Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận môn khoa học lãnh đạo tư tưởng “đức trị” của khổng tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.08 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC KHOA HỌC LÃNH ĐẠO

TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” CỦA KHỔNG TỬ VÀ
SỰ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỌC THUYẾT ĐỨC TRỊ...................3
1.1 Khổng Tử – Nhà quản lý xuất sắc...............................................................3
1.2. Khổng Tử – nhà tư tưởng quản lý của thuyết Đức trị................................4
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” VÀO THỰC
TIỄN LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................11
2.1 Sự vận dụng tư tưởng “Đức trị” vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay..................................................................................................11
2.2 Những ưu điểm và khuyết điểm của tư tưởng “Đức trị”...........................15
III. KẾT LUẬN:............................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21


I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Phương Đông là một trong những chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân
loại. Từ thiên niên kỷ thứ VIII trước Công nguyên, ấn độ và Trung hoa cổ đại
đã trở thành trung tâm văn minh lớn của xã hội loài người lúc bấy giờ. Những
tư tưởng triết học phương Đơng ít khi tồn tại dưới dạng triết học thuần tuý mà


thường được trình bày dưới dạng xen kẽ hoặc ẩn sau các vấn đề chính trị- xã
hội, đạo đức, nghệ thuật trong lịch sử triết học phương Đơng, ít thấy có những
bước phát triển nhảy vọt về chất có tính vạch thời đại: Nho giáo, Phật giáo,
Bà la mơn giáo, ... được hình thành từ thời cổ đại nhưng đến cuối thế kỷ XIX
vẫn giữ nguyên tên gọi và hình thức biểu hiện.
Nho giáo là một trường phái do Khổng Tử, tên thật là Khâu, hay còn
gọi là Trọng Ni, người nước Lỗ (551 - 479 trước Công nguyên, thời Xuân
Thu - Chiến quốc) sáng lập. Khổng Tử là người mở đường vĩ đại của lịch sử
tư tưởng Trung Quốc cổ đại. ông là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo
dục nổi tiếng ở Trung quốc cổ đại. Ông đã hệ thống những tri thức tư tưởng
đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị riêng, gọi
là Nho giáo. Học thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân
Tử hoàn thiện và phát triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo
hướng duy vật. Trong lịch sử sau này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu
dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo được nhiều nhà tư tưởng phát triển và
sử dụng theo mơi trường xã hội của nó.
Lãnh đạo, quản lý khơng những chỉ cần đến các chính sách, Pháp luật,
những chuẩn mực có sẵn mà cịn địi hỏi các nhà quản lý cần có những nghệ
thuật, sự khéo léo, tài tình, sự linh hoạt. Đối với một lĩnh vực rộng lớn là xã
hội với bao la những vấn đề hàm chứa trong đó, thì sự kết hợp giũa các chuẩn
mực có sẵn với sự tài ba, nghệ thuật của các nhà quản lý là một điều vô cùng
quan trọng. Qúa trình đó cần được hình thành, phát triển, tích lũy, kế thừa và
1


phát huy theo thời gian, thời đại, thích nghi với sự biến đổi và phát triển của
xã hội. Sự ra đời và việc ứng dụng các học thuyết lãnh đạo, quản lý có vai trị
quan trọng trong việc lãnh đạo quản lý, cũng như lãnh đạo, quản lý trên mọi
lĩnh vực nói riêng.
Đức trị là học thuyết chính trị có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn

hóa tinh thần của người phương Đông, chiếm địa vị thống trị tư tưởng trong
suốt thời kỳ lịch sử ở Trung Quốc và nhiều nước Đông Á, như: Nhật Bản,
Hàn Quốc, Việt Nam, Singapore…để từ đó hình thành nên khơng gian “Văn
hóa Khổng giáo” của Đông phương. Học thuyết đức trị do Khổng Tử (551479 tr.CN) khởi xướng và được các đại biểu Mạnh Tử (372-289 tr.CN), Tuân
Tử (298-238 tr.CN) tiếp tục bổ sung và phát triển. Các sách: Tứ thư (gồm
Luận ngữ - Đại học- Trung dung- Mạnh Tử) và Ngũ kinh (các kinh Dịch –
Thi – Thư - Lễ - Xuân Thu) là những tác phẩm văn hóa độc đáo, kinh điển
của học thuyết đức trị.
Chính vì lý do trong bài luận này, em xin đề cập đến “Tư tưởng “đức
trị” của Khổng Tử và sự vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay.” Để đi tìm hiểu về tư tưởng Đức trị và sự vận dụng vào thực
tiễn lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

2


II. NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỌC THUYẾT ĐỨC TRỊ
1.1 Khổng Tử – Nhà quản lý xuất sắc
Khổng Tử là một nhân vật lớn có ảnh hưởng tới diện mạo và sự phát
triển của một số dân tộc. Ở tổ quốc ơng, Khổng học có lúc bị đánh giá là hệ tư
tưởng bảo thủ của (những người chịu trách nhiệm rất nhiều về sự trì trệ về
mặt xã hội của Trung Quốc”. Ở những nước khác trong khu vực như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapor… Khổng Giáo lại được xem xét như một nền tảng
văn hoá tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hố
các quốc gia theo mơ hình xã hội “ổn định, kỷ cương và phát triển”.
Sự đánh giá về Khổng Tử rất khác nhau, trước hết là vì những mập mờ
của lịch sử. Ông sống cách chúng ta hơn 2 nghìn năm trăm năm và sau ơng có
rất nhiều học trị, mơn phái phát triển hệ tư tưởng nho giáo theo nhiều hướng
khác nhau. Có khi trái ngược với tư tưởng của thầy. Ở Trung Quốc vai trị của

ơng đã nhiều lần thăng giáng theo quan điểm và xu hướng chính trị, song đến
nay, ơng vẫn lại được đánh giá cao, UNESCO đã thừa nhận ông là một “danh
nhân văn hố thế giới”.
Việc tách riêng từng khía cạnh trong cái tài năng đa dạng và thống nhất
của ơng đã tìm ra một Khổng Tử là nhà tư tưởng lớn về Triết học, chính trị
học, đạo đức học và giáo dục học. Trong các lĩnh vực đó thật khó xác định
đâu là đóng góp lớn nhất của ơng. Có thể nhận định rằng, tầm vóc của Khổng
Tử lớn hơn khía cạnh đó cộng lại, và sẽ là khiếm khuyết nếu khơng nghiên
cứu ông như một nhà quản lý.
Nếu thống nhất với quan niệm nhà quản lý là nhà lãnh đạo của một tổ
chức, là người “thực hiện cơng việc của mình thơng qua những người khác thì
Khổng Tử đúng là người như vậy.

3


1.2. Khổng Tử – nhà tư tưởng quản lý của thuyết Đức trị
Sống trong một xã hội nông nghiệp, sản xuất kém phát triển vào cuối
đời Xuân Thu, đầy cảnh “đại loạn” và “vô đạo”, bản thân đã từng làm nhiều
nghề “bỉ lậu” rồi làm quan cai trị, Khổng Tử nhận thức được nhu cầu về hồ
bình, ổn định, trật tự và thịnh vượng của xã hội và mọi thành viên.
Khác với Trang Tử coi đời như mộng, kiếp người phù du chỉ cốt “toàn
sinh” cho bản thân, Khổng Tử là một người “nhập thể” và luôn trăn trở với
chuyện quản lý của xã hội theo cách tốt nhất. Song, ông không phải là một
nhà cách mạng từ dưới lên, ông chỉ muốn thực hiện những cải cách xã hội từ
trên xuống, bằng con đường “Đức trị”.
Xã hội lý tưởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong
kiến có tơn ti, trật tự. Từ Thiên Tử tới các chư hầu lớn nhỏ, từ quý tộc tới bình
dân, ai có phận nấy, đều có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoà hảo với nhau,
giúp đỡ nhau, nhất là hạng vua chúa, họ phải có bổn phận dưỡng dân- lo cho

dân đủ ăn đủ mặc, và bổn phận giáo dân bằng cách nêu gương và dậy lễ,
nhạc, văn, đức, bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ
sở và hình mẫu, trọng hiếu đễ, u trẻ, kính giá. Mọi người đều trọng tình
cảm và cơng bằng, khơng có người q nghèo hoặc q giàu; người giàu thì
khiêm tốn, giữ lễ, người nghèo thì “lạc đạo”.
Dù sao thì ý tưởng trên cũng được cả hai giai cấp bóc lột và bị bóc lột
thời đó dễ chấp nhận hơn, dễ thực hiện hơn so với hình mẫu xã hội vơ chính
phủ “ngu si hưởng thái bình” của Lão Tử và mẫu “quốc cường qn tơn”
bằng hình phạt hà khắc và lạm dụng bạo lực của phái pháp gia.
Cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội trên, cái giúp cho các nhà cai trì
lập lại trật tự từ xã hội vơ đạo chính là đạo Nho – đạo Nhân của Khổng Tử.
Cho nên, dù có nói về chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất

4


phát từ vấn đề nhân sự và mục đích của ông chính là xaay dựng một xã hội
nhân bản.
1.2.1. Đạo nhân về quản lý
Với vũ trụ quan “thiên, địa, nhân – vạn vật nhất thể”, trời và người
tương hợp, Khổng Tử nhận thấy các sự vật của vạn vật tuân theo một quy luật
khách quan mà ông gọi là trời “mệnh trời”. Con người theo Nho học “là cái
đức của trời, sự giao hợp âm dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái khí tinh tú của
ngũ hành”. Con người sinh ra đều có bản chất Người (đức – nhân) nhưng do
trời phú khác nhau về năng lực, tài năng và hồn cảnh sống (mơi trường) khác
nhau cho nên đã trở thành những nhân cách không giống nhau. Bằng sự học
tập, tu dưỡng khơng ngừng, con người dần dần hồn thiện bản chất người của
mình – trở thành người Nhân. Và những người hiền này có xứ mệnh giáo hố
xã hội, thực hiện nhân hoá mọi tầng lớp. Nhờ vậy, xã hội trở nên có nhân
nghĩa và thịnh trị. Học thuyết Nhân trị của Khổng Tử cũng là một học thuyết

quản lý xã hội nhằm phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người, lãnh
đạo – cai trị họ theo nguyên tắc đức trị: người trên noi gương, kẻ dưới tự giác
tuân theo.
– Về đạo Nhân:
“Nhân là yêu người” (Nhân là ái nhân). Nhân là giúp đỡ người khác
thành cơng “Người thân, mình muốn thành cơng thì cũng giúp người khác
thành cơng, đó là phương pháp thực hành của người nhân”. Nhưng Khổng Tử
khơng nói đến tính nhân chung chung ơng coi nó như đức tính cơ bản của nhà
quản lý. Nói cách khác, người có nhân ln tìm mọi cách đủ thu lợi về mình,
nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý (trong quan hệ nhà quản lý
với đối tượng bị quản lý) vưà là đạo đức và hành vi của các chủ thể quản lý.
Khổng Tử nâng tư tưởng nhân lên thành đạo (nguyên tắc sống chung cho xã
hội) vì là một nhà tư tưởng quản lý sâu sắc, ơng thấy đó là ngun tắc chung

5


gắn kết giữa chủ thể và khách thể quản lý đạt hiệu quả xã hội cao: “người
quân tử học đạo thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến” (Dương
hố).
– Nhân và lễ:
Nhân có thể đạt được qua Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân, thiếu
Nhân thì Lễ chỉ là hình thức giả dối: “Người khơng có đức Nhân thì Lễ mà
làm chi”.
– Nhân và Nghĩa:
Đúng lễ cũng là làm đúng nghĩa rồi. Nhân gắn liền với Nghĩa vì theo
Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì phải làm, khơng mưu tính lợi của cá nhân
mình. “Cách xử sự của người qn tử, khơng nhất định phải như vậy mới
được, không nhất định như kia là được, cứ hợp nghĩa thì làm”, làm hết mình
khơng thành thì thơi.

Tư tưởng nhân ái của Khổng Tử có thể so sánh với tình bác ái của chúa
Giê su và Đức phật. Nhưng ông khác 2 vị kia ở chỗ, trong tình cảm, có sự
phân biệt tuỳ theo các mối quan hệ: trước hết là ruột thịt, sau đến thân, quen
và xa hơn là người ngồi.
– Nhân và Trí
Trí trước hết là “biết người”. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp
người mà không làm hại cho người, cho mình: “Trí giả lợi Nhân”. Rõ ràng là
người Nhân không phải là người ngu, không được để cho kẻ xấu lạm dụng
lịng tốt của mình. Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người
Nhân – quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu người, dùng người
của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét.
– Nhân và Dũng

6


Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hy sinh cả bản thân mình vì
nghĩa lớn. Khổng Tử khen Bá Di, Thúc Tê, thà chết đói chứ khơng thèm cộng
tác với kẻ bất nhân, là người Nhân. Khổng Tử rất ghét những kẻ hữu Dũng
bất Nhân, vì họ là nguyên nhân của loạn.
Đạo của Khổng Tử không quá xa cách với đời. Nhân – Trí – Dũng là
những phẩm chất cơ bản của người quân tử, là tiêu chuẩn của các nhà quản
lý- cai trị. Tư tưởng đó của Khổng Tử được Hồ Chsi Minh kế thừa có chọn
lọc và nó vẫn cịn ảnh hưởng đối với sụ phát triển của xã hội hiện nay. Khổng
Tử cũng mong phú quý, nhưng ơng chỉ thừa nhận nó trở thành ích lợi cho xã
hội khi nó “khơng trái với đạo lý” và phải đạt được bằng những phương tiện
thích đáng. Khổng Tử khuyên các nhà cai trị không nên chỉ dựa vào lợi để ra
quyết định quản lý: “nương tựa vào điều lợi mà làm hay là sinh ra nhiều điều
oán” (Lý nhân, IV). Ơng biết họ có nhiều ưu thế để tranh lợi với cấp dưới và
những người lao động luôn phải chịu mức sống thấp hơn, cho nên, điều quan

trọng đối với nhà quản lý là phải nghiêm khắc với mình, rộng lượng với
người và lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Chỉ như
vậy xã hội mới có cái lợi dài lâu là mơi trường chính trị – xã hội ổn định, các
giai cấp hợp tác cùng làm ăn vì mục tiêu chung: kinh tế thịnh vượng, tinh thần
tốt đẹp.
Khổng Tử khuyên các nhà quản lý phải “khắc phục được tư dục”,
không nên cầu lộc cho cá nhân mình, cứ chuyên tâm làm tốt cơng việc thì
“bổng lộc tự khắc đến”. Làm cho dân giàu là mục tiêu đầu tiên, cơ bản của
nhà quản lý”: đối với những người nông dân nghèo khổ đương thời, Khổng
Tử biết lợi ích kinh tế là nhu cầu thiết yếu của họ, nên ông biết đạo Nhân sẽ
khó thực hiện được khi quần chúng cịn nghèo khổ: “Nghèo mà khơng ốn là
khó, giàu mà khơng kiêu là dễ” (Hiếu Vấn). Khổng Tử sang nước Vệ, Nhiễm
Hữu đánh xe, Khổng Tử nói: “Dân đơng thay”, Nhiễm Hữu hỏi: “Đã đông rồi

7


làm gì hơn nữa?”, Khổng Tử nói: “ Làm cho dân giàu”, Nhiễm Hữu hỏi: “ Đã
giàu rồi, lại làm gì hơn nữa?”, Khổng Tử nói: “Giáo dục họ”.
Tư tưởng “làm cho dân giàu”, “tiên phú, hậu giáo” là tư tưởng duy vật
của Khổng Tử, được các học giả của Nho gia và Mắc gia sau này phát triển
thêm. Nhưng những giá trị tư tưởng của Khổng Tử để lại cho hậu thế đã
không bị mai một theo thời gian. Ngày nay, hệ thống học thuyết của Khổng
Tử đã trở nên lạc hậu, trước hết là phần nội dung liên quan tới vấn đề thế giới
quan, song nhiều triết lý của ông về đạo đức – đạo lý, giáo dục, cai trị – quản
lý con người và xã hội… vẫn là những nguyên tắc và triết học chỉ đạo một số
hoạt động. Ví dụ như:
Khổng Tử nhấn mạnh tới quá trình tự tu dưỡng trong hoạt động quản
lý: “tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ” (Đại học).
Người Nhân thì phải hết lịng vì người, biết từ bụng ta suy ra bụng

người: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Luận ngữ).
Trong hoạt động kinh tế, không chỉ căn cứ vào lợi nhuận đơn thuần
“Giàu sang là điều ai cũng muốn, nhưng nếu được giàu sang mà trái với đạo
lý thì người qn tử khơng thèm”. Cứ làm việc tốt, phục vụ người tốt thì
“bổng lộc tự khắc đến”.
Ở đây có một điểm cần nói rõ hơn: “Chính” mà Khổng Tử nói ở đây là
chính trị, chính sự. Và chính trị là chỉ mọi biện pháp được thi hành để quản lý
đất nước, làm cho chính sự được quản lý chặt chẽ; chính sự là chỉ việc làm
hành chính. Khổng Tử chủ trương tham gia chính trị ni dưỡng nhân tài
“Tịng chính” có nghĩa là chấp chính. Lúc bấy giờ, chưa thể có quản lý xí
nghiệp cũng như khái niệm về quản lý xí nghiệp. Thời bấy giờ, việc quản lý
quốc gia là việc mọi người quan tâm nhất, đó cũng là chính sự. Do đó, Khổng
Tử quan tâm đến “Chính”. Quan tâm và nghiên cứu việc quản lý quốc gia là
rất tự nhiên. Nhưng quản lý quốc gia là quản lý! Còn về điểm quản lý con

8


người, nó cũng có nét chung như bất cứ việc quản lý nào. Do đấy, tư tưởng
quản lý của Khổng Tử có ý nghĩa phổ biến.
Quản lý học phương Tây truyền thống cho rằng quản lý là quản lý, luân
lý đạo đức là luân lý đạo đức, hai phạm trù đó khơng có liên quan với nhau.
Nhưng quản lý là cái gì? Suy cho cùng, quản lý là quản lý con người. Trong
quản lý, đối với con người thì quản lý là cái gì? Quản lý mọi quan hệ giữa
người với người. Còn luân lý đạo đức, là quy phạm chuẩn mực hành vi giữa
con người với con người. Do đấy giữa luân lý đạo đức và quản lý là có quan
hệ mật thiết.
Quản lý có nghĩa là xử lý tốt mọi quan hệ giữa con người với nhau.
Ví dụ trong quản lý xí nghiệp là cần xử lý tốt hai quan hệ lớn của con
người với nội bộ xí nghiệp bên ngồi. Quan hệ giữa xí nghiệp với bên

ngồi là: Quan hệ giữa xí nghiệp với khách hàng, giữa xí nghiệp với tiền tệ,
tiêu thụ, cung ứng… Do đấy cũng tự nhiên rút ra kết luận là Khổng Tử
không có tư tưởng quản lý. Nhưng qua phân tích ở trên, chúng ta có thể
nhìn thấy rõ nhận thức ấy là phiến diện.
So với cách quản lý truyền thống của phương Tây và pháp gia cổ đại
của Trung Quốc, cách quản lý của Khổng Tử đi một con đường khác. Ông
nhấn mạnh đức trị, nhấn mạnh lấy luân lý đạo đức để giáo hoá nhân dân.
Đương nhiên ở thời Khổng Tử, nội dung của luân lý khác với ngày nay.
Trong khi Khổng Tử nhấn mạnh nghiên cứu “vị chính” quản lý, thì nội dung
luân lý và nội dung quản lý có sự khác biệt. Nhưng đó chỉ là sự cá biệt của
vấn đề, không thể thay đổi được kết luận chung về mối quan hệ khăng khít
giữa quản lý và luân lý đạo đức. Quản lý là thể thống nhất hữu cơ của tư
tưởng quản lý và thuận quản lý. Tư tưởng quản lý là cái bản chất, thuật quản
lý chỉ là cái phát sinh mà thôi. Nhân tố cơ bản quyết định tính chất quản lý và
thành bại của nó là tư tưởng quản lý chứ khơng phải là thuật quản lý. Từ ý
nghĩa ấy, lấy “thuật” để thay thế quản lý phiến diện. Cũng vì lý do ấy, quyết
9


khơng nêu vì Khổng học khơng có “thuật” mà phủ định Khổng Tử từng bàn
đến quản lý, phủ định tư tưởng quản lý của Khổng Tử.
Vậy, tư tưởng học thuyết lễ trị (Vị Đức) của Khổng Tử là: Làm gì
muốn thành cơng cũng phải có chính danh (lẽ phải), phải biết chọn người hiền
tài giúp việc, phải thu phục lòng người, phải đúng đạo và phải tiết kiệm. Các
ông cho rằng con người phải chia thành 2 loại: quân tử thì có nghĩa, cịn tiểu
nhân thì chỉ chăm lo điều lợi.
1.2.2. Khổng Tử với tầng lớp quản lý chuyên nghiệp
Đạo nhân của Khổng Tử là nền tảng của học thuyết quản lý đức trị, kỷ
cương và phát triển thịnh vượng. Trong một xã hội sản xuất thơ sơ, có sự đối
chọi về lợi ích và tương phản rõ rệt giữa người giàu và kẻ nghèo thì rất khó

thực hiện điều nhân cho toàn xã hội. Tư tưởng của Khổng Tử đã được các vua
chúa sau này học tập, xây dựng một hệ thống tuyển lựa nhân tài cho quốc gia.
Căn cứ vào kết quả các kỳ thi, những người đỗ đạt, dù xuất thân từ giai cấp
nào, đều được đề bạt các chức vụ quản lý, từ thấp đến cao. Chế độ tuyển chọn
nhân tài này đã tạo ra một đẳng cấp các nhà quản lý ở nhiều nước phương
Đông kiểu Khổng giáo.
Thuyết chính danh của Khổng Tử địi hỏi đặt tên đúng sự vật và gọi sự
vật bằng đúng tên của nó, khiến danh đúng với thực chất sự vật. Trong quản
lý, chính danh là phải làm việc xứng đáng với danh hiệu chức vụ mà người đó
được giao. Muốn chính danh thì thân phải chính (có nhân), khơng chấp nhận
thói xảo trá, lừa lọc hoặc việc lạm dụng chức quyền. Đã mang cái danh là vua
phải làm tròn trách nhiệm của một vị vua, không sẽ mất cả danh và ngơi.
Khổng Tử có tư tưởng khi việc làm vượt quá trách nhiệm và danh vị, Khổng
Tử gọi là “Việt vị”. Khổng Tử cho rằng mầm mống của loạn lạc, bất ổn của
quốc gia là các hành vi “việt vị”, “tiếm lễ” của tầng lớp cai trị.

10


Ngày nay, nhìn lại, chúng ta thấy tư tưởng quản lý của Khổng Tử có
nhiều điểm bảo thủ, thiếu dân chủ và ảo tưởng. Nhưng ở thời ơng, luật pháp
cịn rất sơ sài, quyền lực thực sự được quyết định bởi ý chí và hành vi của vua
và tầng lớp cai trị, người dân cịn đói nghèo, dốt nát, khơng có quyền tự bảo
vệ mình. Trong bối cảnh như vậy, Khổng Tử muốn xây dựng xã hội lý tưởng
bằng cách bắt đầu “từ trên xuống dưới”, ông phải kêu gọi lòng khoan dung,
sự gương mẫu của các nhà quản lý.
Chương 2:
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” VÀO THỰC TIỄN LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Sự vận dụng tư tưởng “Đức trị” vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý

ở Việt Nam hiện nay
Đối chiếu với tư duy về lãnh đạo, quản lý, chúng ta có thể học tư tưởng
Đức trị những điều vô cùng quan trọng:
Người quản lý trước hết phải là người có lịng Nhân: Biết yêu con
người. Hành xử hợp lẽ theo những chuẩn mực đạo đức xã hội ngầm định thừa
nhận. Người có lịng Nhân thì phải biết hết lịng vì người khác, ứng xử theo
phương châm: Điều gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác (kỷ sở
bất dục, vật thì ư nhân). Nhà lãnh đạo, quản lý phải biết tự nghiêm khắc với
bản thân và rộng lượng với nhân viên, lo trước nỗi lo của tập thể và vui sau
cái vui của tập thể: vì lợi ích chung lâu dài. Theo tư duy “khơng tư lợi” của
ơng thì nhà lãnh đạo, quản lý hãy cứ chuyên tâm làm việc tốt thì “bổng lộc tự
khắc đến”.
Theo đó, ta có thể thấy, người quản lý theo phương châm Đức trị sẽ
được mọi người tin yêu, mến phục và phục tùng. Vì tâm lý chung của con
người là thường tin vào những điều tốt đẹp. Bao dung thì được lịng người,
rộng lượng thì được người theo: Nếu một người quản lý có lịng bao dung và
rộng lượng thì rất được lịng nhân viên, đặc biệt là những nhân viên có thể là
11


do khơng may phạm phải sai sót trong cơng việc, nhưng khơng bị rầy la, trách
mắng; bên cạnh đó lại còn được nhà lãnh đạo, quản lý chỉ cho thấy khuyết
điểm của mình. Nhà lãnh đạo, quản lý theo phương châm Đức trị có thể cho
phép nhân viên phạm sai lầm trong phạm vi có thể cho phép, vì khơng thể
thiết lập sự hoàn hảo ngay được. Tuy nhiên, khi nhân viên phạm sai lầm, nhà
lãnh đạo, quản lý cần nhắc nhở riêng với nhân viên phạm lỗi. Tuyệt đối khơng
phê bình sai sót đó trước mặt những người khác, giúp nhân viên giữ được thể
diện và sự tự tin, bên cạnh đó nhà lãnh đạo, quản lý cần yêu cầu nhân viên
đưa ra giải pháp khắc phục và góp ý cho họ bằng sự chân tình. Khi nhân viên
có thành tích tốt, nhà lãnh đạo, quản lý cần phải khen ngợi kịp thời và thưởng

xứng đáng cho nhân viên đó trước mặt tất cả mọi người. Điều này sẽ kích
thích lịng tự tơn của nhân viên, họ sẽ tự hào, biết ơn và tôn trọng nhà lãnh
đạo, quản lý vì nỗ lực của họ được ghi nhận và đánh giá cao. Đơn giản thơi,
vì người lao động thường quan niệm: ba đồng tiền công không bằng một
đồng tiền thưởng. Để đáp lại, họ sẽ làm việc hết lòng.
Tuy nhiên, Đức trị nếu khơng có giới hạn sẽ bị nhờn. Tư tưởng Đức trị
trong quản lý được xây dụng theo quan niệm tôn trọng giá trị đạo đức nền
tảng chung của mọi người dựa trên phẩm chất đạo đức, tình cảm, năng lực
của nhà lãnh đạo, quản lý, những cái mà khoa học quản lý hiện đại ngày nay
gọi là quyền lực mềm. Theo đó, nhà lãnh đạo, quản lý sẽ hướng dẫn nhân viên
làm việc và tu dưỡng đạo đức với tinh thần tự giác. Nhưng khi xuất hiện sự
hỗn loạn trong mơi trường quản lý, thì tư tưởng Đức trị gặp nhiều khó khăn
trong việc lập lại trật tự hoặc loại trừ các cái xấu, có thể mất nhiều thời gian
và thậm chí bất lực.
Vì có thể nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, chưa thấu hiểu bản chất của Đức
trị chưa nên tạo lập được ranh giới giữa lòng Nhân trong đức trị và sự dễ dãi
thái quá, dẫn đến tình trạng dễ bị nhân viên lợi dụng, thậm chí khinh nhờn. Có
nhà lãnh đạo, quản lý cịn nhầm lẫn giữa Đức trị với sự cưng chiều và thiên vị
quá đáng, điều này dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa các nhóm nhân viên và
12


hậu quả là chất lượng chung công việc không ổn. Nhóm được cưng chiều
thường là có năng lực chun mơn khơng cao nhưng lại xuất sắc trong việc
làm vui lịng nhà lãnh đạo, quản lý. Nhóm khơng được cưng chiều lại có đặc
điểm ngược lại, do đó mặc dù họ được giao nhiều việc hơn và khó hơn nhưng
nhà lãnh đạo, quản lý khó lịng buộc họ tồn tâm tồn ý làm việc, vì họ khơng
tâm phục khẩu phục. Nhà quản lý không nhận biết được điều này, dù họ ln
nghĩ rằng mình thuộc phái Đức trị.
Ngồi ra, nhà quản lý theo phương châm Đức trị là người ngoài việc

thiết lập các khuôn khổ quản lý theo quy định của tổ chức cịn biết vận dụng
những khn khổ đó một cách linh hoạt, tùy biến và khơng cứng nhắc. Đó là
nghệ thuật. Đức trị trong quản lý, suy cho cùng là bài học về nghệ thuật đối
nhân xử thế mà thôi. Nhà quản lý cần làm sao cho nhân viên cảm thấy luôn
tự tin, say mê với công việc, được ghi nhận và được đối xử công bằng. Sau
cùng là nhà quản lý cần tạo được sự gần gũi, thân thiện và phải tự mình xóa
đi cái ranh giới giữa mình với nhân viên. Đó cũng là nghệ thuật. Dùng nghệ
thuật địi hỏi phải có tố chất là u cầu bắt buộc. Tuy nhiên nghệ thuật trong
quản lý lại là điều có thể học được, dù khơng thể học hết tất cả, nếu nhà
quản lý có lịng Nhân với tinh thần cầu thị có cái Tâm trong sáng. Các quan
niệm và giá trị của tư tưởng Đức trị khi được mọi người tiếp nhận, thấm
nhuần trong tư duy và hành động thì nó sẽ có tác dụng lâu dài, điều này đặc
biệt có giá trị đối với việc phát triển bền vững của tổ chức. Do vậy, Đức trị
là tư duy quản lý có tính chiến lược.
Trong thực tiễn cải cách quản lý doanh nghiệp liên quan đến hai đặc
tính lớn là tính dân tộc và tính thời đại của quản lý, về khách quan cũng tồn
tại hai thái độ cực đoan đối với hai đặc tính lớn này. Đó chính là: Hoặc là
chủ nghĩa bảo thủ dân tộc chỉ nhấn mạnh tính dân tộc của quản lý mà coi
nhẹ tính thời đaị, hoặc chủ nghĩa hư vơ dân tộc chỉ nhấn mạnh tính thời đại
của quản lý mà coi nhẹ tính dân tộc. Hai thái độ này, về nhận thức để phiến

13


diện, trong thực tiễn đều là có hại. Noi gương kinh nghiệm của Nhật Bản,
trong hai thái độ cực đoan này cũng nên tìm được “Trung đạo” và kiên trì
“trung dung”. Đó chính là một mặt biểu hiện khác của đạo trung dung trong
quản lý doanh nghiệp. “Trung đạo” này địi hỏi sự thống nhất hồn mỹ giữa
tính dân tộc và tính thời đại hố quản lý doanh nghiệp, thực hiện việc hiện
đại hố quản lý doanh nghiệp có bản sắc dân tộc, cũng tức là quản lý doanh

nghiệp có đặc sắc của Trung Quốc.
Từ góc độ quản lý hiện đại, tiến hành phân tích, giám định tồn diện
một lượt đối với quản lý truyền thống của Trung Quốc, cũng chính là xem xét
một cách hệ thống “hiện thực” quản lý doanh nghiệp. Đối với những tư
tưởng, lý luận, chế độ, phương pháp quản lý doanh nghiệp được chứng minh
qua thực tiễn lâu dài, đã có đặc điểm văn hố dân tộc, lại phù hợp với đặc
trưng cơ bản của quản lý doanh nghiệp hiện đại, phải tiến hành khẳng định, kế
thừa và phát triển một cách đầy đủ. Đối với những cái có đặc điểm văn hố
dân tộc, nhưng khơng hồn tồn phù hợp với đặc trưng cơ bản của quản lý
doanh nghiệp hiện đại, nên căn cứ yêu cầu của quản lý hiện đại. Dưới tiền đề
giữ gìn đặc tính cơ bản dân tộc, tiến hành cải tạo, loại bỏ, làm cho nó phù hợp
với địi hỏi của quản lý hiện đại. Chẳng hạn thực tiễn công tác giáo dục tư
tưởng tiến hành mấy chục năm lại đây trong các xí nghiệp của Trung Quốc
đại lục đã phù hợp với quan niệm nghĩa lợi trong truyền thống văn hố dân
tộc, lại nhất trí ở trình độ tương đối lớn với quản lý mềm, quản lý của thế giới
ngày nay rất chú trọng đối với các doanh nghiệp.
Về thực tiễn, quản lý đã có từ lâu. Nhưng quản lý trở thành một khoa
học thì khởi đầu phải nói là phương Tây. Ở thế kỷ này, nhất là trước thập kỷ
70, quản lý học phát triển nhanh chóng, các học phái mọc ra như nấm, một
cảnh tượng phát triển rực rỡ. Cần phải nói rằng, về mặt khoa học hố, định
lượng hố về quản lý thì quản lý phương Tây có cơng đầu.

14


Tóm lại: Quản lý doanh nghiệp kiểu Trung Quốc và Nhật Bản cần phải
có nét khái quát lớn. Song nó không phải là trạng thái tĩnh, mà là trạng thái
động. Nó dứt khốt khơng phải là một loại mơ thức cứng nhắc cố định, hình
thức cụ thể của nó phải tuỳ từng nơi mà chế định biện pháp thích hợp, tuỳ lúc
mà chế định biện pháp thích hợp, từ đó mà là cái trăm ngàn dáng vẻ, phong

phú, đa dạng.
2.2 Những ưu điểm và khuyết điểm của tư tưởng “Đức trị”
2.2.1 Những ưu điểm trong tư tưởng “Đức trị” của Khổng Tử
Tư tưởng của Khổng Tử đã đưa ra được các phương pháp rất cơ bản để
giáo dục uốn nắn, điều chỉnh hành vi con người. Hai phương pháp giáo hóa
và nêu gương ln có ý nghĩa và giá trị, nhất là trong bối cảnh Đảng đang đẩy
mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng. Mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay
được yêu cầu phải làm tấm gương sáng cho cấp dưới và nhân dân noi theo
trên tất cả các phương diện từ lối sống đến phong cách làm việc. Nặng đức,
nhẹ hình, khuyến khích người đời tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử.
Khổng Tử chủ trương thành lập các trường học hướng mọi người tới con
đường học hành để mở mang dân trí, rèn luyện đạo đức con người, cải tạo
nhân tính. Tư tưởng về giáo dục về thái độ và phương pháp học tập của
Khổng Tử chính là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư tưởng nho giáo. theo
Khổng Tử giáo dục là cải tạo nhân tính. Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần
nhau, tức là chỗ “thiện bản nhiên” thì phải để cơng vào giáo dục vì giáo dục
có thể hố ác thành thiện. “Tu sửa đạo làm người” và “ làm sáng tỏ đức sáng”
là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính. Ơng coi giáo
dục khơng chỉ mở mang nhân tính, tri thức, giải thích vũ trụ mà ơng chú trọng
tới việc hình thành nhân cách con người, lấy giáo dục để mở mang cả trí,
nhân , dũng, cốt dạy con người ta hoàn thành con người đạo lí. Theo Khổng
Tử, giáo dục có ba mục đích chính. Trước hết, học để ứng dụng cho có ích
với đời, với xã hội, chứ không phải để làm quan sang, bổng hậu. Thứ hai, học
15


để có nhân cách, học là phải để cho mình chứ không phải để khoa trương.
Thứ ba, học là nhằm tìm tịi đạo lý. Khổng Tử đã định nghĩa “giáo dục là tu
sửa cái đạo làm người”. Ông đã diễn tả lịng mình về đạo lý là “sớm nghe đạo
lý, tối chết cũng được”. Phương pháp giáo dục: học một cách đúng lịch trình

đúng với điều kiện tâm sinh lí,coi trọng mối quan hệ giữa các khâu của giáo
dục: trong việc học, cần tuân thủ học gắn liền với tư, với tập, với hành. Khổng
Tử coi giáo dục cho dân đạo lí làm người, tư tưởng “trăm năm trồng người”
của Khổng Tử nhằm đào tạo lớp người lấy đức trị là chính. Trong việc dạy
học trị, Khổng Tử có trả lời sâu hay nông, cao hay thấp tuỳ theo khả năng của
người hỏi. Khổng Tử nói: “tiên học lễ, hậu học văn” vì học phải đi đơi với
hành. Trong giáo dục Khổng Tử coi trọng sự nêu gương của các tầng lớp vua
quan và mở trường học cho dân “hữu giáo vô đạo” dạy cho mọi người không
phân biệt đẳng cấp là tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử.
Điều đáng chú ý trong đạo đức của Khổng Tử là những quan điểm về
giáo, sự giáo hóa, cách lập giáo của Khổng Tử là “hiếu-đễ, lễ nhạc”. Tuy
nhiên, nội dung của giáo dục không đi vào lao động sản xuất, đấu tranh mà
chuyên dạy cách làm người, dạy đạo lý … dùng đạo đức để ổn định trật tự xã
hội. Bên cạnh đó, với quan điểm “nặng đức, nhẹ hình” nên chú trọng đến đạo
đức “đức trị”, xem nhẹ luật pháp. Quan điểm Đức trị bắt đầu từ Khổng Tử và
được quán triệt trong lịch sử nhiều nước phương Đông hàng nghìn năm nay
tại Trung Quốc, Việt Nam, Nhật bản, Triền Tiên…
Khổng Tử đưa ra được một số kỹ thuật, phương pháp để nhận diện
người quân tử, kỷ tiểu nhân, người tốt, người xấu...thơng qua các tiêu chí
của người qn tử: đối với nam giới phải tam cương, ngũ thường; đối với nữ
giới phải tam tịng tứ đức. Các tiêu chí đó như là điều kiện để uốn nắn các
hành vi của con người, hướng con người đến những chuẩn mực của xã hội.
Đó chính là tư tưởng nhân sinh. Khổng Tử vốn quy giá trị nhân sinh thành
giá trị xã hội, cho rằng con người phải có trách nhiệm nhất định đối với gia

16


đình, xã hội, đất nước và cả thế giới; đó là lí tưởng cuộc đời và lẽ sống của
mỗi người. Mặt khác, Khổng Tử cũng đồng thời quy giá trị nhân sinh vào

giá trị đạo đức, mà giá trị đạo đức của Khổng Tử là lấy hiếu thân (hiếu với
cha mẹ) làm nền tảng - trung với nước cũng suy từ hiếu với cha mẹ mà ra.
Đối với con người đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng
quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của người theo quan điểm của Khổng Tử là
phải phù hợp với tình người do con người lập nên. Trong kinh dịch, sau hai
câu “lập đạo của trời , nói âm và dương”,“ lập đạo của đất, nói nhu và
cương” là câu “lập đạo của người nói nhân và nghĩa”. Khổng Tử chủ trương
cải tạo xã hội bằng đạo đức. Những tư tưởng của Khổng Tử có tác dụng rất
tích cực đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một số tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Tư tưởng Khổng Tử có giá trị nhân đạo, nhân văn, đề cao giá trị mỗi cá nhân
con người với đường lối đức trị lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng vai trò của
con người.
Khổng Tử nhấn mạnh giá trị đạo đức, đó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân
biểu hiện qua “Tam cương” (quân – thần; phụ - tử; phu – phụ) và “Ngũ
thường” (Nhân; Nghĩa; Lễ; Trí; Tín). Đó là những chuẩn mực đạo đức nhằm
định hướng và hoàn thiện nhân cách con người. Mẫu người lý tưởng của
Khổng Tử là người quân tử - giữ đạo trung dung cũng là thực hiện chính
danh, rèn luyện đạt đạo trung dung cũng là rèn luyện để đạt nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín. Cái học hồn tồn của Khổng giáo nói rút lại là “Chí ư đạo, cứ ư đức,
y ư nhân, du ư nghệ” còn cách thao thủ của ngưới quân tử là tu thân, xử kỷ
tiếp vật “dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức”, quan nhân, bằng hữu, bác ái. Tuy
nhiên, người quân tử của Khổng giáo đã tách khỏi cuộc sống đời thường, hết
sức coi thường những nhu cầu rất bản năng nhưng rất chính đáng của con
người.

17


Phải nói rằng triết học của Khổng Tử đã trở thành học thuyết lớn của

triết học phương Đông cổ đại. Đạo đức học của Khổng Tử đã cho con người
thấy ý nghĩa và giá trị đời sống thực, thấy trách nhiệm của mình trước cộng
đồng và hướng con người tìm thấy sức mạnh đạo đức ngay ở bản thân mình.
Một trong những tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử trong quản lý là nhà
quản lý được lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm dựa trên năng lực và phẩm chất đạo
đức cá nhân, khơng hồn tồn phụ thuộc vào huyết thống và giai cấp.
Đức trị tích cực tiêu diệt tận gốc cái ác, thực hiện chặt đứt gốc rễ, giải
quyết vấn đề từ căn bản. Quản lý mang tính chiến thuật, có hiệu quả trong
thời gian dài.
2.2.2 Những hạn chế trong tư tưởng “Đức trị” của Khổng Tử
Tư tưởng “Đức trị” của Khổng tử còn tồn tại một số tư tưởng nghiêm
khắc, bảo thủ khi đặt nặng con người trong các mối quan hệ “tam cương, ngũ
thường”. Các mối quan hệ này phản ánh tính chất hai mặt của một vấn đề, bên
cạnh việc các gia đình được củng cố mối quan hệ, trật tự xã hội được duy trì ổn định thì nó cịn cho thấy sự cứng nhắc, khơ khan, mâu thuẫn, bất bình đẳng
đối với người phụ nữ, với những người kẻ dưới. Dựa vào tư tưởng của Khổng
Tử chế độ phong kiến duy trì và củng cố quyền lực để cai trị xã hội ổn định.
Trải qua hàng nghìn năm, xã hội phong kiến tồn tại được là do lấy tư tưởng
của Khổng Tử làm cơ sở lý luận.
Thiếu tính răn đe trong quản lý. Nội dung thuyết Đức trị có hạn chế là vị
thế và vai trị của pháp chế và lợi ích kinh tế đối với xã hội không được coi
trọng.
Trường phái tư tưởng quản lý của Khổng Tử chỉ đề ra nguyên lý, không
cụ thể hóa thành thao tác và quy trình. Một số phương pháp ảo tưởng, khơng
thực tế và có phần duy tâm.

18




×