Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chức năng tổ chức quản lí của nhà nước xhcn trong lĩnh vực kinh tế của nước cộng hòa xhcn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.98 KB, 18 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuối thế kỉ XX, trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế-xã hội, các nước
XHCN đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường. Dù với phương thức chuyển đổi khác nha, những bước đi và mức độ thành công
khác nhau nhưng thực tế cho thấy những kết quả tốt hơn so với trước khi chuyển đổi.
Đó là sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phục hồi và bước đầu tăng trưởng
kinh tế; các thể chế của nền kinh tế thị trường đã dâầndần hình tha nhf và phát huy tác
dụng tích cực song song với việc chuyển đổi hệ thống pháp luật và thiết chế Nhà nước;
từ nội dung đén phương thức quản lí kinh tế ở các nước đã được chuyển đổi. Tuy không
phải tất cả các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạchhóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường đều giữ định hướng XHCN nhưng từ thực tiễn của công cuộc chuyển đổi
sang nền kinh tế thị truờng ở một số nước, có thể rút ra được những vấn đề chung như
sau:
Một là khơng thể có một mơ thức đồng nhất và giản đơn cho mọi nước trong
chuyển đổi. Hai là Nhà nước đóng vai trị rất quan trọng và tích cực trong q trình cải
cách chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng của chính sách Nhà nước cũng như
sự điều tiết có hiệu quả của Nhà nước mới có ý nghĩa quyết định sự thành công của
công cuộc chuyển đổi (Xem: Nguyễn Minh Tú, Về mơ hình chuyển đổi kinh tế của một
số nước và định hướng vận dụng ở VIệt Nam,Nxb Chính trị Quốc gia,h.1997,tr.24, 4950). Ba là quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường địi hỏi sự đồng bộ khơng
phải chỉ trong các chính sách kinh tế mà cịn cả hệ thống thể chế, cơ cấu xã hội, những
thiết chế Nhà nước và hệ thống lập pháp (Xem Mười vấn đề lớn về kinh tế hiện đại,
Viện NCQLTƯ, H.1995,tr.66).
Như vậy, với những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trên thế giới như
đã nêu trên, có thể thấy cuộc tìm kiếm mơ hình kinh tế hợp lí và chức năng đích thực
của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế ở các nước từ xưa đến nay vẫn đang tiếp tục. Mỗi
mơ hình kinh tế cũng như mỗi lí thuyết kinh tế ở các nước đều có những yếu tố hợp lí
và những giá trị tham khảo nhất định; đặc biệt là vấn đề chức năng tổ chức, quản lí của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại và chức năng của Nhà nước XHCN
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
truờng là những vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đó cũng chính là cơ sở lí luận và thực tiễn trong lịch sử quốc tế cho việc nhận


thức vai trò và chức năng tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hịa XHCN Việt
Nam.Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của nước ta trong giai đoạn đầu của thời kì
quá độ, tổng kết việc tổ chức và quản lí kinh tế trong thời gian qua, Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ VI đã khẳng đinh “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính
sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm
tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất”.Tư tưởng chỉ đạo đó
thể hiện trong các chính sách và biện pháp lớn chỉ đạo nội dung của chức năng tổ chức
và quản lí kinh tế của Nhà nước ta.
Trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu chức năng tổ chức, quản lí của
nhà nước XHCN trong lĩnh vực kinh tế của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.


B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Một số khái niệm cần biết liên quan đến vấn đề chức năng tổ chức, quản lí
kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Cuộc sống xã hội bao gồm rất nhiều lĩnh vực vận động. Các lĩnh vực ấy đều cần
có sự tác động của nhà nước-sự tác động được thực hiện dưới những hình thức và mức
độ khác nhau. Mỗi lĩnh vực ấy có những quy luật vận động đặc thù, do vậy đòi hỏi ở
nhà nước một sự tác động cũng đặc thù, phù hợp với tùng đặc điểm của từng lĩnh
vực.Sự hình thành các lĩnh vực khác nhau với những đặc trưng khác nhau của xã hội xã
hội chủ nghĩa quy định những phương hướng hoạt động khác nhau của nhà nước, mà
mỗi phương hướng hoạt động đều nhằm vào các mục tiêu và nhiệm vụ đang được đặt ra
bởi sự phát triển khách quan của đời sống trong từng lĩnh vực cụ thể. Đó có thể là lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội,có thể là lĩnh vực thuộc đời sống xã hội trong
nước hoặc thuộc quan hệ với các quốc gia bên ngoài.Các phương hướng hoạt động cơ
bản của nhà nước trong khoa học pháp lí được gọi là các chức năng của nhà nước .
Chức năng của Nhà nước thể hiện các yêu cầu của đời sống xã hội với Nhà nước,
thể hiện năng lực thực tế, những giới hạn hợp pháp của hoạt động Nhà nước. Chức
năng của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà

nước đối với xã hội.
Nếu quan niệm đời sống xã hội tồn tại những lĩnh vực khác nhau thì chức năng
của Nhà nước cũng được phân chia thành các chức năng khác nhau. Trên cơ sở sự phân
chia đời sống xã hội thành hai lĩnh vực lớn là chính trị, kinh tế-xã hội, ta có thể nhận
thức chức năng kinh tế của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai
trò của Nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy, từ phạm trù chức năng
của Nhà nước với ý nghĩa là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối
với đời sống xã hội, có thể hình thành trên phạm trù chức năng kinh tế của Nhà nước
nói chung như là bộ phận của khái niệm chức năng Nhà nước.Chức năng kinh tế của
Nhà nước cũng là thể thống nhất giữa các dấu hiệu phản ánh nhu cầu khách quan của
đời sống kinh tế, năng lực thực tế của bộ máy nhà nước và phạm vi hoạt động hợp pháp
của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế.
Tổ chức quản lí kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt của bất kì Nhà
nước XHCN nào. Nội dung của chức năng tổ chức và quản lí kinh tế của Nhà nước
XHCN rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần giải quyết, trong đó
cơng tác kế hoạch hóa, xây dựng và hồn thiện quan hệ sản xuất XHCN và cơ chế quản
lí là những vấn đề then chốt.
Vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương hướng (hay
phương diện, mặt) hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu nhiệm
vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng XHCN.
Vai trị của nhà nước rất quan trọng và khơng thể thiếu vắng trong mỗi mơ hình
kinh tế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là những cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò kinh tế
của Nhà nước trong bước chuyển từ nền kinh tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam cần phải được làm sáng tỏ từ mối quan hệ giữa
Nhà nước và kinh tế thông qua phạm trù chức năng kinh tế của Nhà nước XHCN. Chức
năng kinh tế của nhà nước XHCN nói chung là hoạt động của nhà nước thể hiện vai trò
của nhà nước đối với nền kinh tế xã hội .Chúng ta có thể khái quát những vấn đề thuộc


về lí luận chức năng kinh tế của nhà nước XHCN Việt Nam thành những điểm nhận xét

sau:
1.Lịch sử kinh tế cũng như lịch sử nhà nước ở các nước trên thế giới và ở Việt
Nam qua những thời địa với những mơ hình kinh tế khác nhau là lịch sử xác định vai
trò kinh tế của nhà nước đồng thời cũng là lịch sử tìm kiếm sự tối ưu trong các chính
sách kinh tế của nhà nước .Dựa trên cơ sở kinh tế chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
nhà nước XHCN có chức năng quản lí nền kinh tế một cách có kế hoạch và chức năng
này đã từng được coi là chức năng đặc thù của nhà nước XHCN. Tuy nhiên, trong thời
kì quá độ, với những bước quanh co của lịch sử, CNXH hiện thực đang phải chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa .Trong điều kiện đó thì vai trị kinh tế của nhà nước XHCN nói chung và của nhà
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa VIệt Nam nói riêng khơng giảm đi so với cơ chế kinh
tế kế hoạch hóa tập trung mà ngược lại càng phải được tăng cường nhưng theo những
nội dung và phương thức mới.
2.Vai trò kinh tế của nhà nước thể hiện tập trung mối quan hệ biện chứng giữa
nhà nước vói kinh tế và đó là cơ sở trực tiếp xác định chức năng kinh tế của nhà
nước.Xuất phát từ phạm trù chức năng của Nhà nước-phạm trù biểu đạt vai trò của nhà
nước đối với xã hội thể hiện qua hoạt động của bộ máy nhà nước.Chức năng kinh tế của
Nhà nước được nhận thức là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế phù hợp với
mơ hình kinh tế tương ứng.
3.Với những phạm vi giới hạn nhất định, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối
quan hệ biện chứng với các chức năng khác trong hệ thống các chức năng của Nhà
nước .Tính đặc thù trong hức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở phạm vi vĩ
mô.
4.Chức năng kinh tế của nhà nước đươc giới hạn bởi hệ thống pháp luật.Nhà nước
khơng thể quản lí kinh tế nếu khơng có hệ thống pháp luật, ngược lại pháp luật kinh tế
không thể tồn tại và phát huy vai trị, tác dụng nếu khơng có hoạt động của bộ máy Nhà
nước .
5.Cả lí luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng khơng có cơng thức chung để áp dụng cho
mọi nhà nước và mọi nền kinh tế trên thế giới nên vấn đề đặt ra ở đây là cần tiếp tục

nghiên cứu chức năng kinh tế của Nhà nước theo những nội dung và phương thức thực
hiện cụ thể.
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam là quá trình đổi mới về thể chế và thiết chế nhà nước,
thể hiện ở sự thay đổi căn bản về vai trị kinh tế của Nhà nước. Đặc trưng của mơ hình
kinh tế ấy đã quy định những vai trị kinh tế tương ứng của Nhà nước Việt Nam. Nền
kinh tế quốc dân của Việt Nam ngày nay là nền sản xuất hàng hóa có nhiều thành phần
tham gia theo cơ chế thị trường.Trong cơ chế thị trường, trên nguyên tắc tự do kinh
doanh, các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh độc lập về tài sản, nhân danh chính
mình tham gia vào các quan hệ kinh tế một cách bình đẳng theo nguyên tắc tự định
đoạt. Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.Việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không chỉ


nhằm mục đích đơn thuần về tăng trưởng kinh tế mà phải lấy sự tăng trưởng kinh tế
làm cơ sở, làm điều kiện để phát triển hài hòa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội,
phát triển con người toàn diện.
Những đặc điểm trên đã quyết định sự thay đổi vai trò kinh tế của Nhà nước khi
chuyển từ mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Trong cơ chế kinh tế hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trị lãnh đạo
thống nhất tồn bộ nền kinh tế quốc dân đồng thời cũng vừa là người điều hành, tổ
chức các hoạt động kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra là phải xác
định rõ tư cách của Nhà nước là người quản lí nền kinh tế quốc dân trên tầm vĩ
mô.Hoạt động kinh tế và quản lí sản xuất kinh doanh là quyền của chủ thể hoạt động
kinh tế. Nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế với tư cách là cơ quan
công quyền mà không can thiệp một cách trực tiếp vào các quan hệ thị trường.
Phạm vi và nội dung hoạt động thể hiện vai trò kinh tế của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường đã có những thay đổi cơ bản. Xét trên tổng thể, Nhà nước quản lí

kinh tế chính là nhà nước trực tiếp tổ chức hoạt động kinh tế trên các lĩnh vực khác
nhau
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc trưng vai trò kinh tế của Nhà
nước được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
-Nhà nước bằng pháp luật quy định tư cách chủ thể, tạo ra khung pháp lí cho các
hoạt động kinh tế;
-Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi về quốc phịng, an ninh, chính trị, xã hội,
ngoại giao cho hoạt động kinh tế;
-Nhà nước bằng pháp luật ngăn ngừa và phòn chống các yếu tố phản thị trường,
phản kinh doanh; duy trì trật tự kinh tế, giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc trong phát
triển nền kinh tế-xã hội;
-Nhà nước bằng pháp luật định ra các phương thức giải quyết tranh chấp trong
hoạt động kinh tế và thực thi sứ mạng đảm bảo trật tự kinh tế;
-Nhà nước thơng qua các cơng cụ như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng… tác
động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trong các biến động bất lợi
của thị trường;
-Nhà nước thông qua kinh té nhà nước đảm bảo tính hiệu quả, tính ổn định của
nền kinh tế quốc dân, đảm bảo phúc lợi chung cho toàn xã hội;
-Nhà nước bằng pháp luật đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội,
đảm bảo sử dụng khai thác hợp lí các nguồn tài ngun, bảo vệ mơi sinh;
-Nhà nước đóng vai trị là người mở đường và bảo trợ cho nền kinh tế đất nước
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò kinh tế ủa nhà nước Việt
Nam và vai trị của htị trường khơng loại trừ mà bổ sung cho nhau trong mối liên hệ
biện chứng giữa quy luật kinh tế khách quan và sự vận dụng các quy luật đó thơng qua
hoạt động quản lí nhà nước. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, vai trò của Nhà nước được xác định từ chính những yêu cầu nội tại của nền
kinh tế thể hiện sự phân công phối hợp vai trị cảu các yếu tố trong hệ thống hồn chỉnh
là Nhà nước và các chủ thể kinh tế và thị trường. Như vậy nếu trong nền kinh tế
kếhoạch hóa tập trung, vai trò kinh tế của nhà nước Việt Nam được thể hiện một cách

trực tiếp thì trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trị đó lại được thể hiện
một cách gián tiếp trên cơ sở thừa nhận và tơn trọng vai trị của thị trường.


Các cơ sở lí luận, pháp lí và thực tiễn vừa nêu về vai trò kinh tế của nhà nước, cho
phép xác định cơ sở chức năng kinh tế của Nhà nước theo những nội dung và phương
thức thực hiện tương ứng với vai trò của Nhà nước ở mỗi mơ hình kinh tế.
Thật ra kinh tế nhà nước đều có tính tất yếu khách quan ở các mơ hình kinh tế thế
giới(Xem: Ngân hàng thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb
chính trị quốc gia, H.1998,tr.41).Nhưng với bản chất của dân, do dân, vì dân, Nhà nước
Cộng hịa XHCN Việt Nam khơng phải nhà tư bản lớn và kinh tế nhà nước ở Việt Nam
không phải là hình thức biểu hiện của CNTB độc quyền nhà nước mà là hình thức của
nền kinh tế cơng hữu phục vụ cho lợi ích của nhân dân trong đó Nhà nước là người đại
diện.Vì thế thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là vấn đề thực tiễn và lí luận mới ở Việt Nam hiện nay. Về mặt
nhận thức cần thấy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam là “sản phẩm” của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN; nếu khơng có sự phân cơng, phối hợp tốt vai trị của các thành phần kinh
tế thì cũng khơng có đựơc vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
đwocj thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
-Kinh tế nhà nước là cơ sở vật chất cho việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà
nước; là công cụ để hướng dẫn, điều tiết các thành phần kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN;
-Kinh tế nhà nước là công cụ hỗ trợ và phục vụ cho các thành phần kinh tế, tạo
điều kiện và thúc đẩy các thành phần kinh tế đều phát triển;
-Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác tạo thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân.
Với vai trị của nền kinh tế nhà nước như trên thì việc đổi mới cơ cấu kinh tế nhà
nước cũng như quản lí nhà nước đối với kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và

năng lực cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như trênthị trường quốc tế của các
chủ thể kinh tế nhà nước đã và đang là một trong những nội dung quan trọng nhất trong
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay (theo Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị quốc gia,H.1996,tr93-94)
3.Thực trạng tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộnghịa XHCN Việt Nam
hiện nay
3.1.Khái quát về thành tựu đạt được trong việc tổ chức, quản lí kinh tế của nhà
nước Cộng hịa XHCN Việt Nam
Bằng chính sách, pháp luật và các cơng cụ quản lí vĩ mơ khác, qua gần hai thập kỉ
dổi mới đất nước, Nhà nước ta thực sự đã đóng vai trị quan trọng trong q trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tạo ra những chuyển biến to lớn về mọi mặt của đất nước.
Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu rõ nét và đồng bộ,
trong đó tốc độ tăng trưởng khá cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.Nếu tốc độ tăng
trưởng bình quân hằng năm từ 1976-1980 chỉ có 0,4% thì từ năm 1991-1999, tốc độ
tăng trưởng bình quân hằng năm là 7,7%.Nếu nhìn khái quát giai đoạn từ 1996 đến nay
thì những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện ở những điểm
chủ yếu sau:
*Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân được duy trì


Sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển, sản lượng lương thực bình quân đầu
người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.Các ngành công nghiệp và
xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức đạt được nhiều tiến bộ với nhịp độ tăng
trưởng bình quân 13,5%/năm; giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm
*Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có chuyển biến tích cực
Nhìn chung cơ cấu kinh tế đất nước đang được chuyển đổi theo hướng cơng
nghiệp háo, hiện đại hóa; cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng
sắp xếp lại và đổi mới kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng kinh tế ngoài quốc doanh,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Tỉ trọng kinh tế nhà nước trong GDP: khoảng 39%,

kinh tế tập thể: 8,5%, kinh tế tư nhân: 3,3%, kinh tế cá thể : 32%, kinh tế hỗn hợp:
3,9%, kinh tế có vốn đầu tư nứơc ngoài: 13,3%. (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,tr.229)
*Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo
Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo như cân đối giữa tích
lũy và tiêu dùng, trong đó tiỉệ tích lũy để phát triển tăng; cân đối tài chính-tiền tệ.
Chính sách của Nhà nước đã tạo mơi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn
phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước.Năng lực của các ngành sản xuất, dịch vụ và
kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được nâng lên rõ rệt.
*Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển
Nhờ có những đổi mới trong những chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước,
đặc biệt là Luật đầu tư nước ngoài tại Việ Nam được bổ sung, sửa đổi ngày càng thơng
thống hơn; Luạt thương mại đuợc ban hành và có hiệu lực mà hoạt động xuất nhập
khẩu những năm qua được đánh giá là phát triển khá, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
tiếp tục tăng góp phần tích cực vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; vơốnhỗ trợ
phát triêểnchính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kinh tếxã hội. Đồng thời các doanh nghiệp VIệt Nam cũng đang từng bước mở rộng hoạt động
đầu tư ra nước ngồi
*Cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác lập, tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới
Các chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Nhầnước
đang dần được thể chế hóa bằng các đạo luật như Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng
và các tổ chức tín dụng, Luật đất đai(sửa đổi), Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam(sửa
đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật lao động, Luật kinh doanh bảo
hiểm, Luật khoa học và công nghệ … Nhiều loại thị trường hàng hóa dịch vụ như thị
trường vốn, tiền tệ, tài chính, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ đã được
thừa nhận và bước đầu được tạo lập khn khổ pháp lí. Cơ chế quản lí kinh tế vĩ mơ
của nhà nước đã được định hình; hành lang pháp lí cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và
các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế dã đựoc xác lập. Các thủ tục
hành chínhđã giảm bớt, tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi
mới một bước quan trọng theo các yêu cầu của việc đảm bảo cho quyền tự do kinh

doanh. Chính sách chủ động hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực đang được
tăng cường trên cơ sở phát huy năng lực của nền kinh tế đất nước.
Đánh giá tình hình chung sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế-xã hội 1991-2000, Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đó là tổng sản phẩm trong nước năm 2000
tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng


nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp
ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế .
Đặc biệt là nhà nước đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao
cấp, chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; cơ cấu nền kinh tế quốc dân
từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nay đã huyển
sang nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
Đời sống nhân dân những năm qua được cải thiện, đất nước đã ra khỏi khủng
hoaảng kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị
trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu gây ra; phá được thế bị
bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở một số nước Châu Á
mà hậu quả của nó đối với Việt Nam cũng khá nặng nề, tình hình chính trị-xã hội cơ
bản ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường.
3.2.Những tồn tại và bất cập trong tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam
Mỗi bước phát triển kinh tế đều thể hiện mặt thành công và những tồn tại, bất cập
trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, những tồn tại và bất
cập trong hoạt động quản lí kinh tế của Nhà nước hiên nay thể hiện trên những điểm
chủ yếu sau:
*Về hệ thống pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mơ khác của Nhà nước
Biểu hiện chung là chính sách đối với các thành phần kinh tế của Nhà nước hiện

nay chưa thật sự đồng bộ và nhất quán. Trong thực tế từ các nguyên tắc hiến pháp cho
đến các đạo luật, các văn bản duới luật và hoạt động thực thi chính sách hàng ngày của
các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước… là cả chặng đường dài mà ở đó có thể có
sự khúc xạ, biến tướng so với các chủ trương, chính sách lớn. Chẳng hạn, giá dịch vụ
các loại, giá thuê đất, chế độ tín dụng khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Đến nay, các yếu
tố của kinh tế thị trường chưa được hình thành đồng bộ, mơi trường hợp tác, cạnh tranh
bình đẳng chưa đượctạo lập đầy đủ. Trong chính sách, thể chế quản lí của Nhà nước
cịn tồn tại những hình thức bao cấp, vẫn mang tính chất “xin-cho” gắn với thủ tục
phiền hà, thiếu cơng khai nhưng lại có nhiều mặt bng lỏng quản lí, khơng giữ được
trật tự, kỉ cương (Báo cáo của Chính phủ tại kì họp Quốc hội khóa X, 2000)
Từ năm 2000, Việt Nam đã khắc phục đượ tình trạng suy giảm nhuưg nhìn chung,
cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động của Việt Nam chưa có sự chuyển biến rõ rệt.
Lao động trong nông nghiệp chiếm 67%; xuất khẩu chủ yếu là hàng nguêyn liệu thô
hoặc hàng gia cơng, đời sống kinh tế-xã hội cịn nhiều vấn đề bức xúc, tình trạng phân
hóa giàu nghèo, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa thành thị và nơng thơn cịn cao..
(theo “Kinh tế Việt Nam trong q trình cải cách”,Cải cách kinh tế, tài chính Việt
Nam& Trung Quốc và thành tựu và triển vọng, Nxb. Tài chính,tác giả Nguyễn Công
Nghiệp, H, tr.14)
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những kết quả đã đạt được, về xây
dựng hệ thống pháp luật cũng như hoạt động thi hành pháp luật và giáo dục nâng cao ý
thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục để phát
triển kinh tế-xã hội theo chiều sâu của sự nghiệp đổi mới đất nước. So với nhu cầu của


đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội hiên nay thì có thể thấy hệ thống
pháp luật cịn những khuyết điểm như sau :
Chúng ta vẫn còn thiếu pháp luật trong một số lĩnh vực quan trọng như cạnh
tranh, chốn độc quyền; chứng khoán; kiểm toán; kế toán, thốn kê; kinh doanh bất động
sản

Luật pháp của nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, phần lớn chỉ dưừnglại ở các nguyên
tắc chung, muốn đi vào cuộc sống phải ban hành nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn
chi tiết mà nhiều khi việc này còn chậm trễ. Pháp luật về kinh tế, thương mại chưa hồn
chỉnh thậm chí cịn mâu thuẫn ,thiếu tính minh bạch và tính xác định gây khó khăn cho
việc sử dụng pháp luật của các nhà đầu tư.
Nhà nước ta có bộ máy thi hành pháp luật khá đồ sộ nhưng hiệu lực và hiệu quả
cịn chưa tương xứng; năng lực cán bộ, cơng chức nhà nước còn yếu; việc giải quyết
các treanh chấp kinh tế, dân sự cịn chậm . Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật còn
kém, trong đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vi phạm nư kinh doanh trái phép, buôn
lậu, hàng giả, trốn thuế, nợ đọng thuế … Cùng đó, Luật pháp nhà nước ta hay phải sửa
đổ,i bổ sung cũng có mặt trái là khơng đảm bảo được tính ổn định cho sự vận hành của
các quan hệ kinh tế
Thêm nữa, pháp luật kinh tế thiếu nhiều cơ chế kiểm sốt thơng qua thị trường, ít
mang tính chất cuủa”luật tư” (xem “Mấy điều về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay”Nguyễn Am Hiểu, Tạp chí Luật học, số 3/1999, tr.25).Nhìn chung pháp luật hiện hành
cịn đang thể hiện những điểm mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống chính sách kinh tế của
nhà nước. Đó là mâu thuẫn trong việc thừa nhận nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc
tự do kinh doanh mà trên thực tế các cơ chế chính sách, các quy định cụ thể vẫn cịn
nặng về thủ tục hành chính.Ngi ra, hệ thống pháp luật kinh tế của VIệt Nam còn
nhiều sự khác biệt với hệ thống pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Về việc thực hiện chức năng quản lí đối với kinh tế Nhà nước
Tình hình chung hiện nay của khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam cho thấy một
số doanh nghiệp vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường và phát huy được tác dụng
tích cực nhưng nhìn chung hiệu quả kinh doanh cảu các doanh nghiệp nhà nước còn
thấp, việc sử dụng các nguồn lực của kinh tế nhà nước cịn hạn chế và lãng phí. Nhiều
daonh nghiệp thua lỗ kéo dài, chưa được sắp xếp lại.Chủ trương cổ phần hóa, đổi mới
quan hệ sở hữu và cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước tiến hành vẫn cịn chậm.Hệ
thống cơ chế, chính sách đối với kinh tế nhà ước vẫn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa
tạo ra được cơ sở pháp lí vững chắc đẻ cho các chủ thể kinh tế nhà nước tham gia cạnh
tranh.
Hiện nay, các tổng cơng ty nhà nước cịn nhiều vấn đề bất cập về mơ hình tổ chức

và cơ chế hoạt động, chưa thật sự thể hiện được vai trị của mình như là tất yếu kinh tếxã hội mà còn mang nặng tính hành chính. Đảng cộng sản Việt Nam cũng nhận dịnh là
khu vực nhà nước chậm được sắp xếp củng cố và đổi mới… Cịn một bộ phận khơng ít
doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thiếu năng động, trông chờ vào sự bảo hộ
của Nhà nước (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc
gia, H. 2001, tr.52)
*Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về năng lực và phẩm chất của
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Từ nguyên tắc chung về sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở tập trung thống nhất


quyền lực nhà nước. Hiện nay cũngcòn nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết theo yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Tổ chức
bộ máy hành chính nhà nước vẫn cịn những bất hợp lí, thiếu cơ sở khoa học, tình trạng
chồng lấn chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền còn khá phổ biến.Các bộ quản lí ngành
kinh tế và bộ tổng hợp chưa có tiêu chí khoa học để phân biệt, có bộ chỉ thực hiện một
chức năng. Sự phân cơng, phối hợp giữa các bộ với nhau, giữa bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lí kinh tế-xã hội chưa
thật rõ ràng và hợp lí. Nhìn chung, như nhận định của chính phủ VIệt Nam về htực
trạng nền hành chính hiện nay là tổ chức bộ máy hành chính cịn cồng kềnh, nhiều tầng,
nấc: phương thức quản lí hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa
thơng suốt (theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20012010)
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động tư pháp ngày càng được nhà nước chú
trọng là điều tất yếu, bởi lẽ tính hồn chỉnh và cân đối của các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp là một trong những biểu hiện cho tính thống nhất của quyền lực nhà
nước ở Việt Nam. Tuy nhiên cũng phải thấy việc kiểm soát các quan hệ kinh tế -xã
hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường là lĩnh vực còn mới đối với cơ quan tư pháp
Việt Nam. Hiệu quả hoạt động tư pháp hiện nay phản ánh tình trạng hệ thống pháp
luật, tổ chức bộ máy cũng như năng lực quản lí cán bộ của ngành tư pháp Việt Nam
đang còn nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết

Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức quản lí kinh tế của Việt Nam hiện nya có
nhiều bất cập mà Nhà nước đang từng bước khắc phục. Đó là tình trạng q nhiều
người trong các cơ quan hành chính chế độ chức trách cịn chưa cụ thể, trình độ năng
lực cịn hạn chế, tình trạng quna liêu, tham nhũng khơng phải ít. Nhiều người khơng
muốn xóa bỏ cơ chế làm việc cũ vì sợ mất đi những đặc quyền đặc lợi qua các khoản
thu bất chính từ cơ chế “xin-cho”.Mặt khác, đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế hiện nay
đơng nhưng khơng đồng bộ, vừa htừa lại vừa thiếu, trình độ kiến thức, năng lực lãnh
đạo quản lí chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới nhất là quản lí kinh tế thị
trường .Nhìn chung thực trạng về bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công hcức
hiên nay đang là thách thức lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước .
3.3.Nguyên nhân những tồn tại và bất cập
Ngoài các nguyên nhân khách quan là do xuất phát từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu, với những hậu quả của nhiều năm chiến tranh ác liệt và htiên tai nặng nề thì
nhưữngtồn tại và bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiên nay
còn do các nguyên nhân chủ quan.
Những nguyên nhân chủ quan bao gồm nhận thức và hành động của con người
thể hiện trong cả tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các cơ quan cũng như cán bộ,
công chức nhà nước. Đó là các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đó là do ảnh hưởng tư tưởng cũ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung.Nền kinh tế thị truờng định hướng XHCN ở Việt Nam được xây dựng từ cơ sở
trước đó vốn là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Vì thế những nếp nghĩ thói quen
hành động của con người đã mấy chục năm vẫn còn ảnh huởng rất lớn và khơng dễ
dàng thốt khỏi ngay đựơc.Trong tình hình hiện nay, tàn dư của chủ nghĩa nhà nước
trong quản lí kinh tế thể hiện ở chỗ vẫn cịn tàn dư tư tưởng tuyệt đối hóa vai trị của


nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế mà khơng thấy vai trị tự điều chỉnh của
xã hội và những sự cần thiết của sự điều chỉnh mang tính nhà nước. Biểu hiện của tàn
dư này có thể gặp khá phổ biến trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước như trong

hoạt động xây dựng các đạo luật, các văn bản duới luật như nghị định của Chính phủ là
văn bản nào cũng thấy có phần, chương quy định về quản lí nhà nước trong lĩnh vực ấy
mà nhiều khi thiếu cơ sở vững chắc và thiếu tính khả thi.
Biểu hiện khác về sự ảnh hưởng của tư tưởng quản lí nhà nước trong cơ chế cũ là
về tính chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo về bản chất khác với tính tập trung của kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nhưng hiện vãn cịn quan niệm cho
rằng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nghĩa là kinh tế nhà nước phải nắm giữ hầu
hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và nếu như vậy thì mới thể hiện
định hướng XHCN của nền kinh tế. Từ đó mà người ta vẫn chưa hoàn toàn gột bỏ được
tư tưởng về chế độ bao cấp của Nhà nước thể hiện ở chế độ bảo hộ doanh nghiệp nhà
nước, bảo hộ sản xuất trong nước bằng hàng rào thuế quan nghiêm ngặt. Về quản lí nhà
nước với các chủ thể kinh tế nhà nước, đến nay trong việc xây dựng và tổ chức bộ máy
chủ quản lí hành chính với doanh nghiệp nhà nước với kiểu quản lí đơn chức năng,
cồng kềnh nhiều tầng nấc, nhiều người.
Thứ hai, do nhận thức chưa thống nhất về xây dựng thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây một phần cũng là hệ quả của nguyên nhân trên và
mặt khác còn do việc sao chép kinh nghiệm của nước ngồi một cách máy móc khơng
phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Biểu hiện của sự không thống nhất trong nhận
thức về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
trước hết là tính khơng đồng bộ của hệ thống chính sách của Nhà nước. Các chính sách
lớn thì mở nhưng việc thực thi hàng ngày thì lại bị vướng mắc hay cản trở bởi hàng loạt
các quy định, các thủ tục hành chính rườm rà, ách tắc. Đó là biểu hiện về tư tưởng cục
bộ của các ngành, các cơ quan, các địa phương trong q trình thực thi chính sách kinh
tế của Nhà nước. Nhiều người muốn níu kéo cơ chế cũ là do những lợi ích cá nhân
trong cơ chế đó nhưng ngay trong nhận thức chung của xã hội, của các cán bộ, công
chức nhà nước cũng chưa đạt đến sự thống nhất về những vấn đề như xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về đổi mới
và phát triển doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chính sách
đất đai, kinh tế trang trại, nội dung và bước đi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (theo Văn kiện đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,2001,tr.17). Về vấn đề vait rị
chủ đạo của nền kinh tế hiện nay vẫn có sự nhận thức chưa thống nhất, chẳng hạn
khơng ít người vẫn coi trọng số lượng hơn chất lượng, cho rằng cần phải thành lập
doanh nghiệp nhà nước hơn nữa để làm đối trọng với doanh nghiệp dân doanh nhằm
tạo ra thế cạnh tranh,…
Thứ ba, do trình độ năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ cơng chức cịn chưa
thật sự đáp ứng được yêu cấu của nhiệm vụ. Việ Nam xây dựng nền kinh tế thị truờng
định hướng XHCN vốn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhiều cán bộ, công chức
nhà nước được đào tạo theo mô hiình kinh tế cũ khơng cịn phù hợp với u cầu mới
của nhiệm vụ. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước tuươg xứng với
yêu cầu sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mới đạt được kết quả bước
đầu, chưa thật sự vững chắc. Vì thế, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch


hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế thì những bất cập về trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước là điều dễ hiểu.
4.Phương hướng nâng cao hiệu quả chức năng kinh tế
4.1.Chiến lược phát triển pháp luật và hoàn thiện hệ thống kinh tế
Trong quản lí kinh tế, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ tất cả các cơng cụ trong đó
pháp luật là nền tảng.Từ đường lối chính sách của Đảngvà Nhà nước để xây dựng hệ
thống pháp luật, không phải chỉ có việc là chuyển thành ngơn từ pháp lí hay đem lại
cho chúng hình thức của văn bản pháp luật mà địi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu
thích đáng những nhu cầu, mức độ cần điều chỉnh các quan hệ kinh tế-xã hội. Khơng
phải tồn bộ nội dung đường lối, chính sách đếu được đưa vào nội dung văn bản quy
phạm pháp luật mà còn phải qua q trình thể chế hóa với những u cầu đặc thù. Điều
này địi hỏi cần phải khắc phục tình trạng văn bản pháp luật được ban hành vội vã,
mang tính chủ quan, chưa đủ độ chín muồi, kém tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ
kinh tế. Lĩnh vực kinh doanh là lĩnh vực hết sức năng động và phức tạp nên các chính

sách của nhà nước, các biện pháp kế hoạch cũng phải đa dạng và linh hoạt. Tuy nhiên,
pháp luật của Nhà nước phản ánh đầy đủ cái đa dạng phong phú ấy bằng phương pháp
riêng của mình; pháp luật mang trong nó cái “hồn” của chính sách chứ khơng thể sao
chép chính sách một cách gượng ép.
Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của nước ta là chính sách, kế hoạch phát
triển tổng thể của Nhà nước gồm cả lập pháp, thi hành pháp luật nhằm giáo dục nâng
cao ý thức pháp luật để hoàn thiện các giải pháp đồng bộ về pháp luật để điều chỉnh các
hoạt động kinh tế-xã hội; tạo thế chủ động về hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật
của Nhà nước; ổn định hóa chính sách pháp luật.Chiến lược phát triển hệ thống pháp
luật của Nhà nước trong điều kiện hiện nay cũng cần phải được hoàn thiện trên cơ sở
coi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra mạnh mẽ như là tất yếu
khách quan của thời đại..Chiến lược phát triển pháp luật của Nhà nước phải xác định
được những vấn đề cơ bản, có tính định hướng cũng như chương trình hóa dài hạn
gồm:
-Hướng phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và nhu càu mức độ điều chỉnh
một cách tổng quát;
-Các nhu cầu điều chỉnh trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội quan trọng.
-Chương trình xây dựng các lĩnh vực pháp luật;
-Chương trình tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp
luật.
Có thể quan niệm hệ thống pháp luật về kinh tế được cấu trúc theo hai mảng lớn
sau:
Thứ nhất là hệ thống các qui phạm pháp luật xác định chế độ quản lí của Nhà
nước với hoạt động kinh tế. Hệ thống này điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và quyền
của các chủ thể kinh tế, xác dịnh phạm vi thẩm quyền của Nhà nước và quyền của các
chủ thể kinh tế. Đặc trưng của quan hệ xã hội trong mảng này là quan hệ giữa một bên
là Nhà nước-cơ quan cơng quyền đại diện cho lợi ích của xã hơi, của người tiêu dùng
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc các chủ thể kinh tế phải thực hiện
những nghĩa vụ do pháp luật quy định, còn các chủ thể kinh tế có quyền được yêu cầu
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải thực hiện những công việc theo



luật định đảm bảo cho hoạt động kinh tế được thuận lợi. Cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước chỉ được thực hiện những hành vi do luật định không được can
thiệp quá giới hạn thẩm quyền, làm cản trở các hoạt động kinh tế. Chủ thể kinh tế chỉ
phải thực hiện những nghĩa vụ do luật định một cách rõ ràng, cơng khai, ngồi ra khơng
có nghĩa vụ bắt buộc nào khác.
Thứ hai là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giao dịch giữa
các chủ thể kinh tế bình đẳng. Đây là mảng lớn thứ hai trong hệ thống pháp luật về
kinh tế và cũng là mảng còn yếu, Nhà nước cần tập trung khắc phục. Đặc trưng của
mảng quan hệ xã hội giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng là lợic ích kinh tế quyết định sự
tham gia quan hệ đồng thời nó trực tiếp quyết định hành vi của họ. Do vậy, các nguyên
tắc quan trọng hàng đầu của hệ thống các quy phạm trong mảng này là nguyên tắc tự
định đoạt, nguyên tắc tự do thỏa thuận trên cơ sở không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Trong lĩnh vực này, chủ thể được tự do thỏa thuận tất cả những gì mà pháp luật
khơng cấm, tất cả những gì ngồi phạm vi pháp luật quy định phải có điều kiện, pahỉ
xin phép… Nhà nước tơn trọng tất cả những thỏa thuận như vậy và đảm bảo cho các
thỏa htuận, cam kết hợp pháp được tuân thủ như ý chí của cá bên. Đồng thời, vai trị to
lớn của nhà nước còn được htể hiện ở chỗ Nhà nước chủ động nghiên cứu và hồn thiện
các mơ hình, các hình thức pháp lí cho cá loại hình thị trường, cá giao dịch kinh tế hoặc
khắc phục những điểm bất cập của pháp luật hiện hành, tạo môi trường pháp lí thơng
htống và thuận lợi cho cá chủ thể kinh tế hoạt động. HIện nay, một trong những vấn đề
bức xúc trong mảng pháp luật này là vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hợp đồng. Mặt khác, mảng pháp luật về các loại hình doanh nghiệp nhất là luật về công
ti cũng cần phải được hồn thiện để đảm bảo tính “tự hành” cho các quan hệ về tổ chức
nội bộ của công ty.
Hệ thống pháp luật về kinh tế được coi là hoàn chỉnh là hệ thống phải phát triển
đầy đủ cả hai mảng pháp luật kể trên..Nguyên tắc xuyên suốt hệ thống pháp luật về
kinh tế là dành sự thuận lợi nhất cho hoạt động của các chủ thể kinh tế chứ khong phải
chỉ dành thuận lợi cho hoạt động quản lí nhà nước mà gây trở ngại cho hoạt động kinh

tế.. Bởi vậy, hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng:
-Phát huy vai trò các yếu tố cơ bản của thị truờng gồm nguyên tắc bình đẳng giữa
các chủ thể trong hoạt động kinh tế; tự do kinh doanh; sự vận động tự do của vốn và
hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế.
-Đảm bảo sự quản lí vĩ mơ của Nhà nước đối với tồn bộ nền kinh tế;
-Đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật;
-Đảm bảo hiệu lực thực hiện của hệ thống pháp luật;
-Đảm bảo sự tương thích với pháp luật và thơng lệ quốc tế của hệ thống pháp luật.
Từ các yêu cầu cơ bản trên, cần tập trung vào các giải pháp sau đây cho việc hồn
thiện và nâng cao vai trị của hệ thống pháp luật kinh tế :
Thứ nhất, hoàn thiện và tăng cường bảo đảm các quy định của pháp luật về quyền
tự do kinh doanh.Quyền tự do kinh doanh bao gồm tự do thành lập doanh nghiệp và tự
chủ trong hoạt động kinh doanh. Để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thì
nhu cầu mở rộng quyền tự do kinh doanh và tăng cường tính hiện thực của quyền ấy là
đòi hỏi tiên quyết của nhà nước trong tất cả các hoạt động từ xây dưng pháp luật đến
bảo vệ pháp luật. Mở rộng quyền tự do kinh doanh là điều kiện để xóa đói giảm nghèo,
giải quyết vấn đề đời sống vật chất, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân, phát huy
tối đa các tiềm năng đất nước và con người Việt Nam mà cũng là để đảm bảo tiềlực vật


chất cho độc lập chủ quyền của dân tộc, đảm bảo uy tín cho sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản VIệt Nam. Nhà nước phải chủ động, tích cực tạo rạư chuyển biến trong nhận thức,
trong các văn bản pháp luật ở hàng loạt các vấn đề có tính mấu chốt như vấn đề ở hữu,
hợp đồng... Nhà nước cũng cần nghiên cứu hồn thiện chế độ pháp lí về kiểm tra của
các cơ quan nhà nước với các chủ thể kinh tế, hiên đại hóa cơng tác thu thập và xử lí
thơng tin về hoạt động kinh tế-xã hội
Thứ hai, đảm bảo hiệu lực thực hiện của hệ thống pháp luật về kinh tế trong mối
liên hệ với hệ thống pháp luật nói chung của Nhà nước. Điều này trước hết phụ thuộc
vào chất lượng của hệ thống pháp luật kinh tế vì pháp luật có tốt thì mới có khả năng
thực hiện tốt.Vì thế cần phát triển đầy đủ tất cả các lĩnh vực pháp luật khác như pháp

luật về văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng, giáo dục, khoa học, công nghệ, tài nguyên
môi trường…Mặt khác, hiệu lực của hệ thống pháp luật khơng nằm ngồi hiệu lực và
khả năng đáp ứng yêu cầu khách quan của nền kinh tế-xã hội trong các hoạt động của
nhà nước thông qua việc củng cố nền dân chủ rộng rãi. Cho nên, nếu nhà nước không
tạo ra được cơ chế dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật thì cũng khơng thể nói
đến hệ thống pháp luật có chất lượng tốt và sự đảm bảo hiệu lực thực hiện của nó.
Thứ ba, đảm bảo tính mở của hệ thống pháp luật kinh tế. Yêu cầu này khẳng định
tiínhcần thiết của việc học tập, tham khảo kinh nghiệm tiên tiến của các nước trong hoạt
động xây dựng và thực thi pháp luật như có thể chọn lọc tiếp thu các luật mẫu của các
tổ chức quốc tế nhất là trong các lĩnh vực thương mại, tài chính, kiểm tốn, chứng
khoán… Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới như là xu thế tất yếu
thì việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam là đòi hỏi hết sức bức thiết.
Trước mắt, Nhà nước phải đẩy mạnh hoạt động rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản
pháp luật hiện hành nhăằmkhắc phục tình trạng bất tương thích của pháp luật kinh tế
Việt Nam so với pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới; hài hòa pháp
luật về kinh tế thương mạiViệt Nam với pháp luật và thông lệ quốc tế còn là nghĩa vụ
cam kết của Nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
4.2.Hồn thiện các cơng cụ quản lí vĩ mơ khác:
Mỗi cơng cụ quản lí vĩ mơ của Nhà nước tồn tại trong mối liên hệ với các cộng cụ
khác cũng như với các cơng cụ quản lí xã hội nói chung. Vì thế, để hồn thiện các cơng
cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước trước hết phải chú ý tính hệ thống của các laọi cơng cụ.
Tính hệ thống của cac loại cơng cụ quản lí vĩ mơ của Nhà nước quyết định các định
hướng cho việc xây dựng và sử dụng các cơng cụ quản lí vĩ mơ là:
Thứ nhất là đảm bảo tính đồng bộ. Đây là nguyên tắc quyết định chất lượng và
hiệu quả của hệ thống cơng cụ quản lí vĩ mơ của Nhà nước. Nguyên tắc đồng bộ yêu
cầu các công cụ phải nhất quán về mục tiêu điều chỉnh, hướnh điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh. Do vậy, Nhà nước nên có quan điểm , chính sách tổng thể về xây dựng
và sử dụng các cơng cụ quản lí kinh tế trong chiến lược chung về phát triển kinh tế-xã
hội.
Thứ hai là về ngun tắc phân cơng chức năng. Ngun tắc này địi hỏi việc xây

dựng và sử dụng hệ thống công cụ quản lí vĩ mơ phải phát huy được khả năng điều
chỉnh của mỗi loại cơng cụ, tránh tình trạng chồng chéo chức năng làm suy giảm vai trị
của các cơng cụ.
Nhà nước cần phải luật hóa việc xây dựng và sử dụng các cơng cụ quản lí vĩ mơ.
Điều đó khơng có nghĩa là Nhà nước phải luật hóa tồn bọ các cơng cụ quản lí vĩ mơ


hay các lĩnh vực hoạt động xã hội mà là tạo cho các cơng cụ đó cơ sở pháp lí, những
giới hạn về phạm vi điều chỉnh trên cơ sở phát huy vai trị cua rpháp luật và nỗi loại
cơng cụ quản lí vĩ mơ khác. Đối với chính sách: Các chính sách lớn, có tính định hướng
lâu dài cần được thể chế hóa thành nguyên tắc hiến pháp.Với các chính sách khác, tùy
theo tính chất, phạm vi tác động có thể luật hóa ở mức độ khác nhau. Các chủ trương,
biện pháp quản lí của Nhà nước cũng cần được chuẩn bị về dư luận xã hội, không nên
vội vã ban hành khi chưa có điều kiện chín muồi. Đối với kế hoạch vĩ mô và các công
cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng, Nhà nước cần tập trung tăng cường chất lượng khâu dự
báo tình hình phát triển kinh tế-xã hội, xác định các nghĩa vụ pháp lí của những cơ
quan, tổ chức và nhân viên hữu trách đối với chất lượng của kế hoạch vĩ mô cũng như
các giải pháp tài chính, tiền tệ. Đây là vấn đề trách nhiệm của Nhà nước trước toàn xã
hội.Cái đảm bảo cho tính định hướng của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường là các
chính sách về địn bẩy kinh tế như thuế, tín dụng hay đơn đặt hàng, thu mua, dự trữ
quốc gia… thơng qua đó mà Nhà nước hướng các chủ thể kinh tế đi tới các mục tiêu
được nêu ra trong kế hoạch. Muốn vậy, Nhà nước cần tăng cường chất lượng thông tin
và dự báo kinh tê-xã hội, khắc phục được lối làm kế hoạch chủ quan hay đơn giản,
chung chung không tuân thủ các nguyên tắc hoạt động kế hoạch hóa trong nền kinh tế
thị trường. Như thế, Nà nước cũng cần pháp luật hóa các cơng cụ điều tiết vĩ mơ,các
địn bẩy kinh tế để nâng cao hiệu quả tác động của các laọi cơng cụ này
4.3. Hồn thiện cơ chế quản lí đối với kinh tế Nhà nước
Mục tiêu của những biện pháp đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện nay
là khắc phục những yếu kém, bất cập hiện tại của hệ thống các chủ thể kinh tế nhà
nước, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, tôn vinh vai trò chủ đạo của kinh

tế nhà nước.
Nội dung các chủ trương, chính sách về phân loại, sắp xếp, cổ phần hóa; giao,
bán, khốn kinh doanh, cho th doanh nghiệp nhà nước; hình thành các tập đồn kinh
doanh lớn (tổng công ty) do Nhà nước chi phối; xác định cơ chế mới trong quản lí vốn,
tài sản của Nhà nước tại doang nghiệp đã được phản ánh trong hệ thống pháp luật Việt
Nam trong những năm gần đây có thể coi là biện pháp tổng thể nhằm đạt được mục tiêu
trên. Cho nên, để hồn thiện cơ chế quản lí đối với kinh tế nhà nước hiện nay cần quán
triệt các giải pháp sau:
-Nhà nước cần có biện pháp để chuyển mạnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo
hướng tinh giản
-Nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa và giải quyết những vướng mắc trong việc thực
thi chính sách cổ phần hóa; chính sách giao, bán khốn kinh doanh, cho thuê doanh
nghiệp nhà nước, nhất là xử lí nợ của doanh nghiệp nhà nước góp phần làm lành mạnh
hóa chính sách tài chính với doanh nghiệp nhà nước;
-Hồn thiện chính sách phát triển các tổng công ty nhà nuớc, khắc phục tính hành
chính trung gian của các tổng cơng ti để các tổng cơng ti có thể phát huy được vai trò
nòng cốt trong nền kinh tế quốc dân như là tất yếu kinh tế;
-Hồn thiện các chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh
tế nhà nước thuộc hệ thống phi doanh nghiệp như hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, các nguồn tài nguyên, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, các cơ sở nghiên cứu khoa
học, y tế, giáo dục đào tạo, thông tin…


-Tiếp tục xóa bỏ chế độ cấp vốn từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp nhà
nước, chuyển sang cơ chế tài chính mới là cơ chế thương mại thay vì cơ chế hành chính
như trước đây.
Trong nền kinh tế thị trường, sở hữu nhà nước cần chuyển đổi sang hình thức giá
trị . Nhà nước cần hồn thiện các định chế tài chính mới như các cơng ti tài chính hạot
động kinh doanh vốn nhà nước với tư cách là doanh nghiệp độc lập với hệ thống cơ
quan chính quyền. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên sửa đổi, bổ sung cơ chế tài chính hiện

hành của tổng cơng ti, mở rộng vai trị, chức năng, nhiệm vụ của cơng ti tài chính trong
tổng cơng ti. Hoạt động kinh doanh vốn của các cơng ti tài chính sẽ tạo ra cơ chế tài
chính để sử dụng có hiệu quả vốn nhà nước, khắc phục được tình trạng biệt lập cũng
như tình trạng “vơ chủ” của tài sản nhà nước trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung; phát
huy được năng lực của thành phần kinh tế, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với
các doanh nghiệp, cùng chia sẻ rủi ro, cùng gánh chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi
ích. Cơ chế tài chính này xác định mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp nhà
nước có cùng tính chất như quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường.
Nhìn chung, để nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước
trong giai đoạn hiện nay, cần nhận thức đầy đủ các vấn đề sau:
1.Vấn đề nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay
đang được đặt ra như là nhiệm vụ to lớn và cấp thiết theo yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng nền kinh tế thị trường dịnh hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở
các nguyên tắc đảm bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền kinh tế thị trường, phát
triển hài hòa về kinh tế và xã hội, quản lí kinh tế bằng pháp luật. Các nguyên tắc này
qui định phương hướng chung cho các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng
kinh tế của Nhà nước theo yêu cầu của quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường.
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơng cụ quản lí vĩ mơ khác của Nhà nước
là giải pháp có ý nghĩa tiên quyết để nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của
Nhà nước bởi lẽ trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiệu lực, hiệu quả của cơng cụ
quản lí vĩ mơ quyết định hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện chức năng kinh tế của
Nhà nước. Bên cạnh việc hồn thiện các cơng cụ quản lí vĩ mơ khác thì việc hồn thiện
hệ thống pháp luật được coi là giải pháp quan trọng nhật vì pháp luật là laọi công cụ
đặc thù của Nhà nước, có năng lực điều chỉnh mạnh nhất với các quan hệ kinh tế - xã
hội. Khi xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cần chú trọng tính đồng
bộ của các cơng cụ, đảm bảo sự quản lí vĩ mơ của Nhà nước đồng thời tơn trọng nguyên
tắc tự do kinh doanh cũng như hàng loạt các yêu cầu khác có liên quan như đảm bảo
hiệu lực thực hiện, đảm bảo tính mở cửa của hệ thống pháp luật thông qua những giải

pháp cụ thể như cải cách hoạt động xây dựng pháp luật, xây dựng chiến lược phát triển
pháp luật phù hợp với chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, tập trung hoàn
thiện hệ thống pháp luật về kinh tế…
3. Trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện cơ chế quản lí đối với kinh tế Nhà
nước được coi là giải pháp quan trọng và hết sức cấp bách, quyết định sự thành công
của việc chuyển đổi nội dung và phương thức thực hiện chức năng kinh tế của Nhà
nước. Giải pháp này cần tập trung theo hướng chuyển cơ chế sử dụng vốn Nhầnước
mang tính hành chính như trước đây sang cơ chế sử dụng vốn mang tính thương mại


thơng qua hoạt động của các định chế tài chính của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
4. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy Nhà nước là giải
pháp lớn quyết định việc thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước, quyết định hiệu quả
của cơ chế thực hiện quyền lực Nhà nước. Trên nguyên tắc thống nhất quyền lực đồng
thời có sự phân công và sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi
quyền lực Nhà nước, việc tổ chức bộ máy tinh gọn, đa năng, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh cũng như việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh là
những yêu cầu khách quan đồng thời cũng là các giải pháp cần thiết để bộ máy Nhà
nước có thể chuyển tải được tốt nhất chức năng kinh tế của Nhà nước.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Xuất phát từ bản chất giai cấp – xã hội, các Nhà nước trong lịch sử từng tác động
mạnh mẽ đến các quá trình phát triển kinh tế, thể hiện vai trị tích cực, chủ động của
mình đối với các quan hệ kinh tế. Từ đó hình thành nên chức năng kinh tế của Nhà
nước với tính cách là chức năng thể hiện các giá trị đặc thù của Nhà nước. Nhưng để
nhận thức vấn đề này, xã hội phải trải qua những bước phát triển, những biến cố chính
trị, kinh tế theo nhiều mơ hình thực tiễn và lý thuyết khác nhau. Thực tế và cả lí luận
đều khẳng định vai trị kinh tế của Nhà nước ở các nước, đồng thời vai trị đó rộng hẹp,
nơng sâu, trực tiếp hay gián tiếp là do bản chất của nền kinh tế qui định và được phản

ánh qua lăng kính của lực lượng nắm quyền quản lí xã hội
Lịch sử phát triển của Nhà nước Cộng hịa XHCN Việt Nam cũng khẳng định là
khơng thể phát triển kinh tế nếu khơng có vai trị của Nhà nước. Thực tiễn gần hai thập
kỉ chuyển đổi những nội dung và phương thức thực hiện chức năng kinh tế của Nhà
nước từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nề kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã đem lại nhiều bài học quí để tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng
kinh tế của Nhà nước trong chặng đường đổi mới tiếp theo. Nhưng hiện nay thực tiễn
quản lí nhà nước về kinh tế ở Việt Nam cũng đang đặt ra nhiều vấn đề mới mà để giải
quyết tốt thì cần phải có sự nghiên cứu, luận giải một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn.
Kinh tế là lĩnh vực nền tảng của đời sống xã hội nhưng kinh tế không cô lập với
các hoạt động và nhu cầu của con người. Vì vậy, quản lí Nhà nước về kinh tế khơng thể
tách rời quản lí Nhà nước ở các lĩnh vực khác. Chính sách, pháp luật và cơng cụ quản lí
kinh tế của Nhà nước phải đồng bộ với chính sách pháp luật và cơng cụ quaảnlí Nhà
nước trong mọi lĩnh vực. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xây dựng đường lối cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đếnnăm 2020, về cơ bản Việt Nam đã trở
thành nước cơng nghiệp. Trước xu thế tồn cầu hóa kinh tế và sự lớn mạnh vượt bậc của
lực lượng sản xuất trên thế giới mà biểu hiện đặc biệt là kinh tế tri thức thì Việt Nam
khơng có sự lựa chọn nào khác mà phải nhanh chóng tiếp cận tri thức và cơng nghệ mới
để hiện đại hóa nền kinh tế cũng như xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hịa
XHCN Việt Nam-Nhà nước của dân, do dân, vì dân.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.Tư
pháp
2.Giáo trình lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, khoa luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia.
3.Những vấn đề cơ bản của môn học lí luận chung về Nhà nước và Pháp luật, TS.
Nguyễn Văn Động, Nxb.CAND.
4.Chức năng kinh tế của nhà nước, lí luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Tác

giả Trần Thái Dương, Nxb.CAND.
5. Đổi mới và thực hiện đồng bộ các chính sách, cơ chế quản lí kinh tế.
Nxb.Chính trị quốc gia-Tập thể tác giả.
6. “Tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đến vai
trò của Nhà nước ”.Tác giả Nguyễn Bá Diễn.Tạp chí Nhà nước và pháp luật tháng
5(193)/2004.
7. “Về vai trò và chức năng của Nhà nước”.Tác giả Nguyễn Thị Hồi.Tạp chí Nhà
nước và pháp luật tháng 11(199)/2004, tr.3


NỘI DUNG BÀI VIẾT

Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

1

B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

2

1.Một số khái niệm cần biết liên quan đến vấn đề chức năng tổ chức,
quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.Thực trạng tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam hiện nay
3.1.Khái quát về thành tựu đạt được trong việc tổ chức, quản lí kinh
tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

3.2.Những tồn tại và bất cập trong tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
3.3.Nguyên nhân những tồn tại và bất cập
4.Phương hướng nâng cao hiệu quả chức năng kinh tế
4.1.Chiến lược phát triển pháp luật và hoàn thiện hệ thống kinh tế
4.2.Hồn thiện các cơng cụ quản lí vĩ mơ khác:
4.3. Hồn thiện cơ chế quản lí đối với kinh tế Nhà nước
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

2
3
5
5
7
9



×