TS Hồng Vinh,
trường Đại học Văn hóa TP.HCM “người Anh ưa sử dụng chữ “Cultural
change” có thể dịch là trao đổi văn hóa; người Tây Ban Nha dùng chữ
“transculturation”, nghĩa là di chuyển văn hóa; người Pháp có thuật ngữ
“Interpénétration des civilisations” là giao nhập giữa các nền văn minh;


21


người Hoa Kỳ sử dụng thuật ngữ “ Acculturation”, có thể dịch là giao lưu
văn hóa”.
Giao lưu văn hố là sự trao đổi qua lại những sản phẩm văn hóa
giữa các cộng đồng xã hội khác nhau, ở đây là giữa các cộng đồng dân tộc
– quốc gia với nhau. Sản phẩm văn hóa có thể khởi đầu là kinh nghiệm, tri
thức, gọi một cách khái quát là thông tin. Thơng tin ấy tích lũy từ q khứ
đến hiện tại, kết tinh thành các giá trị chuẩn mực xã hội, thị hiếu và sở
thích, thành truyền thống xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội, quy định
cách lựa chọn tồn tại và gắn liền nó là thế ứng xử của con người đối với
thiên nhiên, với xã hội và với bản thân. Có thể xem thế giới sản phẩm vật
thể cùng với hệ ứng xử của con người là hình thái ngoại hiện của văn hóa,
thì hệ giá trị sẽ là nội dung cơ bản của nó. Thừa nhận đơn vị cơ bản của
văn hóa là thơng tin ( dĩ nhiên là thông tin ban truyền theo con đường sinh
học) thì sáng tạo văn hóa là sáng tạo ra thơng tin mới, giao lưu văn hóa là
trao đổi thông tin làm cho hàm lượng thông tin xã hội được nhân lên vô
hạn rồi kết tinh thành ký ức xã hội và tích lũy trong mỗi con người[42,88]
Như vậy giao lưu văn hố thường diễn ra theo hai hình thức:
+ Hình thức tự nguyện: Thơng qua các hoạt động như buôn bán,
thăm hỏi, du lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hố được trao đổi trên tinh
thần tự nguyện.
+ Cịn hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến
tranh xâm lược thơn tính đất đai và đồng hố văn hoá của một quốc gia này
đối với một quốc gia khác.
Giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó
với tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa, là sự
vận động thường xuyên của văn hóa.


×