Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Giải pháp hạn chế nợ xấu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.84 KB, 87 trang )

MỤC LỤC
Trang
Danh mục chữ viết tắt 4
Danh mục Biểu đồ, sơ đồ, Bảng sử dụng trong Luận văn 5
Lời mở đầu 6
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

8
1.1 Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng ngân hàng 8
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng 8
1.1.2 Rủi ro tín dụng ngân hàng 9
1.2 Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 10
1.2.1 Quan niệm về nợ xấu 10
1.2.1.1 Quan niệm của một số nước 10
1.2.1.2 Quan niệm của Việt Nam 12
1.2.1.3 Quan niệm của tác giả 13
1.2.2 Nguyên nhân gây ra nợ xấu 14
1.2.2.1 Nguyên nhân khách quan 14
1.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan 18
1.2.3 Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động NHTM và nền kinh tế 21
1.2.3.1 Đối với ngân hàng 21
1.2.3.2 Đối với nền kinh tế 22
1.2.4 Các biện pháp hạn chế nợ xấu có thể được áp dông 23
1.2.4.1 Thực hiện đúng các quy định về an toàn tín dụng 23
1.2.4.2 Xây dựng chính sách và quy trình phân tích tín dụng hợp lý,
khoa học
23
1.2.4.3 Nâng cao công tác phân tích đánh giá khách hàng 23


1.2.4.4 Nâng cao công tác phân tích dự án vốn vay của khách hàng 25
1.2.4.5 Tăng cường kiểm tra, kiểm sóat nội bộ hoạt động tín dụng 26
1.2.4.6 Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng 27
1.2.4.7 Cần có đội ngò cán bộ làm tín dụng chọn lọc 27
1.2.4.8 Xác định các khoản vay có vấn đề và xây dựng quy trình theo
dõi, xử lý khoa học
27
1.3 Kinh nghiệm của một số nước trong xử lý nợ xấu 29
1.3.1 Xử lý nợ xấu ở một số nước 29
1.3.1.1 Kinh nghiệm của Thái lan 29
1.3.1.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc 30
1.3.2 Một số bài học kinh nghiệm rót ra cho Việt Nam 31
CHƯƠNG II
1
THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
VIỆT NAM
32
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 32
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHNT Việt Nam 32
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của NHNT Việt Nam 34
2.1.3 Tình hình hoạt động của NHNT trong thời gian qua 35
2.1.3.1 Tình hình hoạt động kinh doanh 35
2.1.3.2 Nguồn vốn 37
2.1.3.3 Sử dụng vốn 38
2.1.3.4 Các hoạt động khác 39
2.1.3.5 Lợi nhuận hàng năm 40
2.1.4 Tình hình hoạt động tín dụng của NHNT 2000-2003 40
2.2 Thực trạng nợ xấu tại NHNT Việt Nam 43
2.2.1 Vài nét về nợ xấu trước năm 2000 43
2.2.2 Thực trạng nợ xấu tại NHNT thời kỳ 2000-2003 44

2.2.3 Các biện pháp hạn chế nợ xấu đã được áp dụng tại NHNT Việt
Nam
48
2.3 Đánh giá về công tác hạn chế nợ xấu tại NHNT Việt Nam 51
2.3.1 Kết quả đạt được 51
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 59
2.3.2.1 Hạn chế 59
2.3.2.2 Nguyên nhân 61
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ NỢ XẤU TẠI NHNT
VIỆT NAM
66
3.1 Phương hướng hoạt động của NHNT trong thời gian tới 66
3.1.1 Mục tiêu 66
3.1.2 Mô hình tập đoàn tài chính 67
3.2 Các giải pháp hạn chế nợ xấu tại NHNT Việt Nam 71
3.2.1 Nâng cao năng lực tài chính 71
3.2.2 Tiếp tục đánh giá khách hàng dùa trên tiêu chí thống nhất 71
3.2.3 Nâng cao chất lượng thẩm định phương án vay vốn 72
3.2.4 Tiếp tục thực hiện chuyển đổi mô hình phục vụ hướng tới
khách hàng
73
3.2.5 Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực chấm điểm và xếp hạng tín
dụng
75
3.2.6 Mở rộng đối tượng khách hàng và đa dạng hoá sản phẩm 75
3.2.7 Xây dựng một quy trình xử lý nợ xấu khoa học, thống nhất 75
3.2.8 Tiếp tục xây dựng một đội ngò cán bộ tâm huyết, đạo đức và
trình độ cao
79

3.2.9 Tiếp tục xây dựng quy trình thanh tra, giám sát chặt chẽ 79
2
3.3 Một số kiến nghị 80
3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ 80
3.3.1.1 Chuyển các khoản vay phục vụ chính sách sang ngân hàng
chính sách
80
3.3.1.2 Đẩy mạnh cải cách khu vực ngân hàng 81
3.3.1.3 Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại doanh nghiệp 82
3.3.1.4 Tăng cường vai trò giám sát nội bộ và kiểm toán đối với các
doanh nghiệp
82
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 82
Kết luận
84
Tài liệu tham khảo 85
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. Công ty Quản lý Tài sản AMC
2. Doanh nghiệp Nhà nước DNNN
3. Ngân hàng Thương mại NHTM
4. Ngân hàng Thương mại Nhà nước NHTMNN
5. Ngân hàng Nhà nước NHNN
6. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHNT, VCB
7. Dự phòng rủi ro DPRR
8. Tổ chức tín dụng TCTD
9. Công ty cho thuê tài chính Leasing co
10. Doanh nghiệp vừa và nhỏ SME
11. Doanh nghiệp nước ngoài FDI
12. Hội đồng quản trị HĐQT
13. Xây dựng cơ bản XDCB

14. Ủy ban Nhân dân UBND
15. Quản lý rủi ro tín dụng QLRRTD
16. Giới hạn tín dụng GHTD
17. Sản xuất kinh doanh SXKD
18. Ngân sách Nhà nước NSNN
3
19. Danh mục tín dụng DMTD
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng Trang
Trang
Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn của NHNT38
38
Bảng 2.2: Dư nợ và tổng tài sản NHNT 1999-200339 39
Bảng 2.3: Lợi nhuận của NHNT từ 1999-200340
40
Bảng 2.4: Nợ xấu/Tổng dư nợ của các NHTM43
43
Bảng 2.5:Nợ xấu của NHNT thời điểm 31.12.200044 44
Bảng 2.6: Phân loại nợ xấu thời điểm 31.12.2000 theo nhóm của NHNT45 45
Bảng 2.7:Tổng hợp nợ xấu tại NHNT 2000-200346 46
Bảng 2.8: Quỹ DPRR và sử dụng quỹ DPRR của NHNT 2000-200351
51
Bảng 2.9: Cơ cấu danh mục tài sản thế chấp, cầm cố tại NHNT54 54
Biểu đồ:
Biểu đồ 2.1: Tổng tài sản NHNT năm 2000-200337 37
Biểu đồ 2.2: Dư nợ / Tổng tài sản của NHNT42 42
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ nợ xấu tín dụng NHNT tại 31.12.200045 45
Biều đồ 2.4: Nợ xấu / Dư nợ47 47
4
Sơ đồ:

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức NHNT Việt Nam 34 34
Sơ đồ 3.1: Tổ chức quản lý nợ xấu76
76
Sơ đồ3.2: Quy trình giám sát và xử lý nợ xấu77 77
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc cải cách kinh tế tại Việt Nam được thực hiện từ năm 1986 và đã
mang lại nhiều thành tựu kinh tế trên mọi mặt của thập kỷ 90. Cùng với tiến trình
cải tổ, hệ thống ngân hàng cũng được đổi mới một cách đáng kể. Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn là một nước nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực trên nhiều
phương diện. Riêng hệ thống tài chính trong nước với các ngân hàng thương mại
chiếm đa số, còn nhiều yếu kém và chưa đủ năng lực huy động các nguồn lực cần
thiết cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế, nợ xấu còn nhiều và có xu hướng gia tăng.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia nhiều cam kết mở cửa thị trường tài chính và
hội nhập quốc tế, điều này khiến hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải cải cách
tòan diện và sâu sắc để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của nền kinh tế trong tiến
trình hội nhập và phát triển này. Trong bối cảnh chung như vậy, đòi hỏi tất yếu đặt
ra cho các NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng phải có các biện pháp
cải tổ một cách toàn diện nhằm tăng cường hiệu qủa hoạt động, cũng như khả năng
cạnh tranh trong một môi trường mới. Một trong những việc cần giải quyết bước
đầu của NHNT đó là xử lý nợ xấu và cần nghiên cứu một cách nghiêm túc để đưa ra
được các giải pháp hạn chế nợ xấu trong tương lai. Thực hiện điều này là một
chương trình trọng tâm lớn trong tiến trình tái cơ cấu NHNT Việt Nam, tạo ra điểm
5
tựa vững chắc trong quá trình cải cách sâu rộng hơn nữa của nền kinh tế và tiến
trình thực hiện đổi mới, hiện đại hóa Ngân hàng Ngoại thương.
Nhận thức được tầm quan trọng này, mà đề tài “Giải pháp hạn chế nợ xấu
tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” đã được tác giả lùa chọn làm đề tài luận
văn thạc sỹ nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu

- Trình bày những vấn đề về nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM và
nghiên cứu quá trình hình thành và phát sinh nợ xấu.
- Đánh giá tình hình nợ xấu và hạn chế nợ xấu tại NHNT Việt Nam thời gian qua.
Phân tích các nguyên nhân phát sinh nợ xấu và tồn tại trong công tác hạn chế
nợ xấu tại NHNT Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp đồng bộ để hạn chế nợ xấu trong tương lai tại NHNT Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nợ xấu của NHTM trong họat động tín
dụng.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về thực trạng nợ xấu trong
hoạt động tín dụng tại NHNT Việt Nam trong giai đoạn 2000-2003.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, phương pháp phân tích hệ thống, thống kê và so sánh để tiến hành
nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần Lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu tại Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT

ĐỘNG TÍN DÔNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Có
nhiều cách tiếp cận để đưa ra được một khái niệm về ngân hàng thương mại, song
cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trong đó tín dụng là loại
tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc
trưng của ngân hàng.
Có thể thấy tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên
là Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vự tiền tệ với một bên là
tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng đóng vai trò vừa là
người huy động vừa là người cho vay.
7
Với tư cách là người đi huy động. Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong
xã hội. Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này Ngân hàng đã thực hiện
chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội. Cơ sở
khách quan để hình thành các chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng
Ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội

đã thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này,
trong khi đó ở các tổ chức cá nhân khác lại thiếu vốn cần được bổ sung. Hiện tượng
thừa vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu
nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái sản xuất đòi hỏi
phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại cũng đã giải quyết quan hệ trực
tiếp giữa các doanh nghiệp cần tiêu thụ hàng hóa với các doanh nghiệp có nhu cầu
sử dụng hàng hóa mà chưa có tiền. Nhưng do hạn chế của tín dụng thương mại đã
không đáp ứng được nhu cầu vay vốn với khối lượng, thời hạn khác nhau. Chỉ có
Ngân hàng chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu
thuẫn khi Ngân hàng vừa giữ vai trò là người đi huy động vừa giữ vai trò là người
cho vay.
1.1.2 Rủi ro tín dụng Ngân hàng
Đây là rủi ro cần được đề cập trước tiên đối với Ngân hàng. Ngân hàng cho
vay và đầu tư chứng khoán, những tài sản mà không có gì khác hơn một cam kết
thanh toán. Khi người vay tiền không thể thanh toán được vốn và lãi, những khỏan
cho vay, đầu tư không thể thu hồi này cuối cùng sẽ ăn mòn hết vốn của ngân hàng.
Bởi vì vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường thấp hơn 10% các khoản cho vay và
đầu tư chứng khoán nên chỉ cần một lượng nhỏ các khỏan cho vay và đầu tư trở nên
không thể thu hồi được thì vốn ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm, không
đủ để gánh chịu thêm bất cứ khỏan thua lỗ nào khác. Trong tình trạng này ngân
hàng sẽ phải tuyên bố phá sản và đóng cửa trừ khi những nhà chức trách đồng ý duy
trì nó ở tình trạng “lơ lửng” cho đến khi tìm được tổ chức đồng ý mua lại ngân
hàng.
8
Nói chung, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả
đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất
của ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài
trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích, đánh giá người vay sao cho độ an toàn là
cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín

dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào
có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xẩy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của
khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân
hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan
điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là khó có thể tránh khỏi, là khách
quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh,
có thể đề phòng, hạn chế, chứ khó có thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được
xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng. Điều này cũng có
nghĩa, rủi ro tín dụng luôn là khách quan, là nguyên nhân chính gây ra những khỏan
nợ xấu trong ngân hàng và các khoản nợ xấu này cũng như một tồn tại khách quan,
song hành với tiến trình hoạt động của ngân hàng. Cũng từ điều đó mà ta chỉ có thể
hạn chế “Nợ xấu” mà thôi.
1.2 Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan niệm về nợ xấu.
1.2.1.1Quan niệm của một số nước
• Những chuẩn mực quốc tế tiêu biểu
Dưới đây là một số đặc điểm nhận dạng, đánh giá một khoản tín dụng để sắp
xếp chúng vào từng hạng mục chất lượng tín dụng khác nhau do IMF và WB đưa ra
áp dụng.
Khoản vay Những đặc thù và thời hạn
Đạt tiêu
chuẩn
- Không nghi ngờ gì về khả năng trả nợ
- Tài sản được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền hoặc tương đương
- Quá hạn dưới 90 ngày
Cần theo dõi - Những điểm yếu tiềm tàng có thể ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ
- Các điều kiện kinh tế hoặc viễn cảnh tài chính khó khăn
9
- Quá hạn dưới 90 ngày.

Dưới tiêu
chuẩn
- Các nhược điểm rõ rệt về tín dụng có thể ảnh hưởng tới khả
năng trả nợ
- Những khoản nợ đã được thỏa thuận lại
- Quá hạn từ 90-180 ngày
Đáng ngờ - Không chắc thu hồi được toàn bộ nợ dùa trên các điều kiện
hiện tại.
- Có khả năng thất thoát.
- Qúa hạn từ 180-360 ngày
Mất - Các khoản vay không thu hồi được
- Luôn có khả năng thu hồi lại một phần
- Quá hạn hơn 360 ngày.
(Nguồn: The Bank Credit Analysis Handbook, author Jonathan Golin)
Bản chất của cách phân chia này là luôn căn cứ vào 02 yếu tố định tính và
định lượng của một khoản vay. Định tính là các yếu tố liên quan đến rủi ro của
khoản vay, định lượng là ngày qúa hạn của khoản vay. Theo đây, tất cả các khoản
vay mà từ mức dưới tiêu chuẩn trở xuống thì được gọi là nợ xấu.
• Quan niệm của ngân hàng liên minh Châu Âu
Chưa có một khái niệm đầy đủ về “ Nợ xấu” trong hoạt động của các ngân
hàng thương mại, các Ngân hàng lớn trên thế giới thì xây dùng cho mình một tiêu
chí riêng để theo giõi và giám sát. Tuy nhiên, theo một số tiêu chí của Ngân hàng
trung ương Liên minh Châu Âu thì có thể xác định nợ xấu trong hoạt động của các
Ngân hàng thương mại như sau:
a. Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được như:
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi
bồi thường từ người mắc nợ.
- Người mắc nợ bỏ trèn hoặc bị mất tích, không có gia tài hoặc tài sản giữ lại
để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng

phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được
chuyển để thanh toán nợ nhưng giá trị còn lại không đủ để trang trải tòan bộ nợ.
10
- Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc
thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
b. Nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
- Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ
hoặc không thể tìm được con nợ.
- Những khoản nợ mà khách nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu sắp xếp lại lịch
trả nợ nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận.
- Những khoản nợ mà không có tài sản thế chấp, hoặc tài sản thế chấp không
đủ để trả nợ và hoàn trả khi đến hạn, hoặc tài sản thế chấp ở Ngân hàng không
được chấp thuận về mặt pháp lý và hoạt động kinh doanh của khách nợ bị thua lỗ
trong một vài năm, hoặc việc kinh doanh bị chấm dứt, hoặc đang trong qúa trình
thanh lý tài sản và điều đó có nghĩa là người mắc nợ không thể trả nợ Ngân hàng
đầy đủ.
- Những khỏan nợ đến hạn thanh toán và hoàn cảnh cho thấy sự can thiệp của
tòa án phải được thực hiện đến cùng hoặc tòa án can thiệp buộc việc trả nợ phải
được thực hiện.
- Những khỏan nợ mà tòa án tuyên bố khách nợ bị phá sản và Ngân hàng đã
yêu cầu trả nợ và cho rằng phần bồi hoàn sẽ Ýt hơn dư nợ.
• Quan điểm định lượng của India và Philippines
Tiêu chuẩn India Philippines
Dưới tiêu chuẩn Quá hạn 6 tháng Quá hạn 3 tháng
Nghi ngờ Qúa hạn 24 tháng Qúa hạn 12 tháng
Mất Quá hạn 24 tháng + có dấu
hiệu rõ ràng mất vốn
Quá hạn 12 tháng + có dấu
hiệu mất vốn.
1.2.1.2Quan niệm của Việt Nam

Công cuộc cải cách kinh tế tại Việt Nam được thực hiện từ năm 1986 và đã
mang lại nhiều thành tựu kinh tế trên mọi mặt trong thập kỷ 90. Cùng với tiến trình
cải tổ, hệ thống ngân hàng cũng đã được đổi mới đáng kể. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn
là một nước nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực trên nhiều phương
diện. Riêng hệ thống tài chính trong nước với các Ngân hàng chiếm đa số, còn
nhiều yếu kém và chưa đủ năng lực huy động các nguồn lực cần thiết cho nhu cầu
tăng trưởng kinh tế. Điều đáng lo ngại nhất hiện nay là các Ngân hàng thương mại
11
chưa thực sự lành mạnh, nợ xấu còn tồn đọng nhiều và có chiều hướng gia tăng từ
sau năm 1997. Hiện tại, Việt Nam đang thực hiện chương trình cơ cấu lại các Ngân
hàng thương mại. Trong đó, bên cạnh việc tăng vốn, cơ cấu lại nợ khó đòi, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cũng đề ra yêu cầu ngăn chặn nợ xấu phát sinh trong
những năm tới đối với các Ngân hàng thương mại.
Về vấn đề nợ xấu, trong các sách giáo khoa tài chính nước ngoài, người ta đã
đưa ra một số định nghĩa về nợ quá hạn như: Nợ xấu, nợ quá hạn, nợ có vấn đề.
Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ hầu như khó có khả năng được thanh toán đầy đủ
và phần lớn bắt buộc phải xử lý bằng bót toán xóa nợ.
Ở Việt Nam dường như không có định nghĩa thống nhất về nợ xấu. Điều đó
có nghĩa là mặc dù hoạt động ngân hàng đã được chuyển sang kinh doanh theo cơ
chế thị trường nhưng Việt Nam vẫn chưa có một văn bản pháp quy nào chính thức
thừa nhận khái niệm nợ xấu. Ngoài ra, điều đó cũng nói lên rằng, nợ quá hạn ở Việt
Nam đã tồn tại khá nhiều năm trong hệ thống Ngân hàng mà chưa có những giải
pháp xử lý thống nhất và bài bản.
Tuy nhiên, một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước cũng có những quy
định gián tiếp đề cập đến nợ quá hạn. Theo Điều 13, Quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng (ban hành theo Quyết định 1627/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001), “khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ
đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi hoặc không được
gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ
quá hạn”.

1.2.1.3 Quan điểm của tác giả
Như trên đã trình bày, quan điểm quốc tế khi phân loại tín dụng thì người ta
căn cứ vào 02 thuộc tính: Định tính và định lượng. Trong đó, định tính là căn cứ
vào các dấu hiệu phản ánh/ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng, định
lượng thì là ngày quá hạn của khoản vay đó. Như vậy, khi một khỏan vay có một
trong các dấu hiệu sau được gọi là nợ xấu: Có dấu hiệu rõ dệt ảnh hưởng tới khả
năng trả nợ ngân hàng hoặc được cơ cấu lại, quá hạn từ 90 ngày trở lên.
Với quan điểm nợ xấu là những khoản nợ khó có thể thu hồi, hay thu hồi
không đầy đủ và phải mất quá nhiều thời gian, cộng với tình hình thực tế tại các
12
NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, trong khuôn khổ luận văn này,
chúng tôi cho rằng những khỏan nợ quá hạn thông thường, nợ khoanh, nợ cho
vay bắt buộc, nợ chờ xử lý, nợ tài sản xiết nợ và nợ ngân sách Nhà nước là nợ
xấu. Xin lưu ý rằng, khái niệm về nợ xấu được đưa ra ở đây không nhằm mục tiêu
bàn luận mang tính chất học thuật mà chỉ nhằm giới hạn một phạm vi phân tích và
tạo ra cơ sở đánh gía mức độ nợ xấu thực tế, từ đó để đưa ra các giải pháp nhằm
hạn chế nợ xấu trong tương lai.
Trong đó:
- Nợ quá hạn thông thường : Theo thông lệ quốc tế, khi một khoản vay đến kỳ
hạn trả nợ gốc hoặc lãi mà không trả được lãi hoặc nợ gốc thì đều được xếp vào
danh mục khoản vay không hoạt động hay nợ quá hạn. Tuy nhiên, các nước vẫn
có quy định khác nhau khi xếp một khoản vay vào danh mục nợ quá hạn. Ví dụ
ở Thái Lan, nợ quá hạn là khoản vay đã quá hạn 3 tháng kể từ thời hạn phải
hoàn trả nợ gốc. Còn ở Việt Nam theo Điều 13, Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng “ Khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách
hàng không trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và
không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ
gốc hoặc lãi, thì TCTD chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn”.
- Nợ khoanh: Theo quy định của Việt Nam, nợ khoanh là các khoản nợ quá hạn
của các doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ cho phép khoanh nhưng Chính

phủ chưa xử lý dứt điểm. Loại nợ này gây khó khăn lớn cho các ngân hàng do
không thu hồi được vốn và không được thanh toán lãi trong thời gian từ 3 đến 5
năm.
- Nợ cho vay bắt buộc: Là những khoản cho vay bảo lãnh của ngân hàng đã quá
hạn thanh toán.
- Nợ chờ xử lý: Bao gồm những khoản nợ quá hạn có tài sản bảo đảm hoặc có bảo
lãnh của bên thứ ba mà khách hàng vay không có khả năng trả nợ cho ngân
hàng. Ngân hàng được quyền sử dụng tài sản đã được thế chấp và cầm cố thay
cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Nhưng những tài sản này còn đang trong
thời gian chờ phán quyết của Tòa án hoặc con nợ chưa giao cho ngân hàng.
13
- Nợ tài sản xiết nợ: Đó là những khoản nợ quá hạn của ngân hàng có tài sản bảo
đảm, khi khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng xiết nợ tài sản này thay
cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.
- Nợ ngân sách: Đó là các khoản nợ cho vay theo chỉ định của Chính phủ đã tồn
đọng lâu ngày mà chưa đối chiếu được với Bộ Tài chính.
1.2.2 Nguyên nhân gây ra nợ xấu.
1.2.2.1 Nguyên nhân khách quan
a. Rủi ro từ phía Khách hàng vay vốn
Đây là nguyên nhân trực tiếp thường gặp làm phát sinh nợ xấu. Khi khách
hàng gặp khó khăn trên thị trường đầu vào do giá cả nguyên vật liệu tăng đột biến,
khan hiếm nguyên vật liệu làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường, hoặc sự suy giảm nhu cầu trên thị trường đầu
ra v v khiến khách hàng lâm vào tình trạng thua lỗ, đình đốn gây ra tình trạng
mất khả năng thanh toán các khoản vay của ngân hàng. Ngoài ra, sự yếu kém trong
kinh doanh của khách hàng như: chiến lược kinh doanh không hợp lý, quản lý vốn
lỏng lẻo, trình độ cán bộ quản lý bất cập hay từ sự cố tình muốn chiếm đoạt vốn của
khách hàng cũng dẫn đến nguy cơ không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Đâu là
thực trạng thường gặp tại các nước đang phát triển khi nền kinh tế đang có những
bước chuyển biến sâu sắc, các lĩnh vực kinh doanh còn bỏ ngỏ, cơ hội nhiều và rủi

ro kinh doanh cũng rất lớn. Trong những trường hợp này, Ngân hàng thường phải
tiến hành xem xét, đánh giá để quyết định phương án xử lý phù hợp. Ngân hàng có
thể thực hiện xiết nợ hoặc đồng ý khoanh nợ, giãn nợ theo các giải pháp khắc phục
của khách hàng.
Rủi ro khách quan của khách hàng trong kinh doanh có rất nhiều nguồn gốc
khác nhau: cụ thể:
Thứ nhất: Những điều kiện thiên nhiên bất lợi
Đây là những nguyên nhân nằm trong nhóm nguyên nhân bất khả kháng
như: hạn hán, bão lụt, động đất, hỏa hoạn, mất mùa dịch bệnh những rủi ro loại
này thường có đặc điểm là không thể dự đoán trước và diễn biến nhanh chóng trên
phạm vi rộng nên việc hạn chế là vô cùng khó khăn hoặc không thể tránh khỏi.
14
Các rủi ro thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến các khoản cho vay nông
nghiệp do hoạt động nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào diễn biến của thời tiết,
thiên nhiên. Những biến động xấu về thời tiết trong một khoảng thời gian rất ngắn
như vài giê hoặc vài ngày có thể xóa sạch tất cả thành quả lao động, thậm chí hủy
hoại cả phương tiện (tàu, thuyền ), dụng cụ và tính mạng con người. Trong khi đó,
nông dân đa phần là đối tượng có thu nhập thấp nên khi gặp rủi ro gây thiệt hại lớn
thường không có khả năng hoàn trả vốn vay Ngân hàng, làm phát sinh các khoản nợ
xấu. Thiên tai hàng năm gây thiệt hại cho nền kinh tế các quốc gia trên thế giới
hàng tỉ USD và cũng làm phát sinh lượng nợ xấu khá lớn, nhất là đối với các nước
nông nghiệp như Việt Nam.
Mặt khác, việc khắc phục hậu quả thiên tai thường mất nhiều thời gian và
tốn kém. Điều này buộc các ngân hàng phải xem xét việc hoãn nợ, khoanh nợ và
cho vay khắc phục hậu quả nên càng làm gia tăng gánh nặng nợ xấu cho Ngân
hàng.
Thứ hai: Sự cạnh tranh trong quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế.
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể là gia tăng nợ xấu
khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp –
những khách hàng thường xuyên của các Ngân hàng thương mại phải đối mặt với

nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Các khách hàng
thua lỗ và mất khả năng thanh toán sẽ làm cho danh mục nợ qúa hạn trong bảng cân
đối kế toán của NHTM dài thêm.
Bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và quốc tế trong môi
trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các Ngân hàng trong nước với hệ thống
quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ quá hạn tăng lên bởi nhiều khách hàng
có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các Ngân hàng nước ngoài thu hót.
Thứ ba: Biến động xấu của nền kinh tế thế giới
Trong xã hội hiện đại, nền kinh tế của mỗi quốc gia gắn chặt với nền kinh tế
thế giới do các quan hệ đan xen nhiều chiều. Mỗi biến động của nền kinh tế thế giới
đều tác động mạnh tới nền kinh tế của các quốc gia trên mọi lĩnh vực.
Tài chính ngân hàng là một lĩnh vực có tính quốc tế cao nên sự bất ổn của
lĩnh vực này dễ dàng gây ra phản ứng dây chuyền trên phạm vi rộng. Cuộc khủng
15
hoảng tài chính khu vực Châu Á trong những năm 90 của thế kỷ trước là một minh
chứng cụ thể. Cuộc khủng hoảng này đã gây ra cú sốc lớn cho nền kinh tế khu vực
và nền kinh tế thế giới. Hàng loạt các tập đoàn, công ty, Ngân hàng đã sụp đổ dây
chuyền do thua lỗ và mất khả năng thanh toán. Sự suy thoái của nền kinh tế và hiệu
quả đầu tư kém làm cho tình trạng nợ xấu càng phổ biến hơn. Hậu qủa là từ cuối
năm 90 của thế kỷ XX. Chính phủ của hầu hết các nước Châu Á đều phải tập trung
các biện pháp nhằm giải quyết nợ xấu do gánh nặng đã vượt quá tầm giải quyết của
các Ngân hàng.
Mặt khác, tài chính ngân hàng còn là một lĩnh vực có tính nhạy cảm rất cao
do vai trò quan trọng của nó trong mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế – xã hội.
Sự bất ổn của nền kinh tế thế giới có tác động trực tiếp tới hoạt động tài chính trên
thế giới và nền kinh tế mỗi quốc gia. Từ đó gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động tài
chính ngân hàng của mỗi quốc gia, mà đầu tiên là gia tăng nợ xấu. Chẳng hạn như
sự suy thoái của nền kinh tế có thể khiến một quốc gia thay đổi chính sách nhập
khẩu theo chiều hướng bảo hộ hàng trong nước hoặc giảm lượng nhập khẩu. Điều
này có thể gây ra sự phá sản của doanh nghiệp xuất khẩu và tác động đến lượng nợ

xấu ngân hàng tại các nước xuất khẩu.
Thứ tư: Biến động xấu của kinh tế- xã hội trong nước
Ổn định và tăng trưởng kinh tế là tiền đề, là điều kiện quan trọng để phát
triển các trung gian tài chính. Sự ổn định kinh tế trong nước kích thích hoạt động
đầu tư phát triển và đảm bảo tính ổn định của hiệu qủa đầu tư. Ngược lại, những
biến động xấu của nền kinh tế gây ra sự đình trệ, thua lỗ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Hậu quả tất yếu là Ngân hàng không thu được
nợ.
Các chính sách của Nhà nước thay đổi thất thường là một trong những
nguyên nhân phát sinh nợ xấu. Bởi vì, các doanh nghiệp thường có tỷ lệ vay vốn
Ngân hàng lớn nên rất dễ bị tổn thương trước các thay đổi đột ngột về chính sách
kinh tế vĩ mô. Thực tế này thể hiện rất rõ ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
Những biến động chính trị – xã hội cũng gián tiếp gây ảnh hưởng tới nợ xấu
do môi trường bất ổn có tác động mạnh tới hoạt động đầu tư và hiệu quả đầu tư.
Biểu hiện rõ nhất là khi có chiến tranh xẩy ra, nền kinh tế lâm vào tình trạng hỗn
loạn, suy thoái, các nhà đầu tư rút khỏi thị trường, gánh nặng cho chi phí chiến
16
tranh và tái thiết làm cho nợ của Chính phủ chồng chất, các doanh nghiệp đình đốn
không có khả năng trả nợ. Nợ xấu của cả khu vực Chính phủ lẫn tư nhân đều tăng.
b. Môi trường pháp lý chưa đầy đủ
Hệ thống các luật là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động tài chính Ngân
hàng. Một hệ thống luật hoàn chỉnh là yêu cầu tối quan trọng cho sự phát triển của
hoạt động ngân hàng. Sự thiếu chặt chẽ, hoàn chỉnh của môi trường pháp lý tác
động xấu tới hoạt động ngân hàng nói chung và nợ xấu nói riêng. Kẽ hở của hệ
thống văn bản pháp luật tạo điều kiện cho khách hàng lừa đảo, chiếm dụng vốn của
Ngân hàng, chây ỳ không chịu trả nợ hoặc gây khó khăn cho quá trình xử lý nợ của
ngân hàng. Ở mét số nước, hệ thống luật vừa thiếu, vừa yếu chính là rào cản lớn
nhất đối với ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu.
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng chưa đầy đủ là một
nguyên nhân quan trọng góp phần gây ra thực trạng phức tạp về nợ xấu tại các nước

đang phát triển. Sự bất cập chồng chéo của các luật có ảnh hưởng tới hoạt động
Ngân hàng khiến các cơ quan hữu quan lúng túng trong việc xử lý các tranh chấp về
tài sản bảo đảm: Các quy định của pháp luật về kế toán, kiểm toán, thống kê chưa
đủ sức mạnh thực hiện nên số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định khi cho
vay: Tín dụng thương mại đang trở thành phổ biến trong giao dịch thương mại
nhưng chưa có các chế định tương ứng nên xảy ra các tình trạng chiếm dụng vốn,
lừa đảo là các nguyên nhân sâu xa của sự phát sinh và gia tăng nợ xấu.
c. Các khoản vay phục vụ chính sách của Chính phủ
Ở những giai đoạn nhất định, Chính phủ của một số quốc gia có thể can
thiệp, chỉ định cho NHTM thực hiện một số khoản nợ cho vay theo chính sách của
Chính phủ. Hầu hết các khoản vay này là các khoản vay mà bản thân các NHTM
không đủ cơ sở để tự quyết định đầu tư. Do phục vụ các chính sách kinh tế – xã hội
nên các khỏan vay này có hiệu quả kinh doanh đối với ngân hàng thấp, độ rủi ro cao
và khả năng bảo đảm cho khoản vay của khách hàng là rất hạn chế. Các khoản vay
thuộc nhóm này chủ yếu phục vụ các đối tượng có thu nhập thấp trong nền kinh tế
hoặc bảo hộ hoạt động của các ngành hàng đang gặp khó khăn nên có nguy cơ tồn
đọng rất cao. Cũng có trường hợp khách hàng là những doanh nghiệp, tập đoàn lớn,
song do việc vay vốn quá lớn lại hoạt động không hiệu quả nên mất khả năng không
trả nợ được Ngân hàng.
17
Ở các nước có tình trạng này, như Việt Nam chẳng hạn, các NHTM rất lúng
tùng trong việc xử lý loại nợ xấu này và đa phần phải trông chờ vào sự trợ giúp của
Chính phủ. Tuy vậy, việc xử lý thường tốn thời gian nên ảnh hưởng không nhỏ tới
kết quả kinh doanh và uy tín của bản thân NHTM khi gánh nặng nợ xấu quá lớn
trên bảng tổng kết tài sản.
1.2.2.2 Các nguyên nhân chủ quan phát sinh nợ xấu
Đây là nhóm nguyên nhân quan trọng trong việc phát sinh nợ xấu. Đa số các
khoản nợ xấu có thể phòng tránh nếu bản thân Ngân hàng chủ động hạn chế tốt các
nguyên nhân chủ quan. Điều này được phản ánh qua thực tế hoạt động của nhiều
Ngân hàng trên thế giới với tỷ trọng nợ xấu chiếm ở mức rất thấp trong tổng dư nợ

khi họ chú trọng các biện pháp ngăn chặn nợ xấu phát sinh do chủ quan.
a. Sự thiếu chặt chẽ, hợp lý trong quy chế hoạt động hoặc quy trình nghiệp vụ cho
vay của ngân hàng.
Đây là một trong số các tiền đề để khách hàng lợi dụng lừa đảo, chiếm đoạt
vốn của Ngân hàng. Hoạt động ngân hàng luôn luôn thay đổi và phát triển nên yêu
cầu về cải tiến, bổ sung và chỉnh lý quy định và quy trình hoạt động là nhu cầu cấp
thiết. Ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, phù hợp với đặc điểm thực
trạng nền kinh tế có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng về nợ xấu. Thực tế cho thấy,
sự hoạt động của một Ngân hàng dùa trên cơ sở chính sách tín dụng thống nhất, hợp
lý, có hiệu quả nhiều hơn là dùa trên cơ sở kinh nghiệm và trao quyền quyết định
cho một cá nhân điều hành. Một chính sách cho vay không đồng bộ, thống nhất,
đầy đủ dẫn tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm Èn nguy cơ rủi ro cho
Ngân hàng.
Mặt khác, sự chậm trễ trong việc sửa đổi các quy định tín dụng chưa hoặc
không còn phù hợp điều kiện hiện tại cũng làm cho Ngân hàng vấp phải khó khăn
khi xử lý tài sản bảo đảm cho các khỏan vay. Chẳng hạn như, các NHTM Việt Nam
thời gian qua đã quá chú trọng vào tài sản bảo đảm là bất động sản, trong khi thị
trường bất động sản ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn hình thành. Việc định giá bất
động sản dễ dãi, vượt quá giá chuyển nhượng trên thị trường, không phòng ngõa rủi
ro thị trường bất động sản đóng băng, không lường trước những rủi ro pháp lý liên
quan đến bất động sản khi phải xử lý. Hậu quả là việc xử lý dây dưa, tố kém gây rất
nhiều tổn thất cho ngân hàng.
18
Để thu hót khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần, nhiều
NHTM bá qua các quy trình tín dụng, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, lẩn
tránh hàng rào kiểm soát, thông tin sai lệch nên gặp phải rủi ro. Mặc dù, đây được
coi là biện pháp liều lĩnh trong kinh doanh, song không Ýt NHTM vẫn sử dụng giải
pháp này do tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong hoạt động Ngân hàng.
Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong việc tăng lãi suất huy động vốn
dẫn đến việc tăng lãi suất cho vay có thể khiến cho các doanh nghiệp vay vốn lâm

vào tình trạng khó khăn trong kinh doanh, mất khả năng hoàn trả vốn. Nguyên nhân
này có thể làm phát sinh nợ xấu trong tòan bộ nền kinh tế và hậu quả là sự đổ vỡ
của các TCTD. Thực tế đó đã từng diễn ra ở Việt Nam trong những thập kỷ 80-90
của thế kỷ XX khi xẩy ra sự tăng vọt của lãi suất vay vốn của các NHTM và Quỹ
tín dụng nhân dân. Hậu quả là sự sụp đổ của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và sự
khủng hoẳng nặng nề của hệ thống NHTM khi gánh nặng nợ xấu vượt ra ngoài khả
năng kiểm soát.
b. Cơ chế trích lập và sử dụng DPRR không hợp lý
Nguồn DPRR được trích lập hàng năm của Ngân hàng được xác định là một
nguồn quan trọng để Ngân hàng bù đắp những mất mát khi không thu hồi được nợ.
Ngân hàng sử dụng quỹ DPRR để xử lý các khoản nợ theo danh mục cụ thể khi đáp
ứng những điều kiện trong quy định của từng quốc gia.
Do được quy định không thống nhất nên cơ chế trích lập và sử dụng DPRR ở
mỗi nước đều có sự khác biệt về nguồn trích lập và tỷ lệ trích lập và danh mục trích
lập dự phòng, cũng như tỷ lệ và danh mục nợ xấu được xử lý từ quỹ DPRR. Sự bất
hợp lý trong trích lập và sử dụng DPRR của NHTM là một trong các nguyên nhân
làm cho nợ qúa hạn không được xử lý dứt điểm. Khối lượng nợ ngày càng chồng
chất khiến Ngân hàng ngày càng ngập sâu vào gánh nặng nợ xấu, đe dọa hoạt động
và làm suy giảm uy tín của Ngân hàng. Chẳng hạn, ở Việt Nam trước đây, cơ chế
trích lập dự phòng từ nguồn lợi nhuận sau khi nép ngân sách đã không đáp ứng đủ
yêu cầu để NHTM bù đắp những tổn thất do nợ không thu hồi được. Hậu quả là nợ
quá hạn ngày càng dồn lại, tích tụ từ năm này qua năm khác khiến cho các NHTM
lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ xấu.
c. Trình độ yếu kém của đội ngò cán bộ, nhân viên Ngân hàng
19
Nguồn nhân lực với kinh nghiệm non kém khiến các Ngân hàng có thể đưa
ra quyết định cho vay sai lầm, bởi vì sự an toàn của các khoản vay không chỉ phụ
thuộc vào các quy định cho vay mà còn phụ thuộc vào bản thân hoạt động của
khách hàng. Việc đánh giá khách hàng không chỉ đơn thuần dùa trên các con số báo
cáo mà còn cần dùa trên các kinh nghiệp thực tiễn, phân tích và phán đoán về khả

năng, cơ hội thành công của khách hàng. Việc đánh giá sai về tính hiệu quả, khả thi
trong hoạt động đầu từ của khách hàng là một nguy cơ dẫn đến nợ xấu, khó đòi.
Những Ngân hàng có cán bộ trình độ yếu kém, chậm thích nghi với quá trình
đổi mới của nền kinh tế và hoạt động ngân hàng, cũng đứng trước nguy cơ rủi ro tín
dụng rất lớn do những cán bộ này dễ mắc phải sai lầm trong các quyết định kinh
doanh nói chung và quyết định tín dụng nói riêng. Thực tế, cho thấy đã có rất nhiều
NHTM lâm vào tình trạng khó khăn chồng chất khi không theo kịp tốc độ phát triển
của thị trường.
Nguồn nhân lực có trình độ cao là một yếu tố quyết định sự phát triển của
Ngân hàng. Các ngân hàng lớn trên thế giới đều rất quan tâm tới việc tuyển chọn
cán bộ có trình độ cao, đồng thời thường xuyên đào tạo lại cán bộ để bắt kịp tình
hình thực tế. Vì vậy, họ luôn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường, đủ sức
thẩm định những dự án lớn, phức tạp trong đầu tư, tránh được rủi ro.
d. Nạn tham nhòng, hối lé trong hoạt động ngân hàng
Cũng như các ngành kinh tế khác, nạn tham nhòng và hối lé đã gây tổn thất
lớn cho hoạt động ngân hàng. Tình trạng tham nhòng làm suy yếu hệ thống tài
chính, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế
và dẫn đến nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng.
Do vai trò làm trung gian tài chính trong nền kinh tế nên Ngân hàng là nơi
tập trung nguồn lực tiền tệ của xã hội. Sự thoái hóa, biến chất cuả các cán bộ Ngân
hàng tạo cơ sở cho tệ nạn tham nhòng hoành hành. Các vụ án tham nhòng, hối lé
xảy ra đa phần có gía trị lớn và nghiêm trọng do sự tiếp tay từ trong nội bộ ngân
hàng. Khả năng thu hồi khi phát hiện thường thấp do sù am hiểu của các đối tượng
tham gia. Vì vậy, việc hạn chế tệ nạn này là một biện pháp để ngân hàng ngăn chặn
sự phát sinh nợ xấu.
1.2.3 Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động NHTM và nền kinh tế.
20
1.2.3.1 Đối với Ngân hàng
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức trung gian tài chính, là doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Ngân hàng trở thành

cầu nối giữa cung và cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Do đó, một sự biến động của
Ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu đến chính hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu
là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra. Sau đây là một số tác động xấu
đến Ngân hàng.
Thứ nhất: làm giảm lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng của Ngân hàng, lợi
nhuận được hình thành từ những khỏan thu của Ngân hàng mà những khoản thu này
chủ yếu thu từ lãi cho vay. Nợ xấu tăng tác động đến lợi nhuận Ngân hàng trên hai
khía cạnh đó là:
- Đã phát sinh nợ xấu thì lãi của những khỏan nợ xấu khó có thể thu được hay thu
không bao giê đủ do đó sẽ làm giảm thu nhập kinh doanh của Ngân hàng.
- Phát sinh nợ xấu tất yếu Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro cho khoản vay
đó, tức là làm tăng chi phí của Ngân hàng đồng thời làm giảm lợi nhuận.
Thứ hai: ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh: Các khoản
vay của khách hàng không được thanh toán đúng hạn, hay khi chuyển sang quá hạn
thì việc thu nợ đã không đúng theo kế hoạch của Ngân hàng gây ra thiếu hụt so với
dự tính của kế hoạch. Sự việc này chỉ trong một giới hạn nhất định, song nếu vượt
qua một giới hạn cho phép Ngân hàng sẽ dơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán, và không có kế hoạch cho tương lai.
Thứ ba, làm mất uy tín của Ngân hàng: Những ảnh hưởng xấu của nợ xấu dẫn đến
lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán giảm nó có tác động sâu sắc tới tâm lý
khách hàng “Hiệu ứng khách hàng” kể cả là khách hàng cá thể, doanh nghiệp hay
các Ngân hàng đối tác của ta. Trong lĩnh vực Ngân hàng uy tín tuyệt đối quan trọng,
nó quyết định sự sống còn, tồn tại và phát triển một Ngân hàng.
Thứ tư, không duy trì được đội ngò nhân viên: khi một ngân hàng làm ăn không
hiệu quả, hay để tình trạng nợ xấu nhiều sẽ gây tâm lý hoang mang cho không
những khách hàng mà còn cho chính nhân viên Ngân hàng, sẽ không giữ được
những người làm việc có hiệu quả ở lại. Đây là một chi phí rất lớn cho ngân hàng
21
Thứ năm, mất cơ hội hội nhập: Tình trạng tài chính xấu, không minh bạch do vậy
mà Ngân hàng không dám công khai tài chính. Đồng nghĩa với việc không mở cửa

hội nhập với các Ngân hàng quốc tế, tổ chức quốc tế.
1.2.3.2 Đối với nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và cơ cấu kinh tế vi mô là một
mối quan hệ tương tác hai chiều. Những yếu tố kinh tế vi mô tác động đến diễn biến
của môi trường kinh tế vĩ mô và ngược lại, các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ tác động
đến kinh tế vi mô. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước, cuối cùng được phản ánh
vào triển vọng hoạt động của mỗi doanh nghiệp và sẽ tác động đến mục tiêu và sản
phẩm của bản thân chính sách kinh tế vĩ mô. Sự nới lỏng chính sách tài khóa
thường dẫn đến gia tăng áp lực lên nguồn thu ngân sách Nhà nước và hoạt động của
khu vực ngân sách Nhà nước. Mỗi một cú sốc, nhất là cú sốc trong khu vực tiền tệ,
thường gây nên các áp lực đối với bảng cân đối kế tóan của Ngân hàng và sự lành
mạnh của toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại.
Khu vực Ngân hàng thương mại có tỷ lệ nợ xấu cao sẽ phải đối mặt với nguy
cơ mất vốn và rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Sự hoạt động yếu kém, tỷ
lệ nợ xấu lớn, nguy cơ dễ đổ vỡ của các NHTM là giảm tính hiệu quả của cơ chế thị
trường và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả thực thi chính sách kinh tế vĩ mô. Một hệ
thống Ngân hàng yếu kém với mức nợ xấu cao không những là tổn hại các kênh vi
mô cần thiết cho việc thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả, mà còn có thể ảnh hưởng
đến triển vọng tăng trưởng kinh tế, là gánh nặng lên ngân sách và gây tác động tiêu
cực đến sự vận hành của hệ thống tỷ giá hối đoái.
Sự lành mạnh của hệ thống Ngân hàng phản ánh tổng thể sự lành mạnh của
nền kinh tế. Trong điều kiện chi phí của Ngân hàng tăng cao do nợ xấu là ảnh
hưởng đến lãi suất cho vay khiến cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và ngay cả
Chính phủ cũng có thể gặp khó khăn trong việc trả số nợ hiện tại của họ. Điều này
dẫn đến vỏng luẩn quẩn của khó khăn tài chính.
1.2.4 Các biện pháp hạn chế nợ xấu có thể được áp dông
1.2.4.1 Thực hiện đúng các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong các Luật
TCTD và trong qui định của Ngân hàng.
22
Các qui định nêu rõ trường hợp cấm hoặc hạn chế các ngân hàng không được

tài trợ, điều kiện ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ. Ví dụ như, cho vay một khách
hàng không vượt qua 15% vốn chủ sở hữu của ngân hàng, không được cho vay đối
với thành viên HĐQT ngân hàng đó làm được đúng điều này cũng phần nào giảm
thiểu được rủi ro phát sinh nợ xấu cho ngân hàng.
1.2.4.2 Xây dựng chính sách tín dụng và qui trình phân tích tín dụng hợp lý,
khoa học
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng, đòi hỏi phải
có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách, quy tắc và sự kiểm soát
chung. Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng thời hạn
chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Chính sách tín dụng
nhằm hạn chế rủi ro như: chính sách tài sản bảo đảm, bảo lãnh, đồng tài trợ chính
sách quản lý rủi ro
Qui trình phân tích tín dụng do Ban Giám đốc ngân hàng quyết định, được
xây dựng một cách chi tiết va quán triệt từ trên xuống. Nó thể hiện những nội dung
mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro như phân tích
tình hình sản xuất kinh doanh, thẩm định dự án vay, lịch sử người vay, mục đích
vay, kiểm soát trong khi cho vay Bên cạnh chính sách và qui trình nhằm hạn chế
rủi ro tín dụng ngân hàng còn xây dựng qui chế kiểm tra, phân định trách nhiệm và
quyền hạn, khen thưởng và kỷ luật đối với các nhân viên tín dung.
1.2.4.3 Nâng cao công tác phân tích, đánh giá khách hàng
Trước khi phát tiền vay, ngân hàng cần phải hiểu rõ về khách hàng vì khách
hàng là người chịu trách nhiệm sử dụng và hoàn trả vốn vay, là người quyết định
cuối cùng về hiệu quả của khỏan tiền vay. Vì vậy đánh giá khách hàng là một biện
pháp quan trọng nhằm phòng ngõa và hạn chế nợ xấu trong kinh doanh tín dụng
ngân hàng. Nếu ngân hàng không tiến hành đánh giá khách hàng hoặc đánh giá
không chính xác sẽ dẫn đến hiện tượng cho khách hàng không đủ điều kiện sử dụng
vốn của mình. Qua đánh giá khách hàng, ngân hàng thấy được khả năng tài chính
hiện tại, tiềm năng trong tương lai, khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng. Có
thể nói, việc phân tích, nghiên cứu khách hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó
tạo lập cơ sở ban đầu để cho ngân hàng làm căn cứ đưa ra những quyết định trong

23
kinh doanh của mình. Khi thu thập thông tin phục vụ cho công tác nghiên cứu, phân
tích về khách hàng, Ngân hàng cần chú ý đến một số nội dung sau:
a. Tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn(ngoại trừ Công ty tư nhân, cá nhân)
Theo luận pháp quy định, một đơn vị có tư cách pháp nhân mới có quyền ký
hợp đồng kinh tế. Một đơn vị có đủ tư cách pháp nhân dược cấp có thẩm quyền cấp
đầy đủ các giấy tờ sau: Quyết định thành lập, quyết định tổ chức, giấy phép kinh
doanh.
b. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh
Ngân hàng thực hiện phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua hai chỉ tiêu: doanh thu và kết quả kinh doanh.
- Doanh thu: Là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ
hàng hóa. Doanh thu của doanh nghiệp càng lớn, doanh nghiệp càng có điều
kiện tăng thu nhập, mở rộng sản xuất, có điều kiện thuận lợi để trả nợ ngân
hàng. Tuy nhiên, khi phân tích doanh thu của doanh nghiệp, ngân hàng cần xem
xét doanh thu tăng lên là do nguyên nhân gì vì trong một số trường hợp doanh
thu tăng lên chưa chắc chắn đã chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp tốt lên (như do giá cả đầu vào tăng ).
- Kết qủa kinh doanh: là một tiêu chí chất lượng tổng hợp đánh giá toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tính bằng chênh lệch giữa giá
thành và giá bán sản phẩm. Kết quả sản xuất kinh doanh càng cao thể hiện tòan
bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp càng có hiệu quả, khả năng sử dụng
vốn vay đạt mục tiêu kinh tế đặt ra càng vững vàng, khoản tín dụng của ngân
hàng càng có điều kiện hoàn trả đúng hạn.
c. Phân tích tình hình tài chính của đơn vị
Trên cơ sở báo cáo tài chính của doanh nghiệp lập tại thời điểm gần nhất,
ngân hàng tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp để từ đó có thể đánh
giá ảnh hưởng của nó đến mức độ rủi ro của khoản vay sau này. Phân tích tài chính
giúp ngân hàng thấy được doanh nghiệp thừa vốn hay thiếu vốn, vốn của doanh
nghiệp được sử dụng như thế nào, khả năng tiềm tàng nằm ở đâu để từ đó có những

quyết định đúng đắn đối với các khoản tín dụng phát ra.
24
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, ngân hàng sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Tỷ số giữa vốn tự có trên vốn sử dụng. Hạn chế không cho những doanh nghiệp
có quá Ýt vốn tự có vay.
- Chênh lệch các khoản phải thu, phải trả: cho biết tỷ lệ vốn đi chiếm dụng và vốn
bị chiếm dụng của doanh nghiệp. Xem xét, phân tích chỉ tiêu này, ngân hàng có
thể đánh giá ảnh hưởng của nó đến khả năng hoàn trả khoản vay đúng hạn, và
đảm bảo trả đúng hay không.
- Khả năng thanh toán của đơn vị: có ảnh hưởng rất lớn tới mức rủi ro trong một
khoản vay. Mét doanh nghiệp có khả năng thanh tóan tốt là có đủ khả năng trả
các khoản nợ khi đến hạn.
d. Phân tích các yếu tố phi tài chính: Như về trình độ quản lý, uy tín trong giao
dịch.
1.2.4.4 Nâng cao công tác phân tích dự án vay vốn của khách hàng
a. Phân tích tính pháp lý của dự án
Đây là bước đầu tiên cần thiết trong công việc phân tích dự án. Một dự án có
tính khả thi rất cao, có hiệu quả kinh tế nhưng không đủ tính pháp lý thì chắc chắn
nó sẽ không được thực hiện. Vì vậy khi quyết định cho vay, ngân hàng phải chọn
dự án có đầy đủ tính pháp lý.
Một dự án có tính pháp lý phải thỏa mãn điềukiện sau:
- Mục đích đầu tư của dự án phải phù hợp với mục đích hoạt động của doanh
nghiệp mà cấp có thẩm quyền đã phê duyệt.
- Dự án phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
b. Phân tích tính khả thi của dự án
Ngân hàng phải xem xét, nghiên cứu điều kiện cần và đủ để cho một dự án
được thực thi. Đó là các điều kiện: đầy đủ nguyên vật liệu, nhân lực, có thị trường
tiêu thụ sản phẩm mà dự án sản xuất ra.
- Phân tích nguồn nguyên vật liệu: nguyên vật liệu trong dự án có thông dụng, dễ
kiếm, dễ tìm không, nguồn nguyên liệu là từ đâu, trong nước hay ngoài nước,

tính ổn định có cao không? nguồn cung cấp, giá cả, chất lượng nguyên vật liệu
25

×