Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Xã hội học trong lãnh đạo, quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.39 KB, 62 trang )

MÔN XÃ HỘI HỌC TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Đê 1 : Đồng chí hãy làm rõ vai trị của Xã hội học đối với lãnh đạo, quản
lý trong bối cảnh phát triển đất nước hiện nay:
I. Khái niệm và đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng về nghiên cứu, hiểu xã hội và sử dụng tri thức trong điều hành quản
lý xã hội có nguồn gốc hình thành từ rất lâu, nhưng chuyên ngành khoa học xã hội
nghiên cứu về xã hội chỉ trở thành một môn khoa học độc lập vào khoảng những
năm 30 của thế kỷ XIX. Vào thời kỳ đó, đã xuất hiện hàng loạt những phát minh vĩ
đại trong khoa học tự nhiên. Đó là học thuyết về cấu trúc tế bào, quy luật bảo tồn
và chuyển hố năng lượng, học thuyết tiến hoá Darwin về sự phát triển của các loài
trong sinh học. Những thành tựu to lớn về lý thuyết cũng như thực nghiệm trong lĩnh
vực khoa học tự nhiên đã cho phép loài người hiểu được một bức tranh tổng quát về
thế giới như là một chỉnh thể thống nhất, liên hệ phổ biến và vận động theo quy luật.
Bên cạnh những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực khoa học tự nhiên là những
thành tựu trong lĩnh vực sản xuất, kinh tế và kỹ thuật cơng nghệ. Một loạt các máy
móc cơng cụ đã được sáng chế và đưa vào sản xuất thay thế dần cho lao động thủ
công, giúp con người tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động cao hơn. Cuộc
cách mạng cơng nghiệp cũng như q trình cơng nghiệp hố nơng thơn đã mang lại
những biến đổi đáng kể trong sản xuất, văn hoá xã hội, cũng như nhận thức của con
người.
Đáng tiếc là bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được trong lĩnh vực sản
xuất, khoa học tự nhiên, kỹ thuật cơng nghệ thì lại có một sự lạc hậu tương đối trong
lĩnh vực khoa học xã hội. Lối tư duy phiến diện, siêu hình, tự biện, thoát ly khỏi
thực tế sinh động của cuộc sống trong các nhà khoa học xã hội vẫn còn khá phổ biến
(đặc biệt là trong các nhà triết học tự biện lúc bấy giờ). Thực trạng này đã làm cho
các nhà khoa học xã hội khó có thể đưa ra được những kiến giải có sức thuyết phục
trước những biến đổi mạnh mẽ trong đời sống hiện thực cũng như những nhu cầu
mới của nhận thức đang đòi hỏi.
Trong bối cảnh đó, nhà khoa học người Pháp Auguste Comte (1978-1857) đã
là người đầu tiên vào năm 1838 đưa thuật ngữ "xã hội học" để chỉ một ngành khoa
học xã hội mới. Ông đã nhận thức được những hạn chế trong các khoa học xã hội


lúc bấy giờ và là người có công "tách" tri thức xã hội học ra khỏi triết học, tạo tiền
đề cho việc hình thành một khoa học mới - xã hội học với tư cách là một khoa học
độc lập.
Xã hội học (Từ sociology được cấu tạo từ hai gốc: latin: Socius và Hy lạp:
logos để có nghĩa u thích tìm hiểu về xã hội). Cùng chung khách thể nghiên cứu là
xã hội lồi người nói chung, ngành xã hội học có đối tượng nghiên cứu cụ thể và các
chủ đề nghiên cứu rộng, bao trùm cả ba cấp độ đời sống xã hội: cấp độ cá nhân; cấp
độ nhóm và tổ chức; cấp độ cộng đồng, xã hội. Ở cấp độ cá nhân (vi mô): hành vi và
hành động xã hội; ở cấp độ nhóm và tổ chức (trung mơ): nhóm xã hội, hiệp hội,
phong trào xã hội; ở cấp độ cộng đồng xã hội (vĩ mô): hệ thống xã hội, cấu trúc xã
hội, thiết chế xã hội. Với phạm vi đối tượng nghiên cứu rộng, đã xuất hiện nhiều
cách tiếp cận về khái niệm và đối tượng. Một cách tổng quát, các nhà xã hội học


châu Âu và Liên xơ thường có cách tiếp cận khái niệm thiên về vĩ mô: xã hội học
nghiên cứu hệ thống xã hội. Trong khi đó, các nhà xã hội học Mỹ thường tiếp cận
khái niệm thiên về vi mô: xã hội học nghiên cứu hành vi và tương tác của con người.
Từ khi ngành xã hội học vào Việt Nam từ những năm 70 của thế kỷ, các
nghiên cứu xã hội học đã được triển khai theo cả hai hướng tiếp cận vĩ mô - vi mô.
Một số nhà khoa học Việt Nam đã nỗ lực khoả lấp khoảng cách giữa vĩ mô và vi mô
hoặc sử dụng tiếp cận khác nhấn mạnh "tính xã hội" của xã hội trong sự phân biệt
với tính chất kinh tế, hay văn hoá, hay lịch sử...
- Xã hội học là một bộ mơn khoa học nghiên cứu "mặt" xã hội, khía cạnh xã
hội của thực tại xã hội nói chung. "Mặt" xã hội hiện diện ở tất cả các lĩnh vực của
thực tại xã hội (Nguyễn Đình Tấn, 2005)1
- Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy luật của sự nảy sinh, biến đổi và phát
triển mối quan hệ giữa con người và xã hội (Lê Ngọc Hùng, 2008)2
Các quan niệm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của xã hội học phản ánh
sự khác biệt trong nhận thức về trọng tâm nghiên cứu của xã hội học ở cấp độ lý
thuyết trừu tượng. Bên cạnh đó, sự khác biệt này không ảnh hưởng đến việc phát

triển xã hội học với tư cách là một ngành khoa học độc lập nhưng có tính liên ngành
cao và có khả năng tạo ra tri thức cả ở cấp độ lý thuyết/thực nghiệm; cấp độ khái
quát/cụ thể, cấp độ cơ bản/ứng dụng...
II. Chức năng của xã hội học
1. Chức năng nhận thức
Xã hội học cung cấp một hệ thống các tri thức bao gồm hệ thống các khái niệm
lý thuyết, các phương pháp tiếp cận nghiên cứu cũng như các phương pháp và kỹ
thuật điều tra xã hội học góp phần nghiên cứu, nắm bắt được sâu sắc hơn, đúng đắn
hơn quan hệ con người - xã hội.
Lý luận và kết quả của những cơng trình nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng
của xã hội học đã góp phần bổ sung và hồn thiện thế giới quan cho các nhà nghiên
cứu và các nhà lãnh đạo quản lý. Nghiên cứu xã hội học giúp các nhà lãnh đạo quản
lý xác định nguyên nhân, lý giải động cơ của những hành động xã hội cũng như các
biến đổi xã hội. Hàng loạt vấn đề trước đây chưa được đề cập tới hoặc bị né tránh thì
nay đã được xã hội học luận giải, phân tích một cách có sức thuyết phục.
Khi đi vào nghiên cứu những q trình xã hội, xã hội học ln có xu hướng
vạch ra những vấn đề mang tính quy luật của thực tại xã hội, luận giải và làm sáng
tỏ trạng thái và xu hướng, biến đổi trong tâm lý của quần chúng, từ đó làm cơ sở tin
cậy cho những quyết định quản lý.
.2. Chức năng thực tiễn
• Chức năng "cầu nối"
Hoạt động nghiên cứu của xã hội học, đặc biệt là những hoạt động điều tra
khảo sát có ý nghĩa như là "cầu nối" giữa các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo
1
2

Nguyễn Đình Tấn (2005). Xã hội học. NXB Lý luận chính trị
Lê Ngọc Hùng (2008). Lịch sử và lý thuyết xã hội học. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội



quản lý, các nhà sản xuất kinh doanh với thực tiễn, cơ sở với cấp dưới, với cuộc
sống với thị trường, với quần chúng nhân dân, chính từ đây mà tạo ra một quy
trình khép kín và hồn chỉnh về sự vận hành xã hội. Nó cung cấp thường xuyên
những thông tin ngược (feed back) từ cơ sở, từ thực tiễn lên các nhà lãnh đạo
quản lý làm cho các nhà lãnh đạo, quản lý cập nhật được thường xuyên những
thông tin cần thiết, kịp thời phát hiện được những mâu thuẫn, xung đột hay những
sai lệch xã hội từ đó mà tiến hành những điều chỉnh cần thiết cho hoạt động quản
lý.
• Chức năng dự báo khoa học
Trên cơ sở của những kết quả nghiên cứu điều tra thực nghiệm, phân tích lơgíc
khách quan của các sự kiện, xã hội học có thể đưa ra các dự báo khoa học, làm sáng
rõ triển vọng phát triển xa hơn nữa của các q trình xã hội. Xã hội học khơng chỉ
nhận thức thực tại xã hội, không thể quy xã hội học về thực tại học, mặc dù xã hội
học có ưu thế về mặt này; từ trong bản chất của nó xã hội học cần thiết và có khả
năng dự báo những xu hướng trong tương lai.
• Chức năng đưa ra những kiến nghị, đề xuất
Bên cạnh và đồng thời với chức năng dự báo, xã hội học còn có thể và cần thiết
phải đưa ra những kiến nghị, đề xuất lên các cấp lãnh đạo quản lý xã hội, góp phần
vào việc nâng cao tính khoa học và tính hiện thực, khả thi của các chính sách, kế
hoạch, chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các q trình quản lý.
• Chức năng đánh giá
Xã hội học cịn có thể được coi như là "cơng cụ" để đánh giá hiệu quả của công
tác quản lý. Với ý nghĩa này, xã hội học nói chung, đặc biệt là các phương pháp và
kỹ thuật điều tra xã hội học đã thực sự góp phần vào việc hồn thiện công nghệ quản
lý cho các nhà lãnh đạo và quản lý xã hội.
3. Chức năng giáo dục
Xã hội học cũng góp phần vào việc phát triển tư duy khoa học cho các nhà lãnh
đạo quản lý, nâng tư duy ở trình độ thói quen, thơng thường, kinh nghiệm lên trình
độ tư duy lý luận, tư duy khoa học.
Xã hội học cũng đồng thời góp phần bồi bổ, rèn luyện kỹ năng quản lý lãnh đạo

cho các nhà lãnh đạo, quản lý, tạo ra cho họ có một tác phong cụ thể, sâu sát với
cuộc sống, luôn bám sát và kịp thời theo dõi những trạng thái và xu hướng biến đổi
trong tư tưởng và hành vi của quần chúng, và chỉ ra những quyết định quản lý khi đã
nắm bắt được đầy đủ những luận chứng khoa học về nó.
Thơng qua những kết quả điều tra và thực nghiệm xã hội học, đặc biệt là những
kết quả đã được công bố trên báo chí, sách chuyên khảo hay các nguồn thơng tin đại
chúng khác, xã hội học đã góp phần tác động hết sức có hiệu quả đến tư tưởng của
quần chúng, cũng như có ý nghĩa giáo dục khơng nhỏ đối với quần chúng, cảnh báo
cho quần chúng những điều nên làm hay khơng nên làm; nó cũng giúp cho con
người ý thức được một cách đầy đủ hơn cả vai trị, vị trí cũng như sức mạnh sáng
tạo, từ đó có những hành vi thái độ và sự tự điều chỉnh những hoạt động của mình
sao cho phù hợp với những quy phạm chuẩn mực và các hệ giá trị của xã hội, phát


huy được tính tích cực xã hội, khắc phục được các hành vi lệch lạc, đi chệch khỏi
quỹ đạo của sự phát triển.
III. Vai trò của xã hội học trong lãnh đạo, quản lý:
Là một ngành khoa học xã hội độc lập và mang tính liên ngành cao, xã hội học
có vai trị quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý trên thế giới và ở Việt Nam.
- Xã hội học cung cấp tri thức khoa học góp phần hình thành và củng cố thế
giới quan, nhân sinh quan, cách tiếp cận và lý giải các sự kiện, tiến trình xã hội nói
riêng và xã hội nói chung.
- Các nghiên cứu xã hội học trong nhiều lĩnh vực cụ thể như: cơ cấu và phân
tầng xã hội, chính sách xã hội, dân số và gia đình...cung cấp cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý bức tranh tổng thể về thực tại xã hội và xu hướng khả năng biến đổi trong
tương lai. Ví dụ nghiên cứu xã hội học về vấn đề dân số và gia đình cho chúng ta
thấy việc giảm mức sinh, giảm đà tăng dân số và tiến tới mức sinh ổn định, quy mô
dân số ổn định và nâng cao chất lượng dân số là biểu hiện rõ nét của sự biến đổi giá
trị con trai trong gia đình và tương quan bình đẳng giới trong xã hội. Độ tuổi trung
bình khi kết hơn và sinh con đầu đã tăng mạnh, số con sinh ra đã ít hơn. Tỷ lệ giới

tính trong dân số nói chung đang ở mức cân bằng nhưng tỷ giới tính khi sinh đang
tăng một cách báo động. Gia đình Việt Nam đang chuyển từ mơ hình gia đình đa thế
hệ sang mơ hình gia đình hạt nhân. Liên kết giữa các thành viên lỏng lẻo hơn,
khoảng cách giữa các thế hệ gia tăng. Cơ cấu dân số vàng khi tương quan giữa số
lao động với số người phụ thuộc trẻ em và người già đang đạt mức cao với hai người
làm việc nuôi một người phụ thuộc. Cơ cấu dân số vàng vừa tạo ra các cơ hội tăng
trưởng kinh tế nhưng cũng đem lại nhiều thách thức về tạo việc làm cho thanh niên.
Xu hướng đơ thị hố đang tăng lên. Mức độ di cư và thay đổi chỗ ở, việc làm cũng
gia tăng. Hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội hiện đang ở trong thời kỳ
chuyển đổi. Hệ thống này vốn từ đâu dành các ưu tiên chi tiêu cho nhóm đối tượng
chính sách, tiếp đến là "vì người nghèo" sẽ phải chuyển đổi sang hệ thống bảo hiểm
và an sinh cho toàn dân nhằm trụ đỡ các nhóm dân cư trước các thay đổi dân số và
trước các biến cố sốc của thị trường.
- Phương pháp nghiên cứu xã hội học kết hợp định tính và định lượng hỗ trợ
hình thành năng lực, kỹ năng thu thập, xử lý, phân tích, đánh giá thơng tin phản hồi
từ người dân và các chủ thể liên quan trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Dựa vào
thành tựu của các nghiên cứu định lượng và một số khoa học chính xác, khoa học xã
hội cung cấp những cơng cụ lý thuyết giúp các chính phủ lựa chọn phương án tối ưu
để phát triển, tránh theo đuổi bằng mọi giá để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà
bỏ quên con người. Khoa học xã hội tư vấn ai là chủ thể hợp lý và có thẩm quyền để
giải quyết hữu hiệu các vấn đề xã hội, như việc nào là của chính phủ, việc nào là của
gia đình,...
- Kết quả nghiên cứu xã hội học cung cấp bằng chứng, luận cứ khoa học cho
việc đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, hoạch định và thực thi các
chính sách đặc biệt trong các lĩnh vực phát triển xã hội. Chính nhờ vào kết quả
nghiên cứu xã hội học cho chúng ta thấy được vai trị người dân trong q trình
chính sách dần chuyển đổi từ vai trò người hưởng lợi đơn thuần sang vai trò người
tham gia, can dự, phản biện, đánh giá và địi hỏi cơng bằng từ các quyết định chính



sách để cho cán bộ phải đổi mới mạnh mẽ để khôi phục niềm tin của người dân và
lấy sự hài lịng của người dân làm tiêu chí cao nhất cho phục vụ.
Đề 2: Đồng chí hãy trình bày hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học
và ý nghĩa đối với lãnh đạo, quản lý hiện nay ?
I. Trình bày hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học
Phương pháp nghiên cứu điều tra xã hội học là phương pháp nhằm thu thập,
xử lý phân tích thơng tin xã hội về đối tượng bao gồm các phương pháp: phân tích
tài liệu, phát vấn, phương pháp metric xã hội, phương pháp thực nghiệm, phương
pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp quan sát... Tuy nhiên, cũng có thể sắp
xếp các phương pháp trên vào hai nhóm: các phương pháp nghiên cứu định tính và
các phương pháp nghiên cứu định lượng.
Phương pháp nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính tạo thành từ các phương pháp kỹ thuật chuyên môn dùng
để tìm hiểu sâu về phản ứng từ trong suy nghĩ, tình cảm, những thơng tin về động
cơ, niềm tin, quan điểm chính kiến, những diễn biến phức tạp trong nội tâm của con
người cũng như phát hiện ra những dự định, xu hướng ẩn nấp ở phía sau của các thái
độ và hành vi ứng xử của những cá nhân hay nhóm xã hội.
Về mặt lịch sử, phương pháp nghiên cứu định tính được hình thành từ các
phương pháp nhân loại học, phê bình văn học, phân tích tâm lý. Các khái niệm cơ
bản được sử dụng trong nghiên cứu định tính là chủ đề, tình huống, động cơ, mơ típ,
kiểu loại. Dữ liệu thu được lưu lại dưới dạng ngơn ngữ, hình ảnh, âm thanh, các tài
liệu ghi chép, sao chụp, quan sát được. Nghiên cứu định tính trả lời các câu hỏi tại
sao? Tính chất thế nào?... Các phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm: nghiên
cứu thực địa, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, phân tích tài liệu, nghiên cứu trường
hợp, nghiên cứu lịch sử so sánh...
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng được xây dựng và phát triển trên cơ sở các tiền đề thực
chứng luận trong khoa học. Các yếu tố, các khái niệm cơ bản của nghiên cứu định
lượng là biến, giả thuyết, đơn vị phân tích, đơn vị đo lường, dữ liệu bằng số, xử lý
toán học đối với dữ liệu thu được và giải thích nhân - quả. Nghiên cứu định lượng

thường khảo sát những vấn đề thuộc về quy mơ, kích thước, đại lượng, con số, tỷ lệ
%. Các phương pháp nghiên cứu định lượng thường sử dụng là điều tra chọn mẫu,
thống kê, quan sát, phỏng vấn, thực nghiệm. Mục đích cơ bản của nghiên cứu định
lượng là kiểm tra giả thuyết khoa học. Điều này khác với phương pháp nghiên cứu
định tính.
- Chọn mẫu trong nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu mẫu là nghiên cứu không phải toàn bộ tổng thể mà chỉ là một bộ
phận của tổng thể, song lại có khả năng đại diện cho cái tổng thể, phản ánh sự phù
hợp với những đặc trưng và cơ cấu của tổng thể. Kết luận được rút ra từ mẫu nghiên
cứu có thể suy rộng cho cả tổng thể.
Việc lựa chọn ra một tập hợp nhỏ trong cả một tập hợp lớn sẽ cho phép cuộc


khảo sát được tiến hành nhanh hơn, rẻ hơn, chính xác hơn và tiết kiệm hơn và chỉ
cần huy động một nhóm cán bộ nhỏ giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn cao
song kết quả của cuộc khảo sát sẽ ít sai sót hơn, nghiên cứu tỉ mỉ hơn...
- Các loại mẫu
+ Mẫu xác suất (ngẫu nhiên): cho phép mỗi phần tử trong một tập hợp chúng
có cùng xác suất được lựa chọn thành đối tượng điều tra. Mẫu được luận chứng chặt
chẽ và có thể tính được mức độ đại diện, sai số mẫu.
Mẫu ngẫu nhiên đơn giản: yêu cầu của cách lấy mẫu này là phải có một danh
sách kê khai đầy đủ các thành viên của tổng thể (tập hợp tổng quát).
Mẫu ngẫu nhiên hệ thống: khi lập mẫu kiểu này, thay cho việc lấy mẫu ngẫu
nhiên đơn giản có thể chọn mẫu bằng cách lựa chọn một thành viên bất kỳ nào đó
trong bảng danh sách đã đánh số thứ tự, sau đó cứ cách một khoảng (K) ta lại chọn
một phần tử (độ lớn của K là tuỳ thuộc vào việc chúng ta chọn mẫu lớn hay nhỏ). K
được xác định bởi kết quả chia tập hợp cho số mẫu cần thiết.
Mẫu ngẫu nhiên phân tầng: nếu như nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt đến
một tiêu chí nào đó như tuổi, trình độ học vấn thì tập hợp chung sẽ được phân ra
theo các tầng (tiểu dân cư), sau đó tiến hành lấy mẫu trong từng tầng.

Mẫu ngẫu nhiên theo cụm: trong trường hợp tập hợp chung lớn và phân tán
theo các khu vực địa lý khác nhau thì nhà nghiên cứu có thể sử dụng loại mẫu này.
Mẫu nhiều giai đoạn: trong chọn mẫu loại này, việc chọn mẫu được thực hiện
qua hai hoặc nhiều bước hơn.
+ Mẫu phi xác suất: các phân tử trong tập hợp gốc khơng có cùng xác suất
được lựa chọn mẫu nghiên cứu.
Mẫu thuận tiện: mẫu được lựa chọn theo cách thức thuận tiện nhất cho nhà
nghiên cứu mà khơng cần quan tâm đến tính đại diện của mẫu.
Mẫu phân suất: tập hợp gốc được chia ra theo các tiêu chí nhất định, sau đó
mẫu được lựa chọn với số lượng cố định cho mỗi tầng sao cho tỷ lệ các nhóm phần
tử trong mẫu tương đương với tỷ lệ tại tập hợp gốc.
Mẫu lấy theo giới thiệu: các phần tử của mẫu được lựa chọn theo giới thiệu
của các phần tử khác. Sau khi điều tra trên một đối tượng, nhà nghiên cứu có thể nhờ
đối tượng này giới thiệu cho đối tượng khác để trả lời các câu hỏi. Cách thức này
cũng bị ảnh hưởng bởi sự phán đoán giả định của người giới thiệu.
* Các phương pháp nghiên cứu chính
- Phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập hoặc rút ra từ
những nguồn tài liệu các thơng tin cần thiết cho việc nghiên cứu.
Có hai loại phương pháp phân tích:


+ Phương pháp phân tích truyền thống (phương pháp phân tích định tính): theo
phương pháp này, nhà nghiên cứu phải rút ra được những nội dung tư tưởng cơ bản
của tài liệu, tìm ra những ý nghĩa hay, những cái có liên quan đến chủ đề nghiên cứu
(hạn chế của phương pháp này là nhà nghiên cứu dễ rơi vào sự phân tích chủ quan).
+ Phương pháp phân tích hình thức hố (phương pháp phân tích định lượng):
phương pháp này gắn chặt với việc phân nhóm các dấu hiệu, tìm ra những mối quan
hệ nhân quả giữa các nhóm chỉ báo (máy tính điện tử có một vai trị quan trọng
trong phương pháp này). Phương pháp này được sử dụng trong những trường hợp

phải xử lý một lượng thông tin lớn.
- Phát vấn (hay trưng cầu ý kiến)
Là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp trực tiếp bằng lời (phỏng
vấn) hoặc gián tiếp bằng câu hỏi (phương pháp ankét) hoặc bằng sự kết hợp cả hai
phương pháp đó.
+ Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thơng tin qua hỏi và đáp. Người điều tra đặt câu hỏi
cho đối tượng cần được khảo sát sau đó ghi vào phiếu hoặc sẽ tái hiện nó vào phiếu
khi kết thúc cuộc phỏng vấn. Phỏng vấn bao gồm bốn loại sau:
Phỏng vấn tiêu chuẩn hoá: là cuộc phỏng vấn được tiến hành theo một trình tự
nhất định, với mọi nội dung đã được định sẵn và dùng để hỏi các đối tượng được
phỏng vấn.
Phỏng vấn khơng tiêu chuẩn hố: là cuộc đàm thuộc tự do theo một chủ đề đã
được vạch sẵn.
Phỏng vấn sâu: là những cuộc phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia hoặc đi sâu vào
tìm hiểu một vấn đề chính trị hay kinh tế, xã hội hóc búa nào đó. Phỏng vấn sâu, kể
cả trong trường hợp phỏng vấn tiêu chuẩn hoá; tức là phỏng vấn trong điều kiện có
một bảng trả lời câu hỏi quy chuẩn cần phải tiến hành như một quá trình linh hoạt
sáng tạo.
Phỏng vấn tập trung: là cuộc phỏng vấn một nhóm người trong cùng một thời
gian và địa điểm nhằm làm sáng rõ một chủ đề nhất định nào đó. Để thực hiện thành
công các cuộc phỏng vấn sâu hay phỏng vấn nhóm tập trung cần nắm chắc và sử
dụng thành thạo ba nguyên tắc sau: nghệ thuật đặt câu hỏi, nghệ thuật lắng nghe,
nghệ thuật "biến" cuộc phỏng vấn thành một cuộc điều tra sáng tạo.
+ Ankét (điều tra bằng bảng hỏi)
Là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp qua bảng câu hỏi (phiếu tìm hiểu ý
kiến). Đặc trưng của phương pháp ankét là người ta chỉ sử dụng một bảng câu hỏi đã
được quy chuẩn, dùng để hỏi chung cho tất cả những người nằm trong mẫu điều tra
(theo một thể thức lựa chọn nhất định nào đó). Thơng thường thì người hỏi và người
được hỏi khơng tiếp xúc trực tiếp với nhau mà thông qua cộng tác viên.

- Phương pháp Quan sát
Trong nghiên cứu xã hội học, quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ


cấp về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố
có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và có ý nghĩa đối với mục đích nghiên cứu.
Quan sát phải đảm bảo có tính hệ thống, tính mục đích và tính kế hoạch.
Phương pháp quan sát được chia thành một số lại hình: Quan sát khơng có cơ
cấu hố và có cơ cấu hố, quan sát tham dự và quan sát khơng tham dự, quan sát
hiện trường và quan sát trong phòng thí nghiệm, quan sát hệ thống và quan sát ngẫu
nhiên.
* Ý nghĩa đối với lãnh đạo, quản lý hiện nay
- Thông qua hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học như phương
pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng, giúp cho nhà
lãnh đạo, quản lý nắm chắc được vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để phân tích, đánh
giá đúng thực trạng hiện nay: thành tự đạt được, những tồn tại khó khăn hạn chế
trong giai đoạn qua; thể hiện tinh thần dân chủ của cán bộ và Nhân dân trong việc
khảo sát, đánh giá lấy mẫu từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực để giải quyết
trong thời gian tới.
- Sử dụng kết quả Nghiên cứu XHH giúp lãnh đạo, quản lý xây dựng chính
sách phù hợp đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân.
- Sử dụng kết quả Nghiên cứu XHH giúp xây dựng phương án, kế hoạch
tốt để triển khai thực hiện một cách hiệu quả nhất.
- Nghiên cứu XHH giúp chúng ta hiểu hơn về quần chúng lao động, tâm tư
nguyện vọng… để có những chính sách vận động thuyết phục, sử dụng tốt nguồn
nhân lực con người trong quá trình cơng tác...v.v.
Ngồi ra anh chị liên hệ áp dụng tại cơ quan đơn vị đang công tác.
Đề 3: Bằng tri thức xã hội học và thực tiễn sinh động , đồng chí hãy làm
sáng tỏ các phân hệ cơ bản của cấu trúc Xã hội Việt Nam hiện nay.
Trả lời:

Khái niệm cấu trúc xã hội
Cấu trúc xã hội còn được gọi là cơ cấu xã hội (Social structrure) là một khái
niệm cơ bản của xã hội học. Trong các tài liệu xã hội học có rất nhiều cách định nghĩa
cấu trúc xã hội. Ví dụ, một định nghĩa này cho rằng: cấu trúc xã hội là mối liên hệ
vững chắc của các thành tố như nhóm xã hội, giai tầng xã hội, cộng đồng xã hội của
một hệ thống xã hội nhất định. Một định nghĩa khác nhấn mạnh rằng cấu trúc xã hội
là bất kỳ một khuôn mẫu nào của các hành vi xã hội và các mối quan hệ xã hội của
các yếu tố tạo nên hệ thống xã hội. Qua tìm hiểu các định nghĩa khác nhau như vậy,
có thể nêu lên một định nghĩa tổng quát ngắn gọn như sau:
Cấu trúc xã hội là cách thức tổ chức bên trong, bao gồm các kiểu quan hệ
tương đối ổn định, bền vững của các thành tố xã hội cơ bản tạo nên hệ thống xã hội.


Các phân hệ cơ bản của cấu trúc Xã hội Việt Nam hiện nay.
Theo giác độ tiếp cận nghiên cứu của Xã hội học, mỗi xã hội luôn là một hệ
thống đa cơ cấu tự nhiên. Đối với xã hội Việt Nam hiện nay, các nhà xã hội học
thường nghiên cứu sáu phân hệ cấu trúc cơ bản sau đây.
1.Cấu trúc xã hội - giai tầng
Cấu trúc xã hội giai tầng là cấu trúc các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trước đây, ở
Việt Nam nói đến cấu trúc giai cấp chủ yếu nói tới khối liên minh cơng - nơng - trí.
Cùng với tiến trình Đổi mới từ năm 1986 nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đã xuất hiện các tầng lớp xã hội mới như doanh nhân, lao
động tự do, chuyên gia kỹ thuật… Từ năm 2016 đến nay từ ngữ "giai tầng xã hội"
được chính thức sử dụng trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng.
Nghiên cứu cấu trúc xã hội - giai tầng nhằm cung cấp thông tin về các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội, dự báo xu thế biến đổi của nó và đưa ra các kiến nghị
nhằm xây dựng một cấu trúc xã hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội,
đất nước. Nghiên cứu cấu trúc xã hội giai tầng cần làm rõ các thành tố và các mối
quan hệ giữa các thành tố của cấu trúc xã hội. Cụ thể là cần làm rõ:

- Vị thế, vai trò, tương quan của các giai cấp trong xã hội,
- Tỷ trọng, tính cơ động của từng giai tầng xã hội,
- Vị trí trung tâm của một giai cấp nhất định nào đó,
- Sự liên minh của giai cấp trung tâm với các giai tầng khác
- Sự thay đổi về lợi ích, xu hướng biến đổi vị thế, vai trò của các giai tầng
trong xã hội.
Đồng thời nghiên cứu cấu trúc xã hội giai tầng hướng vào việc nghiên cứu
những giá trị, chuẩn mực trong từng giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm chỉ ra:
- Sự khác biệt với những ảnh hưởng qua lại về mặt văn hoá, lối sống và những
khuôn mẫu hành vi giữa các giai tầng trong xã hội.
- Sự chuyển dịch của một số thành viên của giai tầng xã hội này sang giai tầng
xã hội khác.
- Quan hệ nội bộ và mức độ liên minh của các giai tầng trong xã hội.
2. Cấu trúc xã hội nghề nghiệp
Cấu trúc xã hội nghề nghiệp là cấu trúc xã hội của các nhóm xã hội nghề
nghiệp, gọi ngắn gọn là nhóm nghề nghiệp của xã hội. Trong cấu trúc xã hội này có
nhóm nghề nghiệp chiếm vị thế cao trong xã hội và có vai trị to lớn đối với sự phát
triển kinh tế-xã hội. Trong xã hội nông nghiệp truyền thống ở Việt Nam trước đây
cấu trúc xã hội nghề nghiệp là " sĩ - nơng - cơng - thương", trong đó nghề nghiệp trí
thức chiếm vị trí hàng đầu, tiếp đến là nghề nơng, tiếp nữa là nghề tiểu thủ công
nghiệp và cuối cùng là nghề thương nghiệp.
Hiện nay, theo kết quả điều tra lao động, việc làm năm 2016 của Tổng cục
Thống kê, cấu trúc xã hội nghề nghiệp của Việt Nam bao gồm chín nhóm nghề


nghiệp, trong đó đứng đầu là nghề nghiệp "lãnh đạo, quản lý" chỉ chiếm khoảng 1%,
tiếp đến là nghề nghiệp "chuyên môn kỹ thuật bậc cao" chiếm khoảng 7% và đứng
cuối cùng là nghề nghiệp " lao động giản đơn" chiếm khoảng 40%. Điều quan trọng
là trong cấu trúc xã hội nghề nghiệp có một số nghề nghiệp suy giảm về số lượng và
tỉ trọng như nghề nghiệp giản đơn, nghề nghiệp nông lâm ngư nghiệp. Một số nghề

nghiệp tăng lên về cả số lượng và tỉ trọng như nghề nghiệp chun mơn kỹ thuật bậc
cao. Đặc biệt từng nhóm nghề nghiệp cũng thay đổi theo hướng chun mơn hố,
chun nghiệp hoá, định hướng thị trường và tăng hàm lượng khoa học, công nghệ
bậc cao. Đồng thời, một số nghề nghiệp mới xuất hiện thay chỗ các nghề nghiệp cũ
ví dụ các nghề nghiệp dựa vào công nghệ thông tin.
3.Cấu trúc xã hội - dân số
Cấu trúc xã hội - dân số hay còn gọi là cấu trúc xã hội - nhân khẩu là một trong
những phân hệ cấu trúc xã hội cơ bản nói lên q trình, đặc điểm phát sinh, phát triển,
cấu tạo và di biến động dân số của một quốc gia, dân tộc, vùng lãnh thổ. Khi nghiên
cứu cấu trúc xã hội - dân số, xã hội học chủ yếu tập trung vào việc phân tích các
biến số cơ bản như mức sinh, mức tử, di dân, tỷ lệ và cấu trúc của các tháp tuổi, cấu
trúc xã hội - thế hệ hoá, cấu trúc xã hội của trẻ em, của người trong độ tuổi lao động,
của người cao tuổi. Những nghiên cứu này cũng dự báo về quy mô, những đặc trưng
và những xu hướng biến đổi của cấu trúc xã hội - dân số; sự tương tác qua lại giữa
cấu trúc xã hội - dân số đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thí dụ: sự
phân phối nguồn lao động cho các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, xác
định khối lượng và cơ cấu quỹ tiêu dùng, quy mơ và tính chất của hoạt động dịch vụ,
kế hoạch xây dựng nhà ở, các doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ, những vấn đề phát
triển nông thôn, đô thị, nâng cao phúc lợi xã hội...
4.Cấu trúc xã hội - vùng miền
Cấu trúc xã hội - vùng miền. Mỗi vùng miền đặc trưng bởi một lối sống vật
chất và tinh thần, một phương thức sản xuất và các đặc điểm nhất nhất định về địa lýhành chính. Ở Việt Nam hiện nay, cấu trúc xã hội - vùng miền bao gồm các vùng địa
lý hành chính lần lượt từ phía Bắc vào phía Nam là: vùng miền núi phía Bắc bao gồm
vùng miền núi Đông Bắc và vùng miền núi Tây Bắc, vùng trung du phía Bắc, vùng
đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, vùng Tây
Nguyên, vùng đồng bằng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong
các vùng này, vùng giàu nhất là vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sơng Hồng; vùng
nghèo nhất là vùng miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Đó là sự khác biệt về
điều kiện sống, trình độ sản xuất, lối sống, đặc trưng văn hoá, mật độ dân cư, thiết
chế xã hội cũng như những đặc trưng khác về mức sống, trình độ tiêu dùng, thói

quen sinh hoạt, thị hiếu nghệ thuật, kiểu nhà ở, trang phục…
Nghiên cứu cấu trúc xã hội - vùng miền nhằm thấy được sự khác biệt giữa các
vùng, miền về trình độ phát triển sản xuất, kinh tế, văn hoá, lối sống, mức sống.
Những nghiên cứu này nhằm dự báo và kiến nghị các giải pháp kinh tế - xã hội phù
hợp với từng vùng miền để phát huy lợi thế, khắc phục hạn chế, tạo động lực cho sự
phát triển đồng đều kinh tế - xã hội ở mọi vùng của đất nước.


5.Cấu trúc xã hội - dân tộc
Cấu trúc xã hội - dân tộc được hình thành chủ yếu dựa theo dấu hiệu dân tộc
sinh sống trên một lãnh thổ nhất định. Thí dụ, cấu trúc dân tộc nước ta gồm 54 dân
tộc khác nhau cùng sinh sống trong đại gia đình Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu của cấu trúc xã hội - dân tộc là quy mô, tỷ trọng và sự
biến đổi về số lượng, chất lượng cũng như những đặc trưng, xu hướng biến đổi của
cấu trúc xã hội - dân tộc tổng thể cũng như trong nội bộ mỗi dân tộc, sự tương tác và
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giũa các dân tộc, sự tương tác và ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau giữa cấu trúc xã hội - dân tộc với các mặt khác của đời sống xã hội như kinh tế,
chính trị, văn hố..; nhịp độ, quy mô của sự phát triển xã hội, những vấn đề di dân,
tổ chức lại lao động, phân bố lại dân cư,… tiến hành kế hoạch hoá và chiến lược hợp
tác phân chia trách nhiệm giữa các dân tộc nhằm đảm bảo sự thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, về những mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội chung cho cả nước.
6.Cấu trúc xã hội - tôn giáo
Cấu trúc xã hội - tôn giáo được nhận diện chủ yếu qua dấu hiệu về tôn giáo và
chủ yếu được bộ môn xã hội học- tôn giáo nghiên cứu. Ở nước ta hiện nay bao gồm
6 tôn giáo lớn là và một số tổ chức tơn giáo mới hình thành. Nghiên cứu xã hội học
tôn giáo nhằm làm sáng rõ cấu trúc của cấu trúc xã hội - tôn giáo tổng thể, những
đặc trưng và xu hướng biến đổi của từng cấu trúc xã hội - tôn giáo bộ phận; sự tương
tác qua lại giữa các tôn giáo bộ phận cũng như sự tương tác ảnh hưởng qua lại giữa
cấu trúc xã hội - tôn giáo tổng thể với các mặt, các lĩnh vực khác trong đời sống xã
hội.

Tóm lại: các loại phân hệ cấu trúc xã hội cơ bản nói trên khơng tồn tại một
cách riêng lẻ, tách rời nhau mà luôn lồng ghép vào nhau và tương tác qua lại một với
nhau.
Câu 4: Bằng tri thức xã hội học và thực tiễn sinh động, đồng chí hãy làm
rõ vấn đề phân hóa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Để nghiên cứu về vấn đề phân hóa xã hội ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cần
bắt đầu từ vấn đề phân tầng xã hội và vấn đề này nó bao trùm nội dung phân hóa xã
hội mà chúng ta đang đề cập đến.
1.Phân tầng xã hội
a.Khái niệm
Để hiểu được khái niệm phân tầng, trước hết hãy nhận thức khái niệm tầng xã
hội. Tầng xã hội là tổng thể của mọi cá nhân trong cùng một hoàn cảnh xã hội. Họ
giống nhau hoặc bằng nhau về tài sản hay thu nhập, về trình độ học vấn hay văn hóa,
về địa vị vai trị hay uy tín xã hội, về khả năng thăng tiến trong thang bậc xã hội…
Phân tầng xã hội: là sự phân chia và hình thành cấu trúc các tầng xã hội (bao
gồm cả sự phân loại và xếp hạng); đó là sự phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội
khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, địa vị xã hội cũng như một số khác biệt


khác về trình độ nghề nghiệp, học vấn, kiểu nhà ở, phong cách sinh hoạt, cách ứng
xử, thị hiếu nghệ thuật v.v.
Phân tầng xã hội là kết quả của sự phân cơng lao động xã hội và sự bất bình
đẳng mang tính cơ cấu của tất cả mọi chế độ xã hội loài người (trừ giai đoạn đầu của
xã hội cơng xã ngun thuỷ và một số rất ít bộ lạc đang tồn tại rải rác ở một số châu
lục trên thế giới). Sự bất bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa là sự không ngang
bằng nhau giữa các thành viên, giữa các nhóm xã hội về thể chất, trí tuệ, điều kiện,
cơ may…
Trong xã hội phân tầng, ln có sự phân chia ra thành các tầng xã hội thành
các tầng lớp bên trên và tầng lớp bên dưới (với những nấc thang cao thấp khác
nhau). Phân tầng xã hội gồm cả mặt "tĩnh" và mặt "động", có cả sự ổn định tương

đối và sự cơ động do sự di chuyển của các các nhân và nhóm xã hội từ tầng này sang
tầng khác hoặc ngay trong nội bộ một tầng.
Sự phân tầng xã hội diễn ra ở bất kỳ hệ thống xã hội và cấu trúc xã hội nào.
Do vậy, ở bất kỳ một xã hội nào cũng đều có thể phát hiện thấy những hình thức,
những hệ thống cấu trúc phân tầng xã hội nhất định. Ví dụ, đội ngũ trí thức có thể
phân hố thành tầng lớp trí thức giàu có, tầng lớp trí thức trung lưu và tầng lớp trí
thức nghèo. Đồng thời có thể phát hiện thấy trong đội ngũ trí thức có tầng lớp trí
thức "có chức, có quyền" và tầng lớp trí thức chuyên nghiệp không nắm giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý nào.
Sự phân tầng xã hội luôn chứa đựng yếu tố bất bình đẳng xã hội và dẫn đến sự
phân hóa xã hội (đây là điều khơng mong muốn). Bởi vì các tầng lớp xã hội ln
chênh lệch nhau về những đặc điểm định lượng như của cải. Đồng thời trong mối
quan hệ với nhau, vị thế, vai trò của tầng lớp này luôn cao thấp khác nhau với tầng
lớp kia.
b. Các loại phân tầng xã hội
*Mơ hình phân tầng xã hội hình tháp, hình đĩa bay và hình thoi
Mơ hình phân tầng hình tháp. Đây là hệ thống phân tầng xã hội điển hình
nhất, đặc trưng nhất và phổ biến nhất của xã hội bất bình đẳng.
Mơ hình phân tầng hình đĩa bay. Hệ thống này thực chất là hệ thống chia đều
sự nghèo khổ và có nguy cơ triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế và phát triển xã
hội.
Mơ hình phân tầng hình thoi. Hệ thống này đặc trưng bởi nhiều tầng lớp xã
hội trung gian với tầng đáy và tầng đỉnh đều chiếm tỉ trọng nhỏ và khoảng cách giữa
tầng đáy và tầng đỉnh tương đối lớn.
Ở Việt Nam, hệ thống phân tầng xã hội theo thu nhập đang thể hiện mơ hình
hình tháp với khoảng cách giàu nghèo về thu nhập đang gia tăng. Trong giai đoạn
2002 - 2014, thu nhập của nhóm 20% giàu nhất so với nhóm 20% nghèo nhất đã


tăng từ 8,1 lên 9,7 lần. Nhờ chính sách xã hội khuyến khích làm giàu chính đáng đi

đơi với xố đói, giảm nghèo nên trong xã hội đã xuất hiện tầng lớp doanh nhân bắt
đầu tích luỹ tài sản số lượng lớn. Bên cạnh đó, những người làm việc trong các vị trí
lãnh đạo, quản lý, người có chun mơn cao, người sống ở đô thị được hưởng lợi
nhiều hơn từ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội so với người lao động giản đơn,
chuyên môn thấp, người sống ở nông thôn. Kết quả chuỗi nghiên cứu về Mức sống
hộ gia đình Việt Nam do tổng cục thống kê thực hiện từ năm 2002 đến 2014 cho
thấy xu hướng chung là tăng mức sống của tất cả các tầng lớp xã hội, nhưng mức
sống của người giàu tăng nhanh hơn mức sống của người nghèo.
*Phân tầng xã hội đóng và mở
Căn cứ vào phạm vi di động xã hội, có thể phân biệt hai hệ thống phân tầng
xã hội là hệ thống phân tầng xã hội đóng và hệ thống phân tầng xã hội mở.
Phân tầng xã hội đóng, cịn gọi là hệ thống phân tầng xã hội đẳng cấp đặc
trưng bởi sự di động xã hội rất hạn chế và đóng khung trong phạm vi từng tầng lớp
xã hội. Phân tầng xã hội mở, còn gọi là hệ thống phân tầng giai cấp đặc trưng bởi sự di
động xã hội diễn ra phổ biến trong từng tầng lớp và giữa các tầng lớp xã hội. Trước
năm 1986, hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam chủ yếu là "đóng" với sự di động
xã hội rất hạn chế. Từ khi Đổi mới vào năm 1986 đến nay hệ thống phân tầng xã hội
ở Việt Nam đã chuyển sang "mở" với nhiều cơ hội di động xã hội thông qua di cư
trong nước và quốc tế, thông qua các cơ hội tìm kiếm việc làm và cải thiện mức
sống của các cá nhân, gia đình và các tầng lớp xã hội. Nhiều người lao động trong
các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác nhau đã trở thành doanh nhân, nhiều nghề
nghiệp mới xuất hiện thu hút nhiều người lao động thuộc các tầng lớp xã hội khác
nhau.
*Phân tầng xã hội hợp thức và không hợp thức
Phân tầng xã hội hợp thức đặc trưng bởi sự phân hoá xã hội diễn ra phù hợp
với pháp luật, quy luật và hệ các giá trị, chuẩn mực văn hoá xã hội. Hệ thống phân
tầng xã hội hợp thức đảm bảo khuyến khích làm giàu chính đáng đồng thời chủ động
thực hiện xố đói giảm nghèo và trợ giúp xã hội cho những người có hồn cảnh đặc
biệt khó khăn. Hệ thống phân tầng xã hội tạo động lực tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phân tầng xã hội khơng hợp thức đặc trưng bởi sự phân hố xã hội diễn ra
không phù hợp với pháp luật, không phù hợp với quy luật và các hệ giá trị văn hoá
xã hội. Trong hệ thống này xảy ra trường hợp một số người tham nhũng, buôn gian,
bán lận, làm ăn phi pháp và "chưa bị lộ" có thể trở nên giàu có và chiếm những địa
vị xã hội nhất định. Phân tầng xã hội không hợp thức là kết quả của sự "phi chuẩn
mực" và lợi dụng kẽ hở của pháp luật để làm giàu bất chính. Đồng thời, một số
người trở nên nghèo khổ và gặp phải khó khăn cũng có thể là do cách làm việc thiếu
cơng khai, thiếu minh bạch và thiếu trách nhiệm của những người khác. Do vậy, từ


góc độ lãnh đạo, quản lý cần phải định hướng, điều chỉnh và tích cực, chủ động
phịng, chống mọi hình thức biểu hiện của phân tầng xã hội không hợp thức. Chính
sách khuyến khích làm giàu chính đáng đồng thời tích cực thực hiện xố đói giảm
nghèo địi hỏi phải kiến tạo hệ thống phân tầng xã hội hợp thức đồng thời đấu tranh,
phòng chống hệ thống phân tầng xã hội không hợp thức.
Theo cách tiếp cận phân tầng xã hội, cần phát huy mặt tích cực của phân
tầng xã hội trong việc tạo ra sự phong phú, đa dạng của các nhóm xã hội, các tầng
lớp xã hội. Đồng thời cần kiểm soát mặt tiêu cực của phân tầng xã hội dưới hình
thức phân hố giàu nghèo.
Thứ nhất, chính sách khuyến khích làm giàu đi đơi với thực hiện xố đói giảm
nghèo đã kiểm sốt được sự phân hố giàu nghèo với kết quả cụ thể: giảm nghèo đói
cùng cực, gia tăng tầng lớp người giàu và tăng cường tầng lớp trung lưu. Xu hướng này
sẽ còn tiếp tục cùng với mục tiêu về cơ bản trở thành nước cơng nghiệp hố theo hướng
hiện đại vào năm 2030. Xu hướng này đòi hỏi những thay đổi căn bản trong lãnh đạo,
quản lý và chính sách phát triển đất nước giai đoạn tới.
Thứ hai, phân tầng xã hội nói chung và phân hố giàu nghèo nói riêng có nhiều
ngun nhân và yếu tố ảnh hưởng. Tình trạng thất học, thiếu trình độ học vấn và thiếu
chun mơn kỹ thuật, thiếu việc làm và thất nghiệp, ốm đau và bệnh tật, thiên tai, cô
lập, mất dân chủ, bạo lực, thiếu vốn và thiếu các nguồn lực kinh tế và nhiều yếu tố khác
đều có thể dẫn đến phân hố giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.

Thứ ba, vai trị quan trọng của tầng lớp trung lưu như chỉ báo quan trọng của
tăng trưởng và phát triển bao trùm đòi hỏi nhà nước có tư duy kiến tạo và tạo cơ hội
kinh doanh khởi nghiệp cho mọi tầng lớp dân cư. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở
rộng khu vực kinh tế chính thức góp phần tạo ra thêm nhiều việc làm và hỗ trợ
người làm công ăn lương chuyển dịch và giữ vị trí trong tầng lớp trung lưu.
Thứ tư, cần thấy rằng xây dựng hệ thống phân tầng xã hội hợp thức là góp
phần thực hiện cơng bằng xã hội trên thực tế. Đồng thời, cần đấu tranh phòng chống
phân tầng xã hội không hợp thức là đấu tranh chống bất công xã hội.
- Thực hiện phân tầng xã hội hợp thức đòi hỏi quan tâm thực hiện chế độ đãi ngộ
đối với người có cơng với cách mạng, thực hiện chính sách phát triển bao trùm, bền
vững và triển khai các chính sách an sinh xã hội, trợ giúp xã hội đối với những người
có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Tạo cơ hội cho người nghèo thốt nghèo mang tính
bền vững, chuyển dịch sang nhóm cận nghèo và trung lưu lớp dưới.
- Đối với người giàu hợp thức, hợp pháp, làm ăn chính đáng, hợp với đạo lý,
pháp lý, phù hợp với thuần phong mỹ tục, chuẩn mực, giá trị của xã hội cần được biểu
dương, vinh danh đồng thời cần tạo ra những hành lang pháp lý rộng rãi, những môi
trường thuận lợi để họ tiếp tục vươn lên. Trái lại, đối với những trường hợp giàu lên
một cách bất hợp pháp, giàu lên do tham nhũng lợi ích nhóm, gây lãng phí và thất thốt


các nguồn lực của nhà nước cần bị phát hiện, lên án và đấu tranh không khoan nhượng,
trừng phạt một cách nghiêm minh trước pháp luật.
- Xây dựng hệ thống phân tầng xã hội hợp thức đòi hỏi phải đổi mới và hồn
thiện hệ thống pháp luật và chính sách nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong phân
công lao động, trả công lao động và công bằng xã hội trong phân phối lại.
2.Phân hóa xã hội Việt Nam hiện nay
Cần phải nói thêm rằng, ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ
thời kỳ quản lý kinh tế - xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên,
lúc đó sự chênh lệch giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân
tầng xã hội chưa rạch ròi, rõ nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình qn và chế độ

cơng hữu với cơ cấu giai cấp “hai giai một tầng”(giai cấp công nhân liên minh với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức). Chỉ từ sau khi đất nước bước vào cơng cuộc
đổi mới tồn diện (1986), xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, thực hiện phát triển kinh tế
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự chênh
lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng trở nên
sâu sắc. Lúc này đã xuất hiện những cơng trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân
tầng xã hội nhằm cung cấp những căn cứ lý luận và thực tiễn giúp Đảng và nhà nước
kịp thời đưa ra những định hướng chiến lược và những chính sách phát triển kinh tế
- xã hội phù hợp với thời kỳ chuyển đổi cơ chế và mô hình quản lý phát triển đất
nước.
Cách đây hơn 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế, Việt Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả
nước chỉ cịn khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như khơng cịn hộ đói. Có đến
2/3 tổng số hộ ở khu vực nơng thơn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ
khơng nhỏ số hộ cịn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh. Tuy đạt được
những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mơ số người nghèo ở Việt Nam
cịn lớn. Đáng chú ý là với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt
Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số
hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra. Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập
ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những
vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu
hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngồi ra,
cịn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang trong quá trình đơ thị
hóa và nhóm lao động nhập cư vào đơ thị, họ thường gặp khó khăn nhiều hơn và
phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những yếu tố làm gia
tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa
các vùng trong cả nước.


Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã

trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của
chúng ta cịn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã
tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi,
tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để chia
sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế ngày càng suy giảm.
Vì thế, nếu khơng nhanh chóng hồn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ, nhà nước
pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng độc
quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng nhanh.
Thách thức này đòi hỏi Nhà nước và cả xã hội, trong khi khuyến khích,
tơn vinh người làm giàu chính đáng, thì phải có biện pháp để tăng thu nhập của
người nghèo, đảm bảo hệ số chênh lệch sẽ được kiềm chế, tiến tới giảm dần khoảng
cách giàu – nghèo. Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích người giàu tham
gia vào đời sống xã hội bằng cách giảm thuế cho các đóng góp tự nguyện hoặc có
các quy định ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động từ thiện mà về lâu dài
là nhằm rút ngắn phần nào chênh lệch giàu nghèo.
Để có sự cơng bằng phải sử dụng công cụ điều tiết được mọi người
chấp nhận, khi đó người giàu khơng phải là đối tượng của sự ganh tỵ, soi mói trong
xã hội và khi họ làm trịn nghĩa vụ thì đáng được vinh danh. Cơng cụ điều tiết cơng
bằng xã hội có hiệu quả là khi tất cả mọi người đều đủ ăn đủ mặc, trẻ con được học
hành, mọi người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc, là những điều
kiện cơ bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được trả lại vị trí của nó
chỉ là sự phát sinh tự nhiên trong thời buổi thị trường.
Giải pháp cho vấn đề phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam và trong từng
khu vực, nhất là khu vực nông thôn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như
hiện nay là cần tiếp tục điều chỉnh các chính sách một cách phù hợp, xây dựng các
chính sách phát triển nơng thơn, chính sách với người nghèo thiết thực hơn theo
hướng chú trọng nhiều hơn nữa đến các vùng kém phát triển, vùng sâu vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực
nơng thơn thì cũng cần quan tâm hơn nữa tới các vấn đề về an sinh xã hội, các chính
sách liên quan đến những hộ gia đình có hồn cảnh khó khăn để có thể phát triển

khu vực nơng thơn nói riêng và cả nước nói chung tồn diện cả về kinh tế và xã hội
theo các mục tiêu thiên niên kỷ đã đề ra và phát triển một cách bền vững.

Đề 5: Bằng tri thức xã hội học và thực tiễn sinh động, đồng chí hãy làm rõ
chức năng và cơ chế hình thành, biến đổi của dư luận xã hội


Trả lời:
Khái niệm dư luận xã hội
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có thể chứng kiến những bàn luận
ở nhiều cấp độ khác nhau về những vấn đề (sự kiện, hiện tượng hoặc hành vi cụ
thể...) thu hút sự quan tâm của nhiều người. Các ý kiến thu hút đông đảo ý kiến thảo
luận thường liên quan tới lợi ích của nhóm, cộng đồng hay tồn xã hội. Các vấn đề
cũng có thể tác động đến hệ thống giá trị, chuẩn mực mang tính phổ quát trong xã
hội. Hiểu một cách rộng nhất, dư luận xã hội là sự bàn luận công khai của các thành
viên trong xã hội về những vấn đề mà họ quan tâm.
Do vậy, Dư luận xã hội với tư cách là hiện tượng xã hội đã xuất hiện và
tồn tại từ trong lịch sử xã hội loài người. tuy nhiên thuật ngữ DLXH chỉ được bắt
đầu sử dụng rộng rãi từ thời kỳ Khai sáng và tiếp theo đó là giai đoạn cách mạng tư
sản thế kỷ 18, 19 ở châu Âu. Ngày nay, với tiến trình dân chủ hóa đời sống chính trị
- xã hội, trong bối cảnh cách mang thông tin và kỷ nguyên số hóa với sự phát triển
của các phương tiện truyền thơng, DLXH càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ và
trở thành kênh thông tin quan trọng để người dân thể hiện tâm tư, ý chí, nguyện
vọng, sự phán xét, đánh giá của mình đối với các vấn đề họ quan tâm.
Là một hiện tượng phức tạp, DLXH được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau như: góc độ triết học, góc độ chính trị học, góc độ kinh tế học, góc độ tâm
lý học, góc độ xã hội học. Từ những phân tích, nghiên cứu DLXH dưới góc độ khoa
học, có thể hiểu khái niệm DLXH như sau:
DLXH là sự phán xét, đánh giá thể hiện thái độ và kỳ vọng của các
nhóm xã hội đối với các vấn đề đang diễn ra trong xã hội có liên quan đến lợi ích và

giá trị của họ; DLXH được hình thành thơng qua các cuộc trao đổi, thảo luận công
khai.
Chức năng của DLXH
Dư luận xã hội xuất hiện để thoả mãn một số nhu cầu quan trọng của xã hội.
Trong số đó có các nhu cầu thơng tin, giao tiếp, đặc biệt là nhu cầu kiểm soát xã hội,
điều chỉnh hành vi, định hướng hoạt động và bày tỏ thái độ, tình cảm của con người.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra nhiều chức năng của dư luận xã hội như chức năng
nhận thức, giáo dục tư tưởng, kiểm sốt, quản lý, dự báo, v.v. Có thể tóm tắt một số
chức năng cơ bản như sau:
Chức năng nhận thức
Dư luận xã hội có chức năng phản ánh thực tại xã hội với các hiện tượng, sự
kiện, vấn đề, q trình xã hội. Xã hội có nhu cầu nhận biết và dư luận xã hội có chức
năng đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết về sự vật, hiện tượng xảy ra. Nhờ chức
năng này mà chỉ cần lắng nghe dư luận xã hội là có thể biết được chuyện gì, vấn đề


gì đang được xã hội quan quan tâm, chú ý, bàn luận. Các nghiên cứu trước đây cũng
chỉ ra mức độ phổ biến cao của dư luận xã hội là sự ủng hộ nhất trí của các thành
viên đối với dư luận, việc các nhóm xã hội tự nguyện chấp hành đều là những bằng
chứng khi nói về chức năng nhận thức mà dư luận xã hội mang lại đối với các nhóm
xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý, sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể
đúng và cũng có thể sai. Trên thực tế dù dư luận có đúng đến mấy thì dư luận xã hội
cũng có những hạn chế nhất định vì vậy trong q trình lãnh đạo, quản lý khơng nên
tuyệt đối hoá nhận thức của dư luận. Chân lý của dư luận khơng phụ thuộc vào mức
độ, tính chất phổ biến của nó. Khơng phải trong trường hợp nào dư luận của đại đa
số cũng đúng hơn, có lý hơn khi so sánh với dư luận của nhóm thiểu số.
Chức năng định hướng và điều chỉnh hành vi
Chức năng này gắn liền với chức năng kiểm soát hành vi của con người trong
xã hội. Dư luận xã hội khi đã hình thành là kết quả biểu thị thái độ của nhóm lớn
trong xã hội, là thể hiện quan điểm, ý chí tập thể (dấu ấn cá nhân khơng cịn) nên nó

có vai trị hết sức quan trọng trong định hướng và điều chỉnh hành vi của các nhóm
trong xã hội. Trong lịch sử phát triển xã hội của loài người, ngay cả khi xã hội chưa
được phân chia thành các giai cấp thì dư luận xã hội đã thể hiện được vai trò điều
chỉnh các hành vi cá nhân và nhóm. Dư luận xã hội được các nhà quản lý dùng như
một công cụ để quản lý cộng đồng từ buổi bình minh của lịch sử lồi người.
Dư luận xã hội ln tìm cách hướng đến các cá nhân và nhóm thực hiện
những khn mẫu hành vi được phép và định hướng ngăn cản những hành vi sai
lệch chuẩn mực xã hội. Dư luận xã hội cổ vũ, khích lệ những hành vi phù hợp với
các giá trị chuẩn mực, đồng thời lên án, trừng phạt những hành vi vi phạm chuẩn
mực xã hội để từ đó hướng đến điều chỉnh những hành vi của cá nhân và nhóm sao
cho phù hợp với các giá trị, chuẩn mực chung của xã hội. Mặt khác, dư luận xã hội
tác động tới việc xây dựng nhân cách của con người thông qua q trình xã hội hố
cá nhân. Sự đánh giá, phán xét của dư luận xã hội thường dựa trên các giá trị, chuẩn
mực hiện tồn. Chẳng hạn, dư luận xã hội kiểu trọng nam khinh nữ luôn đề cao giá trị
con trai nên đã định hướng cho nhiều cặp vợ chồng sinh con trai. Nhưng nhờ dư
luận xã hội về trao quyền và bình đẳng giới, định hướng giá trị coi con gái cũng như
con trai nên đã điều chỉnh hành vi kế hoạch hố gia đình của các cặp vợ chồng, cụ
thể là không lựa chọn thai nhi theo giới tính.
Chức năng giải toả tâm lý-xã hội
Dư luận xã hội ln phản ánh tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của các các
nhân trong cộng đồng. Dư luận xã hội là diễn đàn, là cơ hội để các cá nhân được bày
tỏ, chia sẻ quan điểm, ý kiến của mình trước các vấn đề chung của quốc gia. Đồng
thời cũng là cầu nối để bày tỏ tình cảm, giải toả giải toả tâm lý - xã hội giảm bớt
được các căng thẳng, xung đột trước các vấn đề.


Chức năng tư vấn và giám sát
Bản chất của dư luận xã hội bao hàm những lời khuyên cho các các quan chức
năng về cách thức, phương pháp giải quyết các vấn đề mà dư luận đề cập đến.
Thông qua dư luận xã hội để Đảng và Nhà nước lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện

vọng của công dân. Dư luận xã hội được nhìn nhận là cơ hội để cơng chúng thể hiện
những ý kiến của mình về những vấn đề chung của cộng đồng xã hội. Trên thực tế
chúng ta thấy tâm trạng xã hội căng thẳng, bức xúc của các nhóm đều khơng có lợi
cho cơng tác điều hành, quản lý đất nước. Bởi vậy, Đảng, Chính phủ ln tạo điều
kiện để người dân góp ý vào các bản dự thảo Luật, Hiến pháp, Văn kiện của Đảng...
Thông qua dư luận xã hội được coi như một kênh tư vấn quan trọng từ người dân
đến với chính phủ để góp phần hồn thiện, thực thi chính sách và pháp luật. Tuy
nhiên, việc chọn giải pháp nào hoàn tồn phụ thuộc vào các cơ quan chức năng của
chính phủ chứ không phải của dư luận xã hội. Đối với nhiều trường hợp cụ thể việc
hành động theo dư luận xã hội sẽ tạo cho họ cảm giác an tồn, khơng bị cơ lập về xã
hội, tạo được những đồng thuận cao trong xã hội. Thông qua dư luận xã hội, họ phán
xét đánh giá về các chủ trương, chính sách lớn của đất nước và hoạt động cụ thể của
bộ máy chính quyền. Đặc biệt thơng qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các nhóm xã hội
chất vấn các hoạt động của các cơ quan công quyền. Dư luận xã hội học thực hiện
chức năng kiểm soát, kiểm tra khơng chính thức bộ máy nhà nước và cán bộ lãnh
đạo cao cấp giám sát hoạt động của họ có phù hợp với lợi ích tập thể hay khơng phát
hiện ra những vấn đề để kịp thời tư vấn các cơ quan chức năng thực hiện tốt nhiệm
vụ.
Cơ chế hình thành, biến đổi dư luận xã hội
Cơ chế truyền tin
Theo cơ chế này, dư luận xã hội hình thành trong quá trình truyền tin từ người
này sang người khác. Cá nhân thiếu thơng tin, ln có nhu cầu tìm kiếm thông tin và
bổ sung thông tin, họ phải trao đổi thông tin với nhau và học hỏi lẫn nhau kết quả
của quá trình truyền tin này là hình thành dư luận xã hội.
Cơ chế truyền tin cho biết dư luận xã hội hình thành qua bốn giai đoạn lần
lượt là: (i) tiếp cận thơng tin, (ii) hình thành ý kiến cá nhân, (iii) trao đổi ý kiến cá
nhân, (iv) tổng - tích hợp và thể hiện ý kiến chung của các cá nhân. Cụ thể ở giai
đoạn thứ nhất, cá nhân tiếp cận nguồn tin và có ý kiến nhất định nào đấy. Ở giai
đoạn thứ hai cá nhân có nhu cầu truyền tin, bày tỏ ý kiến cho người khác cùng biết.
Ở giai đoạn thứ ba các cá nhân trao đổi, chia sẻ ý kiến với nhau tạo thành những ý

kiến chung. Ở giai đoạn thứ tư, các cá nhân truyền ý kiến chung đã được chia sẻ cho
người khác biết. Từ đây hình thành các luồng dư luận xã hội nhất định nào đó.
Cơ chế truyền tin cho biết vai trị đặc biệt quan trọng của thơng tin: nếu không
tiếp cận được thông tin và không được truyền thơng tin thì khó có thể hình thành dư
luận xã hội.


Cơ chế giải quyết vấn đề
Theo cơ chế này, dư luận xã hội hình thành trong quá trình giải quyết vấn đề
nhất định nào đấy mà xã hội quan tâm. Cơ chế giải quyết vấn đề cho biết ở đâu xuất
hiện vấn đề xã hội bức xúc thì ở đó rất có nhiều khả năng hình thành dư luận xã hội.
Bởi vì dư luận xã hội là một cách thức giải quyết vấn đề xã hội và thông qua dư luận
xã hội các cá nhân, các nhóm xã hội tham gia giải quyết vấn đề xã hội bức xúc đối
với họ. Theo Daniel Yankelovich, N. Foote và C. Hart và một số nhà nghiên cứu
khác, dư luận xã hội là một cách thức đặc biệt mà các cá nhân, nhóm xã hội sử dụng
để định hướng giải quyết vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của họ.
Theo cơ chế giải quyết vấn đề, dư luận xã hội hình thành lần lượt qua một số
giai đoạn như sau: (i) gây chú ý: trong giai đoạn này vấn đề nhất định nào đó gây
chú ý, thu hút sự chú ý của một số người nhất định, hoặc đơn giản là một số người
chú ý đến một vấn đề nhất định nào đó. (ii) tăng cường tính cấp thiết của vấn đề.
Trong giai đoạn này những người đã chú ý đến vấn đề, phát hiện ra vấn đề nhất định
nào đó thường tìm cách thu hút những người khác quan tâm tới vấn đề đó. Nhờ vậy
mà tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề được tăng lên và lan rộng trong xã hội. (iii)
tìm kiếm các lựa chọn: trong giai đoạn này mọi người bàn bạc, chia sẻ, thảo luận các
ý kiến khác nhau bao gồm cả đề xuất các quan điểm giải quyết khác nhau đối với
vấn đề cấp thiết đang đặt ra.. (iv) Suy nghĩ sâu sắc về các vấn đề: trong giai đoạn
này những ý kiến cực đoan thường tìm cách dung hồ hoặc tạm thời nhường chỗ cho
những ý kiến đưa ra những giải pháp hợp lý, khả thi… (v) Cân nhắc sự lựa chọn;
(vi). Lựa chọn quan điểm: đưa ra các phản xét, đánh giá chung...
Ở cuối giai đoạn này, nếu vấn đề xã hội cấp thiết được giải quyết thoả đáng thì

sẽ khơng cịn dư luận xã hội về nó nữa. Nhưng nếu vấn đề đó chưa được giải quyết
hoặc giải quyết khơng thoả đáng thì dư luận xã hội về nó có thể sẽ thay hình đổi
dạng hoặc đơn giản là tạm thời lắng xuống chờ điều kiện, cơ hội phù hợp sẽ lại bùng
phát.
Như vậy, cơ chế giải quyết vấn đề cho thấy dư luận xã hội xuất hiện để góp
phần giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. Do vậy, cán bộ lãnh đạo quản lý lắng
nghe dư luận xã hội sẽ nắm bắt được vấn đề xã hội bức xúc và tham khảo được các
biện pháp, giải pháp hoặc các đề xuất cách giải quyết vấn đề đặt ra. Ví dụ: có thể
phân tích các luồng dư luận xã hội về các trạm thu phí BOT để tham khảo cách giải
quyết vấn đề đặt ra đối với các trạm thu phí này và đối với cả cách thực hiện BOT.
Tính biến đổi của DLXH
Dư luận có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến đổi, phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Đối với những sự kiện, hiện tượng hay quá trình quen thuộc, dư luận
xã hội thường rất bền vững. Ví dụ cho tính chất này là con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta. Đã có thời kì, có nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này, nhưng đa



×