Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận khoa học chính sách công thực trạng công tác chính sách và các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính sách ở việt nam hiện nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.58 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG

Đề tài:
Thực trạng cơng tác chính sách và các giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả cơng tác chính sách
ở Việt Nam hiện nay


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG........................3
1.1. Một số khái niệm cơ bản..............................................................................3
1.2. Các giai đoạn trong quy trình chính sách cơng.........................................4
1.3. Bản chất của chính sách cơng......................................................................8
1.4. Vai trị của chính sách cơng.........................................................................9
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.........................................................................................................12
2.1. Những thành tựu đạt được........................................................................12
2.2. Những hạn chế, bất cập tồn tại..................................................................14
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ
CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...............................17
KẾT LUẬN........................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................23

0


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Chính sách cơng là là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước sử
dụng để thực hiện chức năng , nhiệm vụ quản lý nhà nước , là bộ phận nền tảng
trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác
của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - cơng chức; tài
chính cơng. Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì chính sách cơng
là cơng cụ tiền đề, khơng thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như
pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong
những năm gần đây Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm tới
việc nâng cao vai trị của chính sách cơng như là một công cụ hữu hiệu nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự
nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp
của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi cũng như đánh giá
chính sách ở Việt Nam đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì cần
giải quyết? Bên cạnh những thành tựu quan trọng về sự hiệu quả của các chính
sách đã được ban hành thì cũng ghi nhận nhiều hạn chế, bất cập trong đời sống
chính trị - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, nghiên cứu thực trạng cơng tác
chính sách trở thành tất yếu khách quan, để từ đó có cơ sở đề ra những giải pháp
nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế đó.
Chính vì vậy, em sẽ chọn đề tài: “Thực trạng cơng tác chính sách và các
giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính sách ở Việt Nam
hiện nay” làm tiểu luận kết thúc mơn học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về chính sách cơng; đề tài phân tích thực trạng
cơng tác chính sách của Việt Nam hiện nay, đánh giá những thành tựu đạt được
và những bất cập, hạn chế về cơng tác chính sách. Đồng thời đề tài đề xuất các
1



giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác chính sách ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Lý luận chung về chính sách cơng.
- Phân tích thực trạng cơng tác chính sách ở Việt Nam, đánh giá những
thành tựu đạt được và chỉ ra những bất cập hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác
chính sách ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: cơng tác chính sách
* Phạm vi nghiên cứu: ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp đọc
và phân tích tài liệu, tổng hợp tài liệu, thu thập thơng tin,…
5. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài
gồm 3 chương chính:
Chương 1. Lý luận chung về chính sách cơng
Chương 2. Thực trạng cơng tác chính sách ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính
sách ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm chính sách

Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm
vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh
vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy
thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Theo James Anderson: “Chính sách là một q trình hành động có mục
đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà
họ quan tâm”.
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà
lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình
* Khái niệm Chính sách cơng:
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ
máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng
được gọi là chính sách cơng. Cho đến nay có nhiều quan điểm về khái niệm
này:
William Jenkin cho rằng: “Chính sách cơng là một tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục
tiêu đó”. Theo quan điểm của Wiliam N. Dunn thì: “Chính sách cơng là một
kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết
định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước
đề ra”. Còn Peter Aucoin lại khảng định: “Chính sách cơng bao gồm các hoạt
động thực tế do Chính phủ tiến hành”, B. Guy Peter đưa ra định nghĩa:
3


“Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”,…
Mặc dù đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau nhưng có thể hiểu đơn

giản: chính sách cơng là định hướng hành động được nhà nước lựa chọn, phù
hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của xã hội
trong một thời kỳ nhất định.
Với quan niệm đó, chính sách cơng có vai trị to lớn trong hoạt động
quản lý xã hội của nhà nước. Trong nền hành chính nhà nước, chính sách cơng
là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các
yếu tố cấu thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán
bộ - cơng chức; tài chính cơng.
1.2. Các giai đoạn trong quy trình chính sách cơng
Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách cơng được thừa nhận phổ biến
hiện nay gồm các bước cơ bản sau: (i) thiết lập nghị trình chính sách; (ii) xây
dựng và đề xuất phương án chính sách; (iii) hợp pháp hóa chính sách hay ban
hành chính sách.
Thứ nhất, thiết lập nghị trình chính sách: Một trong những nhiệm vụ và
chức năng quan trọng của chính sách cơng đó là giải quyết các vấn đề xã hội. Vì
thế, vấn đề xã hội là nguồn gốc để thiết lập nghị trình chính sách. Trong xã hội
hiện đại, thường xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cùng lúc, vấn đề xã hội này xuất
hiện kế tiếp vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, không phải
tất cả các vấn đề xã hội đều được giải quyết thông qua công cụ chính sách. Chỉ
những vấn đề xã hội mà người làm chính sách nhận thấy cần thơng qua cơng cụ
chính sách để giải quyết thì mới được xem là vấn đề chính sách. Điểm cốt yếu ở
bước này là làm thế nào để xác định “đúng” và “trúng” vấn đề xã hội cần giải
quyết thơng qua chính sách. Điều đó có nghĩa là cần xác định được vấn đề xã
hội cần thiết phải ban hành chính sách để giải quyết, hạn chế được tình trạng có
những vấn đề xã hội bức xúc nhưng người làm chính sách lại chậm trễ trong
việc đưa vào nghị trình chính sách, hoặc có những vấn đề xã hội chưa thật sự
bức thiết nhưng lại được ưu tiên đưa vào nghị trình chính sách. Theo quan điểm
4



của James E. Anderson, việc một vấn đề xã hội nào đó được đưa vào nghị trình
chính sách và trở thành vấn đề chính sách liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau,
như vai trị của người lãnh đạo chính trị, sự kiện thu hút sự quan tâm của nhiều
người, phản ánh và thái độ của người dân, phản ánh của truyền thông đại chúng.
Trên thực tế, việc vấn đề xã hội được đưa vào nghị trình chính sách phụ
thuộc vào vai trò của nhiều chủ thể khác nhau, như lãnh tụ chính trị, đảng cầm
quyền, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, các đồn thể chính trị - xã hội, các
chuyên gia và nhà khoa học, công chúng, truyền thông đại chúng, sự xuất hiện
của các sự kiện. Tuy liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, song trong xã hội
dân chủ, chính sách cơng với tư cách “đầu ra” của hệ thống chính trị nhằm đáp
ứng nhu cầu của xã hội, thì việc xác định nghị trình chính sách cũng cần phải
dựa vào “đầu vào” là các nhu cầu và phản ánh của xã hội. Vì vậy, yêu cầu cốt lõi
ở đây là các chủ thể có liên quan cần thông qua các phương thức nhau để xác
định đúng và “trúng” vấn đề xã hội để đưa vào nghị trình chính sách. Đây là một
phương diện cơ bản thuộc về tính trách nhiệm và tính đáp ứng của quản trị nhà
nước với tư cách một trong những đặc trưng cơ bản của “quản trị tốt”.
Thứ hai, xây dựng và đề xuất phương án chính sách: Sau khi xác định
được vấn đề xã hội nào đó, cần ban hành chính sách để giải quyết thì vấn đề xã
hội trở thành vấn đề chính sách. Do đó, nhiệm vụ tiếp theo của bước này là, trên
cơ sở phân tích vấn đề của chính sách để xây dựng và hình thành các phương án
chính sách. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là q trình trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích đối với vấn đề chính sách để đề xuất biện pháp hoặc
phương án chính sách tương ứng. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách
gắn liền với nhiều nội dung, như phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu
mà chính sách cần đạt được, thiết kế phương án, đánh giá đối với từng phương
án và lựa chọn phương án phù hợp nhất. Xây dựng và đề xuất phương án chính
sách có ba đặc trưng sau:
(1) Mục đích của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách là giải
quyết vấn đề chính sách cụ thể. Sự tồn tại khách quan của vấn đề chính sách là
tiền đề và cơ sở của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách. Tính chất,

5


phạm vi và mức độ của vấn đề chính sách quyết định nội dung chủ yếu của
phương án chính sách;
(2) Nội dung cơ bản của xây dựng phương án chính sách là thiết kế
phương án và lựa chọn phương án. Việc thiết kế phương án chính sách chính là
nhằm giải quyết vấn đề chính sách; đó là việc dựa trên các phương pháp định
tính và định lượng để đề xuất ra các phương án chính sách khác nhau. Trên cơ
sở các phương án chính sách đó, người thiết kế chính sách thơng qua việc phân
tích, so sánh và luận chứng một cách đầy đủ để lựa chọn một phương án chính
sách có khả năng thực hiện được mục tiêu của chính sách một cách tốt nhất. Khi
thiết kế phương án chính sách, cần quan tâm đến mục tiêu chính sách. Mục tiêu
chính sách rõ ràng hay khơng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng phương án
chính sách cũng như ảnh hưởng đến việc thực thi. Việc đánh giá và xác định
phương án chính sách ưu tiên cần quan tâm phân tích và luận chứng tính khả thi
của phương án chính sách (tính khả thi về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, hành
chính, pháp luật…); đồng thời cần đánh giá sự ảnh hưởng của nhân tố tương lai
đối với chính sách;
(3) Xây dựng và đề xuất phương án chính sách vừa là một hoạt động
nghiên cứu, vừa là một hành vi chính trị. Xây dựng và đề xuất phương án chính
sách là một q trình hoạt động rất phức tạp. Một mặt, cần phát huy vai trò và sự
tham gia của các nhà khoa học, tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp khoa học
để phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu chính sách, thiết kế phương
án, đánh giá phương án và lựa chọn phương án phù hợp. Mặt khác, do chính
sách liên quan đến việc điều chỉnh và phân phối lợi ích của những đối tượng liên
quan trong xã hội, do đó cần coi trọng và đảm bảo sự tham gia của những đối
tượng liên quan.
Những nguyên tắc cơ bản mà việc xây dựng và đề xuất phương án chính
sách cần tuân thủ là:

(i) Nguyên tắc đầy đủ về thông tin: Thông tin là cơ sở và căn cứ của việc
xây dựng và đề xuất phương án chính sách; do đó, người thiết kế chính sách cần

6


thơng qua nhiều phương thức khác nhau để có được thơng tin tồn diện và chính
xác;
(ii) Ngun tắc hệ thống: Khi xây dựng và đề xuất phương án chính sách,
người thiết kế chính sách cần xuất phát từ quan điểm hệ thống để phân tích tổng
hợp đối với phương án chính sách, cần giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa lợi
ích chỉnh thể và lợi ích bộ phận, giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên
ngoài, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa mục tiêu chủ yếu và mục
tiêu thứ yếu. Đặc biệt, nguyên tắc hệ thống cịn u cầu, người thiết kế chính
sách cần thấy được mối quan hệ và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chính sách,
hạn chế tình trạng xung đột chính sách;
(iii) Ngun tắc dự báo khoa học: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất
phương án chính sách cần đặt nó trong xu thế vận động và nhu cầu của tương
lai;
(iv) Nguyên tắc khả thi: Có nghĩa là việc đề xuất và thiết kế phương án
chính sách cần phân tích một cách tồn diện để xác định có khả thi hay khơng,
nhất là với điều kiện và nguồn lực hiện tại, có thực hiện được hay khơng, hiệu
quả có đảm bảo hay khơng;
(v) Ngun tắc hợp pháp: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án
chính sách cần phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
(vi) Nguyên tắc dân chủ: Có nghĩa là, việc thiết kế và đề xuất bất cứ
phương án chính sách nào cần phải xem liệu có lợi cho lợi ích cơng hay khơng,
có phản ánh thật sự nhu cầu và lợi ích của người dân hay khơng. Nguyên tắc dân
chủ còn yêu cầu việc thiết kế phương án chính sách cần cơng khai, minh bạch,
cần đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan đối với q trình này,

nhất là phát huy vai trị và sự tham gia của các tổ chức tư vấn chính sách. Việc
thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ, nhất là đảm bảo tính cơng khai, minh bạch và
sự tham gia của người dân có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện các
nguyên tắc nói trên.
Thứ ba, hợp pháp hóa chính sách: Hợp pháp hóa chính sách hay ban hành
chính sách được hiểu là cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở quy định
7


của pháp luật tiến hành đánh giá, thẩm tra để thơng qua hoặc phê chuẩn phương
án chính sách. Chẳng hạn, trên cơ sở thẩm định, thẩm tra và thảo luận đối với dự
án luật do cơ quan có liên quan đệ trình, Quốc hội biểu quyết thơng qua dự án
luật đó. Tất cả dự thảo chính sách đều phải thơng qua bước hợp pháp hóa này
mới có hiệu lực thi hành. Nhìn chung, ở mỗi nước, pháp luật quy định khác nhau
về trình tự, thủ tục và thẩm quyền của cơ quan và cá nhân trong việc thông qua
một dự thảo chính sách, pháp luật.
1.3. Bản chất của chính sách cơng
Chính sách cơng là chính sách của nhà nước đối với khu vực cơng cộng,
phản ánh bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị trong đó nhà nước
tồn tại; đồng thời phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của đảng chính
trị phục vụ cho mục đích của đảng, lợi ích và nhu cầu của nhân dân. Nhà nước
dựa trên nền tảng nhân dân, là chủ thể đại diện cho quyền lực của nhân dân ban
hành. Ngồi mục đích phục vụ cho lợi ích của giai cấp, của đảng cẩm quyền còn
để mưu cầu lợi ích cho người dân và xã hội. CSC được hoạch định bởi đảng
chính trị nhưng do chính phủ xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện. Bản chất
của chính sách cơng là cơng cụ để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình, thực hiện các hoạt động liên quan đến công dân và can thiệp vào hành vi
xã hội trong quá trình phát triển thiệp vào mọi hành vi xã hội trong quá trình
phát triển.
CSC là ý chí chính trị của đảng cầm quyền, được thể hiện cụ thể là các

quyết sách, quyết định chính trị của nhà nước. Các quyết định này nhằm duy trì
tình trạng xã hội hoặc giải quyết các vấn để xã hội, đáp ứng nhu cầu của người
dân. Ý chí chính trị của đảng cầm quyển được cụ thể hóa thành chính sách,
thơng qua đó thiết lập mối quan hệ giữa đảng, nhà nước với người dân. Thông
qua CSC đảng cầm quyền dẫn dắt các quan hệ trong xã hội theo định hướng của
đảng. Các cá nhân trong xã hội là những đối tượng trực tiếp thụ hưởng và thực
hiện chính sách. Vì vậy, chính sách chỉ có hiệu lực, hiệu quả thực sự khi được
các cá nhân trong xã hội tiếp nhận và thực hiện. Để đạt được điều đó thì điều

8


kiện tối thiểu là CSC phải minh bạch, ổn định, dễ hiểu và vai trò chủ thể thực
hiện CSC phải là cơng chúng, mặc dù người khởi xướng chính sách là nhà nước.
1.4. Vai trị của chính sách cơng
Vai trị cơ bản của CSC thể hiện ở chỗ là công cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển
của nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Dưới góc độ
quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng CSC như một công cụ quan trọng
tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của
nhà nước. Ngồi vai trị cơ bản này, CSC cịn có vai trị cụ thể sau:
Thứ nhất, định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh
tế - xã hội. Do chính sách phản ánh thái độ, cách xử sự của nhà nước đối với
một vấn đề cơng, nên nó thể hiện rõ những xu thế tác động của nhà nước lên các
chủ thể trong xã hội, giúp họ vận động đạt được những giá trị tương lai mà nhà
nước mong muốn. Giá trị đó chính là mục tiêu phát triển phù hợp với những nhu
cầu cơ bản của đời sống xã hội. Nếu các chủ thể kinh tế, xã hội hoạt động theo
định hướng tác động của chính sách thì khơng những dễ dàng đạt được mục tiêu
phát triển mà còn nhận được những ưu đãi từ phía nhà nước hay xã hội. Điểu đó
có nghĩa là, cùng với mục tiêu định hướng, cách thức tác động của CSC cũng có

vai trị định hướng cho các chủ thể hành động.
Thứ hai, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội theo mục tiêu chung. Muốn đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
chung, nhà nước phải ban hành nhiều chính sách, trong đó mỗi chính sách lại có
những cách thức tác động mang tính khuyến khích đối với các chủ thể thuộc mọi
thành phần như: miễn giảm thuế, tạo cơ hội tiếp cận với nguồn vốn có lãi suất
ưu đãi, ban hành những thủ tục hành chính đơn giản và các chế độ ưu đãi đặc
biệt khác,.. Sự tác động của CSC không mang tính bắt buộc, mà chỉ khuyến
khích các chủ thể hành động theo ý chí của nhà nước. Chẳng hạn, để tăng cường
đầu tư vào nền kinh tế, Nhà Việt Nam ban hành chính sách khuyến khích các
chủ thể trong nước và nước ngồi tích cực đầu tư vào các ngành, lĩnh vực hay
những vùng cần được ưu tiên phát triển.
9


Thứ ba, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của
nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh và các
quy luật thị trường khác đã thúc đẩy mỗi chủ thể trong xã hội đầu tư vào sảnxuất
kinh doanh, không ngừng đổi mới công nghệ nâng cao năng suất lao động, chất
ượng sản phẩm, hạ giá thành hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhờ đó
mà cả xã hội và từng người dân, tổ chức đều được hưởnq lợi như: hàng hóa và
dịch vụ tăng về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, thương hiệu, mẫu
mã, chất lượng ngày càng tược nâng cao với giá tiêu dùng ngày càng rẻ. Nhưng,
sự vận hành của thị trường cũng gây ra những tác động tiêu cực mà các nhà kinh
tế gọi là mặt không thành công hay mặt trái của thị trường như: độc quyền trong
sản xuất cung ứng khơng đầy đủ hàng hóa cơng cộng, sự bất công bằng, chênh
lệch giàu nghèo và thất nghiệp gia tăng, bất ổn định kinh tế vĩ mô, cá lớn nuốt cá
bé... gây ảnh hưởng khơng tốt lên tồn xã hội và mỗi người dân.
Thứ tư, tạo lập các cân đối trong phát triển. Để kinh tế - xã hội phát triển
một cách ổn định bền vững, nhà nước phải dùng chính sách để tạo lập các cân

đối vĩ mơ cơ bản như cân đối giữa hàng - tiền, cung - cầu, xuất - nhập khẩu, tiết
kiệm - tiêu dùng,.. Đồng thời, nhà nước cịn dùng chính sách để điều tiết đảm
bảo cho sự phát triển cân đối giữa các vùng miền của đất nước
Thứ năm, kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong xã hội. Nhà nước
luôn luôn quan tâm đến quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho phát
triển. Mục tiêu phát triển bền vững bao gồm cả gia tăng về lượng và cải thiện về
chất trong hiện tại và tương lai, vì thế tài nguyên tự nhien và xã hội của một
quốc gia là cái hữu hạn luôn trở thành vấn đề quan tâm chính yếu của nhà nước.
Để sử dụng có hiệu quả tài nguyên theo hướng bền vững, nhà nước thông qua
các chính sách thực hiện kiểm sốt q trình khai thác, sử dụng tài nguyên và
phân bổ hợp lý các nguồn lực trong xã hội, ví dụ như chính sách xây dựng vùng
kinh tế mới, chính sách xây dựng khu cơng nghiệp, khu chế xuất, chính sách đất
đai, chính sách thuế, chính sách bảo vệ tài ngun, mơi trường...
Thứ sáu, tạo mơi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội.

10


Thơng qua các chính sách, nhà nước tạo những điều kiện cần thiết để hình
thành mơi trường thuận lợi cho các chủ thể xã hội hoạt động như: chính sách
phát triển thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ,
thị trường bất động sản, phát triển cơ sở hạ tầng...
Các chính sách là cơng cụ đặc thù và không thể thiếu được mà nhà nước
sử dụng để quản lý kinh tế vĩ mơ, chúng có chức năng chung là tạo ra những
kích thích đủ lớn cần thiết để biến đường lối chiến lược của đảng cầm quyền
thành hiện thực, góp phần thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người
trong xã hội.
Có một hệ thống chính sách kinh tế đồng bộ, phù hợp với nhu cầu phát
triển của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định sẽ là bảo đảm vững chắc
cho sự vận hành của cơ chế thị trường năng động, hiệu quả. Nhờ đó có thể khơi

dậy các nguồn tiềm năng, phát huy tính tích cực, sáng tạo vã ý chí vươn lên làm
cho dân giàu, nước mạnh của tầng lớp dân cư.
Thứ bảy, thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành. Việc
thực hiện các giai đoạn trong quy trình chính sách khơng chỉ và khơng thể do
một cơ quan nhà nước đảm nhiệm, mà cần có sự tham gia của nhiều cơ quan
thuộc các cấp, các ngành khác nhau hay của nhiều tổ chức, cá mân. Vì vậy,
thơng qua q trình chính sách sẽ thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân, góp phần
tạo nên sự nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động thực thi CSC.

11


CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những thành tựu đạt được
Trong nền hành chính nhà nước, CSC là bộ phận nền tảng trọng yếu của
thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành
chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - cơng chức; tài chính cơng.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là công cụ tiền
đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế
hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần
đây Đảng và Nhà Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trị của
CSC như là một cơng cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói
riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên,
trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động
hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra
những vấn đề gì cần giải quyết?

Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết
quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,
cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân
sự, ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn,
bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo
lập và hồn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách
mới được ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn
thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu như: chính sách kích cầu,
chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay
12


của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách
mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách
điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất
nơng nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong
kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng
của nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá
như những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của
kinh tế tồn cầu và khu vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ
bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong
triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính đến
đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Cơng tác tổng kết thực tiễn thi
hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ kết,
tổng kết khá cơng phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn

tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với khơng ít
kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.
Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư cách
là một trong những cơng đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa nhiều và
chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên
cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá CSC rất tốt, giúp cho
việc ban hành, sửa đổi nhằm hồn thiện hệ thống chính sách hiện hành theo
hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, vai trò của một số
tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá CSC được dư luận xã hội
thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của chúng như: Viện
nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)… Nhờ đó, từ chỗ là cơng việc
khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân tích, đánh giá
CSC đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn khơng chỉ từ phía các cơ quan nhà
nước mà còn là của xã hội.
13


2.2. Những hạn chế, bất cập tồn tại
Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Năng lực xây dựng
thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự
báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực cịn yếu…".
Có thể thấy những hạn chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Lý luận về mơ hình phát triển chung còn nhiều vấn đề chưa được làm
sáng tỏ đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh
vực vĩ mô như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới kinh
tế, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, về tăng trưởng đi đôi với
thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả q trình phát triển, về
bảo vệ mơi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, cịn nhiều vấn đề đặt

ra rất bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận hay
nói cách khác, lý luận còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của nó là
tư duy chưa thật sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức hợp của công
cuộc đổi mới.
Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật
sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban
hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn cịn khơng ít những chính sách
xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và khơng được dư luận thật
sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành
tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích
của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không
nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới
tổ chức thực thi CSC.
Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng
hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một khơng hai"
(theo dẫn chứng của Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản)
(2). Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:

14


- Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà
nước, của nhà nước nói chung mà chưa phải là công việc chung của xã hội, của
các doanh nghiệp, của các nhóm lợi ích trong xã hội.
- Có q nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây
dựng phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ
quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng khơng cao. Trong khi
đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu, quan
điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể hay
các biện pháp cần có.

- Chưa hình thành được những kênh thơng tin chính thống cần thiết giữa
nhà nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi CSC để phúc đáp
những lợi ích cơ bản của đơi bên.
- Vai trị của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát
huy nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất
lượng chưa cao, thậm chí xã hội khơng đồng tình.
- Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức
thừa nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với
những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính cơng bằng của
chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan tâm
nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.
Trong lĩnh vực tổ chức thực thi CSC bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ
yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một
số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận
trong q trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương
pháp, nội dung; cịn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu
quả. Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và
thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong q
trình thực hiện cịn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã
ảnh hưởng xấu đến thực hiện CSC. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm
15


cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường
xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy
làm chính sách. Điều này khơng chỉ đúng với quy trình chính sách của chính
quyền địa phương mà cịn của Chính phủ, các bộ, ngành. Trong những năm gần
đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ hơn về vai trò quan trọng của

hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách. Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt
động phân tích, đánh giá CSC cịn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức;
khơng có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng
và quy mơ để có thể tạo ra được những đột phá về chính sách trong từng lĩnh
vực. Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích,
đánh giá CSC được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây lãng
phí, thiệt thịi cho tồn bộ quy trình CSC hoặc từng cơng đoạn trong đó. Việc
tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cịn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái độ
phân biệt, phê phán, "chụp mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên
cứu về CSC chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản
thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản ứng của
một số cơ quan nhà nước.

16


CHƯƠNG 3.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả xây
dựng và thực thi chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay, cần quan tâm một số vấn
đề sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế hoạch định chính sách
cơng
Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện
các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi
dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát
triển nhanh và bền vững”.
Một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp và hoạch

định chính sách cơng ở Việt Nam thời gian qua là đồng nhất quy trình hoạch
định và xây dựng chính sách cơng với quy trình làm luật; lồng ghép việc xây
dựng chính sách và xây dựng luật. Điều đó dẫn đến tình trạng có khi luật được
ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc sống hoặc không phù hợp với cuộc sống
do việc nghiên cứu, hoạch định chính sách cịn yếu, khơng tương thích với luật.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, ngày 22-6-2015, Quốc hội đã ban
hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chung cho các cơ quan nhà
nước thay thế hai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2004 và
2008. Luật năm 2015 đã chú trọng hơn đến quy trình phân tích, hoạch định
chính sách bằng việc bổ sung những quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đề xuất chính sách và đề cao sự tham gia rộng rãi của các
tầng lớp nhân dân. Điểm nhấn quan trọng là Luật mới dành Điều 35 để quy định
về trách nhiệm, nội dung đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh. Vấn đề quan trọng hiện nay là triển khai các văn bản pháp
luật nói trên vào quá trình hoạch định và tổ chức thực thi chính sách cơng của

17


chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, kịp thời loại bỏ những cách làm và
những văn bản không phù hợp, trái với quy định của luật.
Hai là, đổi mới quy trình hoạch định chính sách cơng theo hướng dân
chủ, cơng khai, minh bạch; thể chế hóa sự tham gia của các chủ thể trong xây
dựng chính sách; thiết lập quy trình xây dựng chính sách cơng với sự tham gia
của tất cả các bên có liên quan: chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị
- xã hội, người dân, các nhà khoa học, chuyên gia...
Nói cách khác, việc xây dựng chính sách cơng từ chỗ chỉ là chức năng đặc
quyền của các cơ quan nhà nước trở thành mối quan tâm và trách nhiệm của
toàn xã hội. Việt Nam cần có một đội ngũ những người hoạch định chính sách
chuyên nghiệp, với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội khác nhau. Cụ thể

là:
- Tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính
sách,coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình hoạch định chính sách, tạo
điều kiện để mọi người dân nắm được thơng tin và đóng góp vào các dự thảo
chính sách liên quan trực tiếp đến mình, tránh để tình trạng “chính sách trên trời
được ban hành cho dân dưới đất” vì khơng đủ điều kiện để thực hiện.
- Tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm lợi ích,
đặc biệt là các doanh nghiệp. Tiếp tục tổ chức và thực hiện diễn đàn đối thoại
giữa doanh nghiệp với Thủ tướng để giám đốc các doanh nghiệp có thể trao đổi
trực tiếp với Thủ tướng về những vấn đề của doanh nghiệp. Thông qua đối thoại,
Chính phủ hiểu các doanh nghiệp muốn gì và các doanh nghiệp biết Chính phủ
định làm gì.
- Thành lập nhóm các chuyên gia giỏi, hình thành những “Think tanks”
giúp việc cho Thủ tướng Chính phủ trong việc nghiên cứu và thiết kế chính
sách, được lựa chọn từ các cơng chức cao cấp, có năng lực, trình độ từ các bộ,
ngành, kể cả các chuyên gia là người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngồi.
Nhóm chun gia, những “Think tanks” này thường xuyên có sự tương tác hai
chiều với Thủ tướng và các bộ, ngành thực thi chính sách. Ngày 28-7-2017, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1120/QĐ-TTg thành lập Tổ Tư vấn kinh
18



×