Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.02 KB, 28 trang )



CARD Project 030/06 VIE: Tăng cường khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp:
trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi

Tóm lược chính sách 5/ 2010

Sử dụng thức ăn công nghiệp và thức ăn trộn của các hộ chăn nuôi
ở Việt Nam

Thông tin từ tóm lược chính sách này
dành cho Bộ trưởng và các ban ngành có
liên quan của Bộ Nông nghiệp & PTNT;
các Sở Nông nghiệp & PTNT các tỉnh.

Mục đích
• Trình bày những kết quả nghiên cứu
liên quan đến việc sử dụng thức ăn
chăn nuôi của những hộ chăn nuôi gà
và lợn ở Việt Nam.
• Đưa ra những gợi ý từ nghiên cứu về
việc sử dụng thức ăn công nghiệp và
th
ức ăn trộn hiện nay và trong tương
lai của những hộ chăn nuôi ở Việt
nam

Thông tin nền
Một cuộc điều tra 300 hộ chăn nuôi gà
và lợn ở các quy mô khác nhau đã được


Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông
nghiệp thực hiện năm 2009 trên phạm vi
6 tỉnh. Một trong những mục tiêu chính
của cuộc điều tra là tìm hiểu việc sử
dụng thức ăn chăn nuôi theo quy mô hộ.
Các hộ chăn nuôi được phân loại thành 3
quy mô: nhỏ, trung bình và lớn dựa trên
số lượng đầu con chăn nuôi năm 2008.
Đối với các hộ chăn nuôi lợn, quy mô
nhỏ là những hộ nuôi dưới 50 con một
năm, và quy mô lớn là những hộ nuôi
trên 120 con một năm. Việc phân loại
đối với những hộ chăn nuôi gà thì có sự
khác biệt giữa chăn nuôi gà thịt và chăn
nuôi gà đẻ. Đối với chăn nuôi gà đẻ, quy
mô nh
ỏ là những hộ nuôi dưới 1000 con
một năm và quy mô lớn là những hộ
nuôi trên 4000 con một năm. Đối với
chăn nuôi gà thịt, quy mô nhỏ là những
hộ nuôi dưới 500 con một năm và quy
mô lớn là những hộ nuôi trên 3000 con
một năm.
Chi phí thức ăn được coi là chiếm tỷ lệ
cao nhất trong tổng chi phí chăn nuôi của
hộ. Trong điều tra này, kết quả tính trung
bình cho thấy chi phí thức ăn chiếm 79%
t
ổng chi phí chăn nuôi đối với hộ chăn
nuôi gà và 83% đối với hộ chăn nuôi lợn.

Tỷ lệ cao của chi phí thứ ăn trong tổng
cho phí chăn nuôi cho thấy việc sử dụng
thức ăn hiệu quả là rất quan trọng trong
chăn nuôi. Trong tóm lược chính sách
này, các kết quả nghiên cứu về việc sử
dụng thức ăn và hiệu quả sử dụng thức
ăn trong chăn nuôi sẽ
được đưa ra thảo
luận.

Sử dụng thức ăn chăn nuôi của hộ
Thức ăn công nghiệp được sử dụng
phổ biến hơn ở những hộ quy mô lớn
và trong các giai đoạn đầu của chu kỳ
chăn nuôi
Nhìn chung, có nhiều hộ hơn ở nhóm
quy mô lớn hơn, ở các giai đoạn đầu so
với các giai đoạn sau của chu kỳ chăn
nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp. Các


2
sự khác biệt theo quy mô cũng đúng khi
xét đến lượng thức ăn công nghiệp được
sử dụng: đó là những hộ quy mô lớn hơn
sử dụng nhiều thức ăn công nghiệp hơn
(cụ thể là lượng thức ăn cho ăn trên 1
con). Thức ăn công nghiệp được sản xuất
bởi các doan nghiệp nước ngoài được ưa
thích hơn so với thức ăn do các công ty

trong nước sản xuất, với trên 90% hộ
điều tra lựa chọn mua cả thức ăn đậm
đặc và thức ăn hỗn hợp nhãn hiệu nước
ngoài. Nguyên nhân chính mà các hộ
chăn nuôi đưa ra cho sự lựa chọn này là
các thức ăn nhãn hiệu nước ngoài có chất
lượng tốt hơn và mang lại năng suất chăn
nuôi cao hơn.
Đối với chăn nuôi gà: Phần lớn hộ điều
tra sử dụng thức ăn hỗn hợp ở cả 3 giai
đoạn chăn nuôi
1
: tuy nhiên, tỷ lệ chung
có xu hướng giảm dần từ giai đoạn 1 đến
giai đoạn 3 (90%, 63% và 52% đối với
gà thịt và 82%, 80% và 74% đối với gà
đẻ). Nhìn chung, quy mô càng lớn thì
các hộ càng có xu hưởng sử dụng thức
ăn hỗn hợp, và điều này đúng đối với tất
cả các giai đoạn chăn nuôi. Đối với các
nhóm quy mô trung bình và lớn, tỷ lệ hộ
nuôi gà thịt sử dụng thức ă
n hỗn hợp cao
ở tất cả các giai đoạn (trên 60%), trong
khi chỉ có 26% và 43% số hộ quy mô
nhỏ sử dụng thức ăn hỗn hợp ở giai đoạn
2 và 3 theo thứ tự. Các hộ nuôi các giống
ngoại/ lai có xu hướng sử dụng thức ăn
hỗn hợp nhiều hơn những hộ nuôi các
giống gà địa phương, và những hộ nuôi

gà thả rông cũng có xu hướng sử dụng ít
th
ức ăn hỗn hợp hơn.
Đối với chăn nuôi lợn: tỷ lệ hộ sử dụng
thức ăn hỗn hợp để nuôi lợn thịt cao hơn
so với nuôi lợn nái. Đối với chăn nuôi
lợn nái, tỷ lệ hộ sử dụng thức ăn hỗn hợp
nhìn chung là cao nhất vào giai đoạn
đang cho con bú với tỷ lệ 65%. Đối với


1
Một lứa gà thường có 3 giai đoạn cho ăn. Đối
với gà thịt, giai đoạn 1 kéo dài khoảng 29 ngày,
giai đoạn là 48 ngày tiếp theo và giai đoạn 3 là
40 ngày còn lại. Đối với gà đẻ, độ dài của 3 giai
đoạn theo thứ tự là 94 ngày, 172 ngày và 250
ngày.
chăn nuôi lợn thịt, tỷ lệ hộ sử dụng thức
ăn hỗn hợp ở giai đoạn lợn con (85%)
cao hơn so với các giai đoạn sau
2
. Tương
tự như chăn nuôi gà, tỷ lệ hộ ở quy mô
lớn cho lợn ăn bằng thức ăn hỗn hợp cao
hơn so với tỷ lệ hộ ở quy mô nhỏ, và
điều này nhìn chung là đúng cho tất cả
các giai đoạn khác nhau trong chăn nuôi
lợn thịt và lợn nái.
Chỉ cho ăn thức ăn trộn không còn phổ

biến nữa; thay vào đó cách thức chỉ
cho ăn th
ức ăn hỗn hợp và cho ăn kết
hợp thức ăn thô với thức ăn công
nghiệp được sử dụng
Trừ một số ít hộ chăn nuôi gà chỉ cho ăn
thức ăn trộn (9% đối với gà thịt và 18%
đối với gà đẻ), một tỷ lệ lớn các hộ (kể
cả hộ chăn nuôi gà và hộ chăn nuôi lợn)
chỉ cho ăn thức ă
n hỗn hợp: 53% đối với
gà thịt, 64% đối với gà đẻ; 43% đối với
lợn nái, 77% đối với lợn con và 45% đối
với lợn thịt. Những hộ còn lại sử dụng cả
2 loại thức ăn này trong chăn nuôi. Tỷ lệ
thức ăn đậm đặc trong tổng lượng thức
ăn trộn ở vào khoảng 27% đối với các hộ
chăn nuôi gà và 17% đối với các h
ộ chăn
nuôi lợn thịt. Thức ăn kết hợp được sử
dụng nhiều hơn đối với những hộ chăn
nuôi lợn ở tất cả các giai đoạn .
Hiệu quả của thức ăn công nghiệp so
với thức ăn kết hợp (hỗn hợp + trộn)
Sử dụng số liệu điều tra về sử dụng th
ức
ăn chăn nuôi của hộ và khối lượng tăng
trọng, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR)
được tính toán đối với các sản phẩm đầu
ra tương tự: gà thịt và lợn thịt. Đối với

chăn nuôi gà thịt, tỷ lệ FCR - số kg thức
ăn cho ăn trên 1 kg gà sản phẩm giảm
dần khi quy mô tăng lên. FCR đối với
chăn nuôi gà thịt ở tất cả các h
ộ giảm
dần từ giống gà địa phương cho đến
giống lai và đến giống ngoại (3,94, 2,45
và 2,24 theo thứ tự). FCR cũng thấp hơn
rất nhiều ở những hộ chỉ cho ăn thức ăn


2
Một lứa lợn thịt gồm 2 giai đoạn cho ăn chính:
giai đoạn 1 (nuôi lợn con) kéo dài 60 ngày và
giai đoạn 2 (nuôi lợn bột cho đến khi giết mổ)
kéo dài 98 ngày.


3
hỗn hợp so với những hộ cho ăn thức ăn
kết hợp, và cũng thấp hơn về mặt thống
kê ở những hộ sử dụng thức ăn hỗn hợp
nhãn hiệu nước ngoài so với những hộ
sử dụng thức ăn nhãn hiệu nội địa trong
trường hợp của gà (2,94 so với 4,18).
Các tỷ lệ FCR đối với chă
n nuôi lợn sử
dụng thức ăn hỗn hợp thấp hơn về mặt
thống kê đối với các hộ chăn nuôi quy
mô nhỏ (2,08) so với các hộ quy mô lớn

(2,92). FCR cũng thấp hơn về mặt thống
kê nếu cho ăn thức ăn hỗn hợp (2.65) so
với cho ăn thức ăn kết hợp (4,06), tuy
nhiên đối với các hộ chăn nuôi lợn, tỷ lệ
FCR ở nh
ững hộ sử dụng thức ăn hỗn
hợp nhãn hiệu nước ngoài không có sự
khác biệt về mặt thống kê so với những
hộ sử dụng nhãn hiệu nội địa.
Tỷ lệ FCR cũng có thể được sử dụng
như là một tiêu chuẩn đo lường hiệu quả
sử dụng thức ăn. Tuy nhiên, nên xem xét
đến chi phí thức ăn trên một kg thịt tăng
tr
ọng khi tính đến hiệu quả kinh tế. Nông
dân có thể sử dụng thức ăn rẻ dù FCR
cao hơn nhưng có chi phí trên một kg
tăng trọng thấp hơn. Các kết quả của
nghiên cứu này cũng chỉ ra một vài sự
khác biệt rất thú vị giữa các hộ chăn nuôi
gà và hộ chăn nuôi lợn sử dụng các loại
thức ăn khác nhau, điều này nói lên rằng
có thể cần có những gợ
i ý chính sách
khác nhau cho từng loại sản phẩm và
từng hệ thống.
Đối với chăn nuôi gà: nhìn chung, mặc
dù chi phí trung bình trên 1 ngày nếu chỉ
sử dụng thức ăn hỗn hợp cao hơn về mặt
thống kê so với dùng thức ăn kết hợp,

chi chí thức ăn trên 1 kg thịt tăng trọng
giữa những hộ chỉ cho ăn thức ăn hỗn
hợp và cho ăn kết hợp cũ
ng thấp hơn về
mặt thống kê so những hộ chỉ cho ăn
thức ăn trộn (22.686 đồng so với 27.888
đồng) (Bảng 1). Kết quả này ủng hộ việc
sử dụng thức ăn công nghiệp đối với
chăn nuôi chi phí hiệu quả. Chú ý rằng
sản xuất có hiệu quả về mặt chi phí cũng
nên cân nhắc đến giá bán sản phẩm, điều
này có thể phả
n ánh sự khác biệt sản
phẩm về mùi vị và chất lượng thức ăn
trong khẩu phần ăn của vật nuôi. Tuy
nhiên, điều này không được đưa vào xem
xét trong các phân tích ở đây. Các sự
khác biệt về chi phí theo loại thức ăn
không có ý nghĩa thống kê đối với các hộ
quy mô nhỏ và trung bình, nhưng đối với
các hộ quy mô lớn, chi phí một ngày nếu
chỉ cho ăn thức ăn hỗn hợ
p thấp hơn về
mặt thống kê so với cho ăn thức ăn kết
hợp.
Ảnh hưởng của nhãn hiệu thức ăn đối
với chi phí thức ăn trên 1 kg thịt tăng
trọng cũng được kiểm tra nhưng các sự
khác biệt về giá trị trung bình lại không
có ý nghĩa thống kê. Vì vậy, mặc dù

FCR thấp hơn ở nhóm hộ sử dụng thức
ăn nhãn hiệu nướ
c ngoài, nhưng giá loại
thức ăn này cao hơn đã giúp cân bằng
những lợi ích kinh tế so với thức ăn nhãn
hiệu nội địa, tức là chi phí trên 1 kg thịt
tăng trọng không thấp hơn so với nhóm
thức ăn nhãn hiệu nước ngoài. Các giá trị
trung bình là 22.900 đồng đối với thức
ăn nhãn hiệu nước ngoài và 25.300
nghìn đồng đối với thức ăn nhãn hiệu nội
địa nhưng các sự khác biệt này không có
ý ngh
ĩa về mặt thống kê.
Đối với chăn nuôi lợn: trong trường hợp
này, các sự khác biệt về chi phí trên 1
ngày giữa khẩu phần ăn chỉ sử dụng thức
ăn hỗn hợp và khẩu phần sử dụng thức
ăn kết hợp là có ý nghĩa thống kê
(19.230 đồng so với 14.370 đồng) khi
xét cho toàn bộ mẫu; và khi xét cho cả 3
quy mô chăn nuôi. Tương tự như vậy,
kết quả c
ũng cho thấy chi phí thức ăn
trên 1 kg thịt tăng trọng cao hơn về mặt
thống kê ở những hộ chỉ cho ăn thức ăn
hỗn hợp so với những hộ cho ăn thức ăn
kết hợp (23.580 đồng so với 20.150
đồng) khi xét trên tổng mẫu; và khi xét
cho những hộ ở miền Bắc. Các kết quả

đối với trường hợp chăn nuôi lợn ủng hộ
việc sử dụng thức ăn kết hợp (thường sử
dụng những thức ăn tận dụng trong gia
đình) vì các hộ có thể giảm được khoảng
3.400 đồng chi phí thức ăn trên 1 kg thịt
tăng trọng. Cũng như trước đó, các sự
khác biệt có thể về giá bán của các loại


4
giống được nuôi theo các cách thức cho
ăn khác nhau không được đề cập.
Các gợi ý đối với việc sử dụng thức ăn
của các hộ chăn nuôi
• Nhìn chung, các hộ chăn nuôi gà và
lợn quy mô lớn hơn có xu hướng sử
dụng thức ăn công nghiệp nhiều hơn
trong khẩu phần ăn của vật nuôi. Khi
ngành chăn nuôi phát triển và có xu
hướng tập trung vào chăn nuôi quy
mô lớn hơn thì nhu c
ầu đối với thức
ăn công nghiệp cũng sẽ tăng lên.
• Thức ăn công nghiệp được trình bày
bằng các kết quả ở trên cho thấy hiệu
quả chi phí cao hơn ở những hộ chăn
nuôi gà. Tuy nhiên, có một vài bằng
chúng ủng hộ cho việc sử dụng chi
phí hiệu quả đối với thức ăn kết hợp
- đặc biệt là ở các hộ chăn nuôi lợn.

Thức ăn kết hợp được sử dụng phổ
biến hơn bởi những hộ chăn nuôi quy
mô nhỏ và trung bình, và các kết quả
ủng hộ ý kiến cho rằng chiến lược sử
dụng loại thức ăn này có thể đem lại
hiệu quả về mặt chi phí. Thức ă kết
hợp cũng có thể được sử dụng trong
chăn nuôi những sản ph
ẩm có giá
bán cao hơn do chất lượng tốt hơn, ví
dụ như các giống gà địa phương.
• Các doanh nghiệp sản xuất thức ăn
quy mô nhỏ và trung bình có xu
hướng cung cấp thức ăn chăn nuôi
trực tiếp cho các hộ quy mô nhỏ, và
các nhãn hiệu thức ăn nội địa được
trình bày trong phần kết quả này
cũng có hiệu quả chi phí trên một 1
kg thịt tăng trọng tương đương vớ
i
các nhãn hiệu nước ngoài. Tỷ lệ FCR
cao hơn được bù đắp bởi giá thấp
hơn của thức ăn nhãn hiệu nội địa.
Tính khả thi của việc thành lập 1
nhóm các hộ chăn nuôi và những nhà
sản xuất thức ăn chăn nuôi ở các
vùng nông thôn bằng cách kết nối
những hộ quy mô nhỏ và các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cần được điều tra.


Tham khảo thêm
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam: Phần
1. Sản xuất thức ăn chăn nuôi. Báo cáo cho
Dự án CARD 030/06.
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam: Phần
II. Sử dụng thức ăn chăn nuôi của các hộ
chăn nuôi gà và lợn. Báo cáo cho Dự án
CARD 030/06.


5
Bảng 1 Chi phí thức ăn trên một ngày và trên 1 kg thịt tăng trọng đối với chăn nuôi
gà thịt: theo vùng, quy mô và khẩu phần ăn (Nguồn: Điều tra hộ chăn nuôi, CARD
2009)
Chi phí thức ăn trên 1 gà thịt
trên 1 ngày (nghìn đồng)
Chi phí thức ăn trên 1 kg thịt tăng trọng
(nghìn đồng)
Chỉ thức
ăn hỗn
hợp
Thức ăn trộn &
thức ăn hỗn hợp
Chỉ thức
ăn hỗn hợp
Thức ăn

trộn & thức
ăn hỗn hợp
Anova
#
(chi phí/kg
theo cách thức cho
ăn)
Chung
a

0,64 0,54 22,69 27,89 10%
Theo vùng
b


Miền Bắc 0,90 0,57 18,67 27,09 12%
Miền Nam 0,59 0,47 23,69 30,30 2%
Theo quy mô gà thịt
c


Nhỏ 0,34 0,52 25,43 25,36 nsd
#

Trung bình 0,64 0,50 24,69 26,13 nsd
Lớn 0,72 0,82 20,90 , * 1%
a. Chi phí một ngày giữa các loại thức ăn xét trên toàn bộ mẫu là có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%
b. Chi phí một ngày nếu chỉ cho ăn thức ăn hỗn hợp cao hơn về mặt thống kê ở miền Bắc, không có sự khác
biệt thống kê đối với trường hợp cho ăn kết hợp; chi phí trên 1 kg thịt tăng trọng cao hơn về mặt thống kê ở
miền Nam nếu cho ăn kế

t hợp nhưng không có khác biệt thống kê nếu chỉ cho ăn thức ăn hỗn hợp.
c. Chi phí một ngày không có khác biệt về mặt thống kê giữa các quy mô khi xét cho từng loại thức ăn, chi
phí trên 1 kg thịt tăng trọng không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa các quy mô nếu chỉ cho ăn thức ăn
hỗn hợp, chi phí trung bình cho 1 kg thịt tăng trọng nếu cho ăn kết hợp cao hơn về mặt thống kê ở
các hộ
quy mô lớn.
* Chỉ có 2 hộ chăn nuôi ở quy mô lớn có sử dụng cách thức cho ăn kết hợp cả thức ăn trộn và thức ăn hỗn
hợp, do đó kết quả không được trình bày ở đây.
# ANOVA là phân tích phương sai, nsd có nghĩa là không có sự khác biệt về mặt thống kê.

Bảng 2 Chi phí thức ăn trên 1 ngày và trên 1 kg lợn thịt tăng trọng, theo vùng, quy
mô, và cách thức cho ăn (Nguồn: Điều tra hộ chăn nuôi, CARD, 2009)

Chi phí thức ăn trên 1 ngày
(Nghìn đồng)
Chi phí thức ăn trên 1 kg thịt tăng trọng
(nghìn đồng)

Chỉ thức ăn
hỗn hợp
Thức ăn
trộn &
thức ăn
hỗn hợp
Anova
#
(chi
phí/ ngày
theo cách
thức cho ăn)

Chỉ thức ăn
hỗn hợp
Thức ăn
trộn &
thức ăn
hỗn hợp
Anova
#
(chi
phí/kg theo
cách thức
cho ăn)
Chung 19,23 14,37 1% 23,58 20,15 5%
Theo vùng
Miền Bắc 16,99 13,83 nsd 26,62 20,38 10%
Miền Nam 19,44 15,08 1% 23,28 19,84 nsd
#

Theo quy mô

Nhỏ 18,11 12,84 1% 18,72 18,44 nsd
Trung bình 19,75 15,60 5% 24,96 21,70 nsd
Lớn 19,41 14,92 5% 24,92 20,66 nsd
# ANOVA là phân tích phương sai, nsd là không có ý nghĩa về mặt thống kê


CARD Project 030/06 VIE: Tăng cường khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp:
trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi


Tóm lược chính sách 5/ 2010

Những khó khăn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành sản xuất
thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam đang phải đối mặt

Thông tin từ tóm lược chính sách này
dành cho Bộ trưởng và ban ngành có liên
quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, các sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn các tỉnh, Hiệp hội doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

Mục đích:
• Trình bày những khó khăn chủ yếu
mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN) trong ngành sản xuất thức
ăn chăn nuôi ở Việt Nam đang gặp
phải.
• Đề xuất một số chính sách cần thi
ết
để giải quyết những khó khăn này.

Thông tin nền
Các doanh nghiệp lớn chiếm lĩnh thị
trường trong ngành sản xuất thức ăn
chăn nuôi, nhưng cũng còn rất nhiều
DNVVN hoạt động trong ngành này.
Các DNVVN phải chịu áp lực rất lớn để
duy trì được khả năng cạnh tranh.
Mới chỉ có rất ít các nghiên cứu về khả

năng cạnh tranh của các DNVVN so với
các doanh nghiệp lớ
n hơn và những khó
khăn mà các doanh nghiệp này gặp phải.
Trong Tóm lược chính sách này, chúng
tôi sẽ trình bày một số khó khăn mà các
DNVVN DNVVN hoạt động trong
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đang
phải đối mặt. Nghiên cứu gần đây đã chỉ
ra rằng sự hỗ trợ về tín dụng của Chính
phủ cho các DNVVN này không đạt
được nhiều hiệu quả vì nó tập trung chủ
yếu vào các DNVVN ở 2 thành phố lớ
n
nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh (Thanh, 2010). Bởi vì nhiều doanh
nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi được
đặt ở khu vực nông thôn, Quỹ hỗ trợ tín
dụng sẽ không phát huy được hiệu quả
trong việc vươn đến với các doanh
nghiệp này. Hơn thế nữa, nghiên cứu
cũng cho thấy 75% các DNVVN tiếp cận
với các khoản vay từ các nguồn không
chính thức (Thanh, 2010).
Số liệu được thu th
ập từ cuộc điều tra 62
doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi
được thực hiện năm 2008 bởi Trung tâm
Tư vấn Chính sách Nông nghiệp. Trong
phân tích này, các doanh nghiệp thức ăn

chăn nuôi được phân loại như sau: Quy
mô nhỏ là các doanh nghiệp sản xuất
dưới 10,000 tấn một năm; quy mô vừa là
các doanh nghiệp sản xuất từ 10.000 tấn
đến dưới 60.000 tấn một năm; và quy mô
lớn là các doanh nghiệ
p sản xuất từ
60.000 tấn trở lên một năm. Trong Tóm
lược chính sách này, nói đến DNVVN là
nói đến những doanh nghiệp ở cả quy
mô nhỏ và vừa, mặc dù có một vài kết
quả được trình bày tách biệt cho các
doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp
vừa



2
Các khó khăn mà DNVVN hoạt động trong
ngành đang phải đối mặt
Giới hạn trong tiếp cận nguồn tín dụng đầy đủ
Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các
doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn trong
việc tiếp cận với các khoản vay từ các
nguồn tín dụng chính thức. Tỷ lệ các
DNVVN có thể vay được đủ vốn theo
nhu cầu thấp hơn so với tỷ lệ
của các
doanh nghiệp vừa và lớn.
Gần 70 % doanh nghiệp sản xuất thức ăn

chăn nuôi được điều tra trong dự án
CARD có vay vốn nhưng chỉ có 56%
trong số đó vay được đủ vốn theo nhu
cầu. Tuy nhiên, tỷ lệ các doanh nghiệp
nhỏ có thể vay được đủ vốn theo nhu cầu
thấp hơn so với tỷ lệ của các doanh
nghiệp vừa và lớn (tỉ lệ này lần lượ
t là
40%, 64% và 67%). So sánh với các
doanh nghiệp lớn, DNVVN có xu hướng
vay vốn từ các ngân hàng thương mại
(trên 60%) hơn VBARD nơi họ có tiếp
cận với lãi suất thấp hơn. Điều đó có
nghĩa rằng các doanh nghiệp này phải trả
chi phí cao hơn cho các khoản vay, điều
này làm tăng chi phí sản xuất.
Trong cuộc điều tra, không có thế chấp
được tất cả các doanh nghiệp lớn và 2/3
số doanh nghiệp nhỏ l
ựa chọn như là lý
do quan trọng nhất khiến họ không vay
được đủ vốn theo nhu cầu. Một nửa số
doanh nghiệp ở quy mô vừa đề cập đến
lãi suất cao như là nguyên nhân quan
trọng nhất khiến họ không vay được đủ
vốn theo nhu cầu, và số doanh nghiệp
còn lại chia điều cho 2 lý do: không có
tài sản thế chấp và thiếu các mối quan
hê.
Rất nhiều doanh nghiệp cho rằng Chính

phủ nên đư
a ra nhiều sự hỗ trợ hơn đối
với các doanh nghiệp trong việc tiếp cận
nguồn tín dụng. Đây là vai trò quan
trọng nhất của Chính phủ được đưa ra
bởi các doanh nghiệp trong điều tra. Phát
hiện này phản ánh những khó khăn mà
các doanh nghiệp, đặc biệt là các
DNVVN, phải đối mặt khi vay vốn (lãi
suất cao, thủ tục hành chính, thiếu tài sản
thế chấp và giới hạn về khoả
n vay…) và
ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp là
cần những chính sách để giải quyết
những khó khăn về tín dụng.
Thu mua và lưu trữ các nguyên liệu thô
Không có bằng chứng thống kê nào cho
thấy các doanh nghiệp nhỏ trả nhiều hơn
cho việc mua các nguyên liệu đầu vào
sử dụng trong sản xuất thức ăn chăn
nuôi. Cần chú ý rằng, những số liệu này
không xét đến chất lượng của nguyên
liệu
được mua. Tuy nhiên, có một điều
rõ ràng từ các số liệu là các DNVVN
phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn nguyên
liệu trong nước, đặc biệt là bột cá so với
các doanh nghiệp lớn.
Các DNVVN thường có quy mô kho
chứa nhỏ hơn và khả năng dự trữ trong

thời gian ngắn hơn so với các doanh
nghiệp lớn. Điều này có nghĩa họ phải
mua nguyên liệu đầu vào thường xuyên
hơn. Điều này khiế
n họ dễ bị tổn thương
hơn đối với việc tăng giá nguyên liệu.
Trong điều kiện thị trường nguyên liệu
không ổn định, công suất kho chứa rộng
hơn và khả năng lưu trữ trong thời gian
dài hơn sẽ giúp đảm bảo cho các các
doanh nghiệp lên kế hoạch cũng như
kinh phí dự trù một cách hiệu quả
Tiếp cận đầy đủ về
đất đai cho kinh
doanh
Cả các doanh nghiệp nhỏ và các doanh
nghiệp lớn đều có xu hướng báo cáo
rằng họ phải đối mặt với nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận đầy đủ về đất đai cho
việc tổ chức các hoạt động kinh doanh.
Tiếp cận đất cho mục đích kinh doanh là
vấn đề phổ biến thứ 2 (sau tiếp cận về tín
dụng ) theo nhận định c
ủa các doanh
nghiệp DNVVN là cần được sự trợ giúp
của Chính phủ (hơn 20% số doanh
nghiệp ).
Trở ngại trong vận chuyển hàng hóa
42% các doanh nghiệp nói rằng họ gặp
khó khăn trong việc vận chuyển hàng

hóa, và tỷ lệ này ở các doanh nghiệp lớn
(61%) cao hơn so với các DNVVN. Lệ


3
phí cầu đường, các rào cản về đường xá
liên huyện và liên tỉnh cùng với việc
kiểm soát của cảnh sát là những lý do
được cho là những rào cản quan trọng
nhất với việc vận chuyển hàng hóa của
67% doanh nghiệp nhỏ, 33% doanh
nghiệp vừa và 75% doanh nghiệp lớn.
Thiếu năng lực trong việc thực hiện
kiểm soát về chất lượng đầy đủ
Trong cuộc điều tra 62 doanh nghiệ
p sản
xuất thức ăn chăn nuôi được thực hiện
bởi Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông
nghiệp năm 2008, các quy trình kiểm
soát chất lượng của các doanh nghiệp
nước ngoài, liên doanh và doanh nghiệp
lớn đã được chứng minh là tốt hơn ở cả 2
khâu kiểm tra nguyên liệu đầu vào và
sản phẩm đầu ra. Rõ ràng là có những
vấn đề về kiểm soát chất lượng đối với
các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghi
ệp
trong nước. Rất ít các doanh nghiệp
được khảo sát đề nghị hỗ trợ về kỹ thuật,
kiểm soát chất lượng, tập huấn hoặc yêu

cầu sự trợ giúp từ Chính phủ. Điều này
có thể sẽ là một viễn cảnh bất lợi cho các
DNVVN trong ngành thức ăn chăn nuôi.
Kiểm soát chất lượng tốt hơn là cần thiết
đối với lĩnh vực này và dườ
ng như
không chắc chắn rằng sẽ có thể đạt được
một cách tự nguyện bởi phần lớn các
doanh nghiệp trong nước. Các vấn đề về
kiểm soát chất lượng được đi sâu phân
tích hơn trong Tóm lược chính sách về “
Kiểm soát chất lượng trong ngành thức
ăn chăn nuôi ở Việt Nam”.

Một số khuyến nghị
1. Các DNVVN nên được hỗ trợ thêm
về vốn vay. H
ơn 50% các doanh
nghiệp đồng ý rằng cần phải có sự
trợ giúp của Chính phủ trong việc
tiếp cận nguồn tín dụng. Nghiên cứu
sâu hơn là cần thiết trong việc xác
định các lĩnh vực hoạt động cụ thể
mà các DNVVN cần được sự hỗ trợ
về tính dụng, và làm sao để cung cấp
các hỗ trợ tín dụng một cách tốt nhất.
Trọng tâm của sự trợ giúp này nên
đặ
t vào những lĩnh vức mà các
DNVVN cần có sự hỗ trợ để có thể

cạnh tranh được với các doanh
nghiệp lớn (ví dụ như: mua nguyên
liệu, cải thiện công cụ quản lý chất
lượng…).
2. Cải tiến các tiêu chuẩn kiểm soát
chất lượng của các doanh nghiệp nhỏ
trong nước. Hiện tại có một sự khác
biệt lớn về các thủ tục kiểm soát chất
l
ượng đang được thực hiện trong các
doanh nghiệp trong nước và các
doanh nghiệp nước ngoài. Để cạnh
tranh trong lĩnh vực này một cách lâu
dài, hệ thống tiêu chuẩn kiểm soát
chất lượng của các DNVVN trong
nước cần phải được cải thiện. Một số
khuyến nghị cụ thể hơn về việc cải
thiện kiểm soát chất lượng sẽ được
trình bày trong bản Tóm lược chính
sách về
“ Kiểm soát chất lượng trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt
Nam.”
3. Xây dựng các liên kết thị trường tốt
hơn giữa các DNVVN và các nhà
cung cấp nguyên liệu. Chiến lược
này, cùng với cải tiến quản lý chuỗi
cung ứng, có thể làm tăng chất lượng
và giảm chi phí của các nguyên liệu
thô trong nước, mang lại lợi ích cho

các DNVVN hoạt động trong ngành
công nghiệp thức ăn chăn nuôi. Mục
tiêu là cả
i tiến chất lượng (ví dụng
như các sản phẩm bột cá trong nước )
và giảm giá thành của các nguyên
liệu thô trong nước.
4. Đẩy mạnh vai trò của các DNVVN
đối với vấn đề tạo việc làm nông
thôn. DNVVN thường được đặt ở
các vùng nông thôn nhiều hơn và do
đó cung cấp nhiều cơ hội việc làm
trong khu vực nông thôn. Chính phủ
nên khuyến khích các DNVVN ở
khu vực nông thôn thông qua cung
cấp đất đai, cơ sở hạ
tầng và hỗ trợ
tín dụng.
5. Các rào cản trong vận chuyển hàng
hóa do việc kiểm soát không đúng


4
quy cách của cảnh sát cần phải được
giải quyết. Các rào cản không cần
thiết và các chi phí liên quan tới vận
chuyển hàng hóa làm gia tăng chi phí
trong ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt
Nam và kết quả là chi phí sản xuất
cao hơn cho cả các hộ chăn nuôi quy

mô nhỏ và quy mô sản xuất hàng
hóa. Tham nhũng liên quan đến các
hoạt động của cảnh sát cần phải được
ngăn ngừa và giải quyết.
6.
Hỗ trợ củng cố vai trò của Hiệp hội
thức ăn chăn nuôi Việt Nam
(VAFA). VAFA có thể đóng vai trò
quan trọng và hữu ích cho các
DNVVN trong ngành này. Hiệp hội
này đã giúp các DNVVN trong các
công thức chế biến thức ăn, và tư vấn
nhiều khía cạnh khác nhau cho sản
xuất, và vai trò này có thể được mở
rộng bao gồm cả việc hỗ trợ trong
việc cung cấp thông tin về thị trường
trong nước và qu
ốc tế, thu mua
nguyên liệu (ví dụ như nhập nguyên
liệu thô) và cải tiến các thủ tục kiểm
soát chất lượng. Cả các DNVVN và
các doanh nghiệp lớn nên thể hiện
vai trò trong việc thảo luận và phát
triển vai trò của VAFA trong tương
lai. Chính sách bảo hộ cho ngành
thức ăn chăn nuôi nói chung và
DNVVN nói riêng nên được xem
xét. Tư cách hội viên của Hiệp hội
thức ăn chăn nuôi nên bắt buộc cho
tất cả các doanh nghiệp sả

n xuất thức
ăn chăn nuôi đã đăng ký, và Hiệp hội
nên được củng cố với sự hỗ trợ của
chính phủ và khu vực tư nhân.






Tham khảo thêm
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các DNVVN trong ngành thức ăn
chăn nuôi ở Việt Nam: Phần 1. Sản xuất
thức ăn chăn nuôi. Báo cáo cho Dự án
CARD 030/06.
Thanh, Vo Tri, 2010. Hội nghị chuyên đề về
“Các chiến lược đối với DNVVN để vượt
qua cuộc Khủng hoảng Kinh tế” Hiệp hội
các kế toán viên được chứng nhận đủ tiêu
chuẩn hành nghề và Báo Sài Gòn Thương
mại, Thành phố Hồ Chí Minh, 4/5/ 2010.




CARD Project 030/06 VIE: Tăng cường khả năng cạnh trạn của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp:
trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi


Tóm luợc chính sách 5/2010

Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành sản
xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam

Thông tin từ tóm lược chính sách này
dành cho Bộ trưởng và các nhà chức
trách có liên quan của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, các sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn các tỉnh,
Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi, Hiệp hội
Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam và
các nhà quản lý của các doanh nghiệp
đang hoạt động trong ngành thức ăn
chăn nuôi.

Mục đích
• Trình bày các kết quả nghiên cứu
liên quan đến khả năng cạ
nh tranh
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN) đang hoạt động trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam,

• Đưa ra những gợi ý - từ những kết
quả nghiên cứu – liên quan đến sự
phát triển bền vững của các DNVVN
trong ngành.

Thông tin nền

Các doanh nghiệp lớn thống trị thị
trường trong ngành sản xuất thức ăn
chăn nuôi, nhưng có rất nhiều các
DNVVN cũng đ
ang hoạt động trong lĩnh
vực này. Sức ép đè nặng lên các doanh
nghiệp nhỏ trong nước để duy trì được
khả năng cạnh tranh và có nhiều ý kiến
cho rằng họ không có khả năng cạnh
tranh, tuy nhiên mới có rất ít các nghiên
cứu về khả năng cạnh tranh của các
DNVVN so với các doanh nghiệp lớn
được thực hiện. Trong tóm lược chính
sách này, các kết quả của 1 nghiên cứu
về khả năng cạnh tranh củ
a các DNVVN
trong ngành thức ăn chăn nuôi sẽ được
trình bày và thảo luận. Số liệu phân tích
là từ 1 cuộc điều tra trên 62 doanh
nghiệp thức ăn chăn nuôi được thực hiện
năm 2008 bởi Trung tâm Tư vấn Chính
sách Nông nghiệp. Trong các phân tích,
các doanh nghiệp được phân loại theo
cách sau: các doanh nghiệp nhỏ là những
doanh nghiệp sản xuất dưới 10.000
tấn/năm; các doanh nghiệp vừa là những
doanh nghiệp sản xuất từ 10.000 đế
n
dưới 60.000 tấn/năm, và các doanh
nghiệp lớn là những doanh nghiệp sản

xuất từ 60.000 tấn/năm trở lên. Trong
tóm lược chính sách này, nói đến
DNVVN là nói đến những doanh nghiệp
ở cả quy mô nhỏ và vừa, mặc dù có một
vài kết quả được trình bày tách biệt cho
các doanh nghiệp nhỏ và các doanh
nghiệp vừa.
Khả năng cạnh tranh trong ngành thức
ăn chăn nuôi chịu tác động bởi chi phí
sản xuất tương đối c
ủa các doanh nghiệp
ở các quy mô khác nhau. Nghiên cứu
này tập trung vào việc so sánh các
DNVVN với các doanh nghiệp lớn về


2
các khía cạnh liên quan đến các hoạt
động sản xuất và kinh doanh của hộ, bao
gồm: sử dụng nguyên liệu đầu vào, lưu
trữ, các loại sản phẩm, kiểm soát chất
lượng, các kênh cung cấp và phân phối,
thị phần, các dịch vụ cung cấp và đối
tượng khách hàng. Những hoạt động này
đưa ra những chỉ tiêu rõ ràng hơn về việc
làm sao các DNVVN có thể cạnh tranh
được với các doanh nghiệp lớn.

Các kết quả về khả năng cạnh tranh
của các DNVVN

Các đặc điểm sản xuất và chi phí sản xuất
Số liệu thống kê trong nghiên cứu này
cho thấy chi phí sản xuất tăng tỷ lệ
nghịch với quy mô sản xuất. Các doanh
nghiệp nhỏ có mức chi phí sản xuất trên
mỗi kg sản phẩm cao hơn đáng kể so với
doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp vừa
lại có mứ
c chi phí sản xuất cao hơn
doanh nghiệp lớn. Chi phí sản xuất trung
bình trên mỗi kg sản phẩm là 8.420
đồng, 6.340 đồng và 5.380 kg tương ứng
với các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn.
Chỉ riêng chỉ số này không thể khẳng
định các doanh nghiệp lớn có hiệu quả
hơn. Ví dụ, điều tra cho thấy các
DNVVN có tỷ lệ thức ăn đậm đặc trong
tổng sản lượng thức ăn sản xuấ
t ra hàng
năm cao hơn so với các doanh nghiệp
lớn. Về trung bình, doanh thu từ thức ăn
đậm đặc trong tổng doanh các doanh
nghiệp nhỏ chiếm tới 37%, so với 18% ở
các doanh nghiệp vừa và chỉ 11% ở các
doanh nghiệp lớn. Trên 80% doanh thu
của các doanh nghiệp vừa và lớn là từ
thức ăn hỗn hợp. Sản xuất thức ăn đậm
đặc đòi hỏi chi phí nguyên liệu thô đầu
vào trên 1 kg sản phẩm cao hơn nên chi
phí sản xuất cho 1 kg sản phẩm đầu ra

cũng cao hơn đối với những doanh
nghiệp sản xuất nhiều thức ăn đậm đặc.
Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chi
phí nguyên liệu thô chiếm khoảng 80%
tổng chi phí sản xuất của các doanh
nghiệp. Một phần tích về các chi phí
khác ngoài chi phí nguyên liệu thô cho
thấy, các doanh nghiệp lớn có mức chi
phí đơn vị thấp hơn về mặt thố
ng kê so
với các doanh nghiệp nhỏ (970 đồng trên
1 kg so với 2.050 đồng trên 1 kg trong
năm 2007), điều này cho thấy hiệu quả
quy mô gắn với các doanh nghiệp lớn
hơn.
Các doanh nghiệp nhỏ sử dụng 19 lao
động để sản xuất ra một tấn sản phẩm, so
với khoảng 11 lao động được sử dụng ở
các doanh nghiệp vừa và lớn, và sự khác
biệt này là có ý nghĩa về mặt thống kê.
Đ
iều này có thể nói lên hiệu quả sử dụng
lao động thấp của các doanh nghiệp nhỏ,
hay việc sử dụng vốn thay thế của các
doanh nghiệp lớn hơn. Điều này cũng
nói lên rằng các doanh nghiệp nhỏ đóng
một vai trò quan trọng trong việc cung
cấp việc làm.
Lợi nhuận của các DNVVN
Chúng tôi không có đủ số liệu để so sánh

lợi nhuận đối với loại sản phẩ
m. Tuy
nhiên, đối với sản xuất chung, chúng tôi
thấy rằng các doanh nghiệp nhỏ chịu
thua lỗ khoảng 70 đồng trên 1 kg sản
phẩm đầu ra trong khi các doanh nghiệp
trung bình và lớn thu được lợi nhuận lần
lượt là 120 đồng và 100 đồng trên 1 kg
sản phẩm đầu ra. Sự khác biệt này là có
ý nghĩa về mặt thống kê.
Các kết quả này chỉ ra rằng các doanh
nghiệp nhỏ (sản xuất dưới 10.000 tấn
một nă
m) rất khó khăn trong việc duy trì
khả năng cạnh tranh. Số liệu chỉ ra rằng
họ phải đối mặt với chi phí cao hơn và
bán thức ăn hỗn hợp cho lợn ở mức giá
thấp hơn đáng kể dẫn tới lợi nhuận trung
bình của họ thấp hơn. Điều này được
chứng minh bởi các báo cáo về thực
trạng các doanh nghiệp nhỏ ngừng hoạ
t
động, và các quan sát của chúng tôi khi
thực hiện cuộc điều tra, rất nhiều doanh
nghiệp trong danh sách trước đây không
còn hoạt động nữa.



3

Các chiến lược sử dụng bởi các
DNVVN để cạnh tranh thị phần với
các doanh nghiệp lớn
Cung cấp tín dụng cho người mua
Các DNVVN có xu hướng cung cấp tín
dụng cho các khách hàng mua sản phẩm
của họ nhiều hơn so với các doanh
nghiệp lớn. Tín dụng hoặc các phương
thức trả chậm khi mua sản phẩm không
được xem là phương thức thanh toán
thông thường của các doanh nghiệp lớn,
ngược l
ại cả hai phương thức thanh toán
này đều là các phương thức thông
thường mà các DNVVN áp dụng. Phần
lớn các giao dịch bán sản phẩm thức ăn
hoàn chỉnh và 75% giao dịch bán thức
ăn đậm đặc cho các đại lý bán buôn bởi
các công ty lớn được thực hiện theo
phương thức trả trước. Chi phí tín dụng
là nguồn phí cộng thêm vào mà các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chi trả so
với các doanh nghiệp quy mô lớn tuy
nhiên nó là chiến lược để
đảm bảo các
đầu mối bán hàng. Các doanh nghiệp
vừa là nhóm duy nhất tuyên bố mua các
nguyên liệu đầu vào qua hình thức
“thanh toán trả trước” với 15% số lượng
hàng thu mua sẽ được trả trước. Phương

thức thu mua này sẽ giúp đảm bảo
nguồn cung bền vững đặc biệt là khi các
nguyên liệu khan hiếm và cũng có thể là
một chiến lược các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sử dụng để đảm bảo nguồ
n cung đầu
vào. Tuy nhiên, thực hiện chiến lược này
các doanh nghiệp phải trả thêm chi phí.
Địa điểm
Các DNVVN thường được đặt ở các
vùng nông thôn nhiều hơn ở thành thị và
đặc biệt các doanh nghiệp vừa có xu
hướng cung cấp cho các khách hàng ở xa
khu vực sản xuất và những khách hàng
này thường là những hộ chăn nuôi nhỏ.
Điều này cho thấy một số DNVVN tập
trung vào cung cấp cho các hộ chăn nuôi
nhỏ ở
xa các thành phố lớn. Các
DNVVN cũng sử dụng một tỷ lệ lớn các
nguyên liệu thô được sản xuất ở địa
phương. Việc đặt địa điểm tại các vùng
nông thôn có thể giúp các DNVVN tiếp
cận được với các nguồn cung đầu vào tại
địa phương bao gồm cả những nguyên
liệu đầu vào không phổ biến như gạo
tấm, lạc và dầu hạt bông.
Khác biệt trong chu
ỗi cung cấp
Nghiên cứu chỉ ra rằng các kênh cung

cấp/ phân phối áp dụng bởi các DNVVN
và các doanh nghiệp lớn trong ngành
thức ăn chăn nuôi tương đối khác nhau,
điều này nói lên rằng họ thu mua nguyên
liệu và phân phối sản phẩm từ/cho các
phân đoạn thị trường khác nhau. Không
giống như các doanh nghiệp lớn, các
DNVVN thu mua đầu vào hay bán sản
phẩm đầu ra trực tiếp từ/cho các hộ gia
đình nhỏ. Các doanh nghiệp lớn phụ
thuộc hơn vào nguồn nhập khẩu (ví dụ
ngô) để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu
của họ trong khi các DNVVN có thể
đảm bảo đủ nguồn cung nguyên liệu thô
từ thị trường trong nước.
Các DNVVN có xu hướng đa dạng hóa
nhiều hơn các hoạt động kinh doanh và
ngoài ra họ bán sản phẩm cho nhiều đối
tượng khách hàng bao gồm các doanh
nghiệp khác, các đại lý và các hộ chăn
nuôi. Đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ

hướng việc bán sản phẩm trực tiếp cho
các hộ gia đình và doanh nghiệp vừa
mục tiêu chủ yếu hướng và các đại lý
bán lẻ. Ngược lại, các doanh nghiệp lớn
hầu hết phân phối sản phẩm của họ cho
các đại lý bán buôn và các thương lái và
chỉ thu mua nguyên liệu đầu vào từ các
cơ sở chế biến tư nhân và các doanh

nghiệp nhà nước.
Các dịch vụ cung cấp cho các đại lý và
các hộ
chăn nuôi
Các DNVVN cung cấp nhiều loại dịch
vụ khác nhau đi kèm với việc bán thức
ăn chăn nuôi cho các đại lý và các hộ
chăn nuôi. Các doanh nghiệp nhỏ có xu
hướng cung cấp các dịch vụ giao hàng
tới các đại lý nhiều hơn (so với các
doanh nghiệp vừa và lớn), và cũng cung
cấp các dịch vụ giao hàng tận nơi cho
các hộ chăn nuôi như các doanh nghiệp


4
lớn. Như đã đề cập trước đó, các
DNVVN cũng có xu hướng nhiều hơn
các doanh nghiệp lớn trong việc cung
cấp các dịch vụ về tín dụng/trả chậm cho
các đại lý.
Các DNVVN ít cung cấp các dịch vụ thú
y, tư vấn dinh dưỡng và tài liệu khuyến
nông cho các hộ chăn nuôi hơn so với
các doanh nghiệp lớn, mặc dù có một tỷ
lệ lớn đáng kể các doanh nghiệp v
ừa và
nhỏ đưa ra các dịch vụ này. Tuy nhiên,
giống như các doanh nghiệp lớn phần
lớn các DNVVN cũng cung cấp các dịch

vụ này đến các đại lý.

Các gợi ý cho sự phát triển bền vững
của các DNVVN trong ngành
Các kết quả nghiên cứu chỉ ra các cách
tiếp cận có thể cân nhắc để đảm bảo sự
phát triển bền bững của các DNVVN
trong ngành.
1. Các doanh nghiệp nhỏ cần tăng quy
mô sản xu
ất
Các kết quả ủng hộ ý kiến cho rằng các
doanh nghiệp vừa (sản xuất từ 10.000
đến 60.000 tấn/ năm) vẫn duy trì được
khả năng cạnh tranh, với các chi phí, kết
hợp sản phẩm và giá tương đương với
cách doanh nghiệp lớn. Họ có chiến lược
bán hàng tập trung vào một nhóm đối
tượng khách hàng khác với nhóm doanh
nghiệp lớn (tức là các đại lý bán lẻ hơn
là các đại lý bán buôn). Các doanh
nghiệ
p nhỏ (sản xuất dưới 10.000 tấn
một năm) xem ra phải chịu áp lực rất lớn
để có thể tồn tại, và rất nhiều doanh
nghiệp sẽ cần tăng quy mô sản xuất để
duy trì được hoạt động.
2. Cân nhắc các lợi thế đạt được từ 1
cấu trúc hợp tác.
Các DNVVN nên xem xét các lợi thế có

thể liên quan đến 1 cấu trúc hợp tác, nó
cho phép họ hoạt động giống nh
ư các
doanh nghiệp lớn hơn và đạt được các
hiệu quả quy mô trong chi phí sản xuất.
Một cấu trúc hợp tác có thể đem lại
những lợi thế liên quan đến việc đa dạng
hoá. Một vài DNVVN ở Thái Lan đã đưa
ra một loạt các dịch vụ (chẳng hạn như
cung cấp tín dụng, nhiên liệu, mua các
sản phẩm đầu) cho các hộ chăn nuôi nhỏ
và/hoặc những trang trại th
ương mại là
thành viên của hợp tác xã và cung cấp
và/ hoặc mua trực tiếp đến/ từ các doanh
nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. Chiến
lược này có thể được sử dụng để đảm
bảo nguồn cung nguyên liệu thô và các
nhóm khách hàng chính đối với các sản
phẩm thức ăn chăn nuôi.
3. Phát triển mạnh hơn các thị trường
nhỏ/ thị trường chuyên biệt
Các kết quả chỉ
ra rằng các DNVVN
được đặt ở các vùng nông thôn nhiều
hơn và có xu hướng bán sản phẩm cho
các vùng xa khu vực sản xuất hơn so với
các doanh nghiệp lớn. Cần có nhiều
nghiên cứu hơn về nguồn cung cấp thức
ăn chăn nuôi ở những vùng xa khu vực

sản xuất chính, và làm sao để mở rộng
được thị trường này thành một thị trường
chuyên biệt một cho các DNVVN . Các
cơ hội cũng có thể đặ
t ra đối với việc sản
xuất ra những sản phẩm thức ăn chăn
nuôi chuyên biệt phục vụ cho ngành
chăn nuôi quy mô nhỏ hơn (chẳng hạn
như vịt, gà và lợn giống địa phương, và
bò) hơn là cạnh tranh lại với các công ty
nước ngoài để cung cấp thức ăn cho chăn
nuôi gà và lợn.
4. Nguồn cung cấp trong nước về các
nguyên liệu thô đầu vào là rất quan
trọng đối v
ới các DNVVN
Các DNVVN có xu hướng mua các
nguyên liệu đầu vào từ các nguồn địa
phương nhiều hơn, điều này chỉ ra rằng
thị trường nguyên liệu trong nước là rất
quan trọng đối với các DNVVN. Việc
quản lý tốt hơn chuỗi cung cấp có thể
tăng chất lượng và giảm chi phí của các
nguyên liệu thô trong nước từ đó mang
lại lợi ích cho các DNVVN hoạt động
trong ngành thức ăn chăn nuôi. Mộ
t
nghiên cứu sâu hơn về việc quản lý kênh
cung cấp nguyên liệu đầu vào của các
doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi quy mô



5
vừa có thể cung cấp những kinh nghiệm
và bài học cần có cho việc phát triển bền
vững nguồn cung cấp nguyên liệu thô
cho các DNVVN trong ngành thức ăn
chăn nuôi.
5. Cải tiến việc kiểm soát chất lượng
của các sản phẩm thức ăn chăn nuôi
sản xuất bởi các DNVVN
Chất lượng tốt hơn của các sản phẩm
được sản xuất bởi các DNVVN là yếu tố

quan trọng để giúp họ có được khả năng
cạnh tranh trong ngành. Các đề xuất
chính sách cần có để tăng cường việc
kiểm soát chất lượng của các sản phẩm
thức ăn được phân tích rõ hơn trong một
Tóm lược chính sách riêng về “Kiểm
soát chất lượng trong ngành thức ăn chăn
nuôi ở Việt Nam”
6. Tập trung vào những thách thức mà
các DNVVN đang phải đối mặt
Nghiên cứu đã tìm thấ
y một số thách
thức mà các DNVVN trong ngành thức
ăn chăn nuôi phải đối mặt. Những thách
thức này bao gồm khả năng tiếp cận tín
dụng, mua và lưu trữ các nguyên liệu

đầu vào, và thiếu khả năng để thực hiện
việc kiểm soát chất lượng. Các cách tiếp
cận chính sách cần có để giải quyết
những thách thức này được phân tích rõ
hơn trong một Tóm lược chính sách
riêng về “Các thách thức mà các
DNVVN trong ngành sả
n xuất thức ăn
chăn nuôi ở Việt Nam đang phải đối
mặt”

Tham khảo thêm
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam: Phần
1. Sản xuất thức ăn chăn nuôi. Báo cáo cho
Dự án CARD 030/06.
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam: Phần
II. Sử dụng thức ăn chăn nuôi của các hộ
chăn nuôi gà và lợn. Báo cáo cho Dự án
CARD 030/06.




CARD Project 030/06 VIE: Tăng cường khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông
nghiệp: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi


Tóm lược chính sách 5/ 2010

Kiểm soát chất lượng trong ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam

Thông tin từ tóm lược chính sách này
dành cho Bộ trưởng và các nhà chức
trách có liên quan của Cục Chăn nuôi
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn các tỉnh, các cán bộ có
liên quan của Viện Chăn nuôi, Hiệp hội
thức ăn Chăn nuôi Việt Nam.

Mục đích
• Trình bày các vấn đề phải đối mặt
hiện nay liên quan đến việc kiểm
soát chất lượng của các doanh
nghiệp sả
n xuất thức ăn chăn nuôi ở
Việt Nam.
• Đưa ra một số khuyến nghị chính
sách nhằm cải thiện việc kiểm soát
chất lượng trong sản xuất thức ăn
chăn nuôi.

Thông tin nền
Kiểm soát chất lượng được xem là một
trong những yếu điểm nghiêm trọng nhất
của ngành công nghiệp thức ăn chăn

nuôi Việt Nam. Mặc dù những quy định
(xem dưới đây), có nhận thức về chất
lượng thấp của thức ăn chăn nuôi sản
xuất tại Việt Nam, đặc biệt là từ các
doanh nghiệp trong nước, và các tiêu
chuẩn kiểm soát chất lượng nhìn chung
còn nghèo nàn (đặc biệt là liên quan đến
các chất gây ô nhiễm và sử dụng các
chất phụ gia) của các doanh nghiệp
trong ngành này. Kiểm soát chất lượng
trong sản xuất thức ăn chăn nuôi thuộc
về trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước (ví dụ như Cục chăn nuôi), và cũng
là trách nhiệm của bản thân các doanh
nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. Có
một số quyết định của Chính phủ Việt
Nam có liên quan đến kiểm soát chất
lượng thức ăn chăn nuôi sản xuất tại
Việt Nam, bao gồm:
• Nghị định 15-CP (Tháng 3 năm
1996) quy định về việc thống nhất
trong quản lý thức ăn chăn nuôi của
nhà nước. Cùng với những văn bản
khác, Nghị định này quy định việc
dán nhãn cụ thể cho các sản phẩm
thức ăn chăn nuôi.
• Quyết định 104/2001/QD-BNN
(Tháng 10 năm 2001). Quyết định
này quy định về hàm lượng tối thiểu
và tối đa các chất (như aflotoxins,

canxi, phốt pho, sắt, vitamin) trong 1
kg thức ăn chăn nuôi đối với từng
loại động vật, bao gồm gia cầm, lợn
và gia súc.
• Quyết định 113/2001/QĐ-BNN
(Tháng 10 năm 2001). Quyết định
này xác định 15 tiêu chuẩn (ví dụ
như độ
ẩm, protein, năng lượng,
canxi, aflotoxin) cho 6 sản phẩm
thức ăn chăn nuôi bao gồm thức ăn
hỗn hợp, thức ăn đậm đặc và các sản
phẩm khác.



2
Các vấn đề
Việc áp đặt thực hiện các tiêu chuẩn về
kiểm soát chất lượng thức ăn tốt và độ
tin cậy về chất lượng thức ăn chăn nuôi
sản xuất tại Việt Nam là điều cốt yếu đối
với sự phát triển bền vững của ngành
chăn nuôi. Kết quả từ cuộc khảo sát 62
doanh nghiệp sản xu
ất thức ăn chăn nuôi
được thực hiện bởi Trung tâm Tư vấn
Chính sách Nông nghiệp năm 2008 cho
thấy các mối quan tâm về chất lượng sản
xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam.

1. Chỉ một số ít các doanh nghiệp ở Việt
Nam áp dụng tiêu chuẩn quốc tế tiên tiến
cho việc kiểm soát chất lượng. Trong
các doanh nghiệp điều tra, chỉ 7% các
doanh nghiệp nước ngoài/ liên doanh và
không có doanh nghiệ
p trong nước nào
có chứng chỉ HACCP. 50% doanh
nghiệp nước ngoài/ liên doanh có chứng
nhận tiêu chuẩn ISO so với 23% doanh
nghiệp trong nước.
2. Một quy trình kiểm soát chất lượng
tốt hơn cho cả nguồn nguyên liệu đầu
vào sản phẩm đầu ra của các doanh
nghiệp nước ngoài và liên doanh là hết
sức rõ ràng khi so sánh với các soanh
nghiệp trong nước. Một tỉ lệ cao hơn của
các doanh nghiệp nước ngoài có phòng
thí nghiệm kiểm soát chất lượng riêng
v
ới các bài kiểm tra đa dạng đối với các
nguyên liệu thô và sản phẩm thức ăn
chăn nuôi (94% so với 46%), có các dây
chuyền sản xuất riêng biệt cho các loại
sản phẩm thức ăn chăn nuôi khác nhau
(35% so với 23%), có hệ thống làm sạch
tự động (91% so với 20%) và phần mềm
chia tỷ lệ thức ăn với chi phí thấp nhất
(94% so với 80%).
Theo quy mô sản xuất, chỉ có 65%

doanh nghiệp nhỏ (sả
n xuất dưới 10.000
tấn một năm) và 70% doanh nghiệp quy
mô trung bình(sản xuất từ 10.000 đến
60.000 tấn một năm) báo cáo rằng có
kiểm tra aflotixins, so sánh với 100%
doanh nghiệp lớn (sản xuất trên 60.000
tấn một năm). Rõ ràng là có những vấn
đề về kiểm soát chất lượng đối với các
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp trong
nước.
3. Cuộc khảo sát cũng cho thấy không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về

hàm lượng protein công bố của từng loại
thức ăn chăn nuôi giữa các doanh nghiệp
nước ngoài/ liên doanh và các doanh
nghiệp nội địa. Tuy nhiên một điều dễ
hiểu là việc dán nhãn sản phẩm thức ăn
chăn nuôi thường không chính xác. Dự
án này cũng không có đủ nguồn kinh phí
để điều tra độ chính xác của việc dán
nhãn thức ăn chăn nuôi.
4. Một điểm được tìm thấy là không có
mộ
t cơ quan nhà nước nào chịu trách
nhiệm cụ thể về kiểm soát chất lượng
thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam mặc dù
trên những quy định của chính phủ thì
trách nhiệm chính thuộc về Cục Chăn

nuôi, sau đó ủy thác trách nhiệm cho các
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn
cấp tỉnh để thực hiện tất cả các hoạt
động và nhiệm vụ, cũng như trách nhiệm
giám sát và đảm b
ảo vệ sinh và an toàn
trong việc sản xuất và sử dụng thức ăn
chăn nuôi trên địa bàn tỉnh mình. Ở đây
có một sự tương phản với Thái Lan nơi
mà chất lượng thức ăn được kiểm soát
chặt chẽ bởi Cục phát triển chăn nuôi.
Tại Thái Lan, cơ quan này có trách
nhiệm trong việc kiểm tra toàn bộ thức
ăn chăn nuôi của các nhà máy một cách
thường xuyên và miễn phí. Cơ quan này
c
ũng tiến hành mở các khóa đào tạo về
hệ thống GMP (thực hành quản lý tốt)
và hệ thống HACCP.
5. Các phòng thí nghiệm ở Việt Nam
không có đủ công suất để kiểm tra
thường xuyên 15 thông số dinh dưỡng
đòi hỏi để đăng ký các sản phẩm thức ăn
chăn nuôi ở Việt Nam. Cục phát triển
Chăn nuôi Thái Lan (Vụ Tiêu chuẩn và
Chứng nhận chăn nuôi) chỉ xác định tối
thiể
u 4 thông số cho mỗi loại thức ăn: tỷ
lệ protein, độ ẩm, chất béo và chất xơ.
Đây là những yêu cầu tối thiểu đối với

việc đăng ký 1 loại thức ăn thương mại
và tất cả các sản phẩm phải được đăng
ký bởi Cục phát triển Chăn nuôi Thái


3
Lan và các tỷ lệ này phải được ghi trên
nhãn.
6. Rất ít các doanh nghiệp được khảo sát
đề nghị hỗ trợ về kỹ thuật, kiểm soát
chất lượng, tập huấn hoặc yêu cầu sự trợ
giúp từ Chính phủ. Chúng tôi cho rằng
quan điểm này có thể bất lợi cho ngành
thức ăn chăn nuôi. Kiểm soát chất
lượng tốt hơn là cần thiết đối với lĩ
nh
vực này và dường như không chắc chắn
rằng sẽ có thể đạt được một cách tự
nguyện bởi phần lớn các doanh nghiệp
trong nước.

Các lựa chọn
Các doanh nghiệp nước ngoài và các
doanh nghiệp liên doanh có các tiêu
chuẩn cao hơn về kiểm soát chất lượng.
Các câu hỏi cần được nghiên cứu và trả
lời là:
• Tại sao các doanh nghiệp trong nước
không chú ý đến kiểm soát chất
lượng?


Tại sao có sự khác biệt về hành vi
đối với kiểm soát chất lượng được
thực hiện bởi FDI và các doanh
nghiệp tư nhân nước ngoài.
• Các chính sách có đầy đủ và phù hợp
để đảm bảo kiểm soát chất lượng hay
không?
• Việc thực thi các quy định về kiểm
soát chất lượng có được thực hiện
một cách hiệu quả và phù hợp hay
không?
• Có các chế độ phù hợp cho các
doanh nghiệp và nhân viên Chính
phủ thực hiện các quy định về kiểm
soát chất lượng hay không?
Các kết quả thu được từ cuộc điều tra
cho thấy rằng tất cả các vấn đề đưa ra
trong các câu hỏi hạn chế các doanh
nghiệp nội địa trong việc áp dụng các
biện pháp kiểm soát chất lượng hiệu quả
trong một chừng mực nào đó. Để khắc
phục điề
u này, các chính sách chủ động
là cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp
sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước
cải thiện các tiêu chuẩn kiểm soát chất
lượng của họ. Nếu các tiêu chuẩn về an
toàn thực phẩm dài hạn được đạt tới,
Chính phủ Việt Nam cần giải quyết các

vấn đề kiểm soát chất lượng liên quan
đến sản xuất thức ăn chă
n nuôi. Một số
lựa chọn có thể được xem xét là:

1. Đầu tư cải tiến công suất cho việc
kiểm soát chất lượng đầy đủ:
• Các doanh nghiệp trong nước có thể
được hỗ trợ (ví dụ như thông qua các
khoản vay hỗ trợ) để cải thiện công
suất phòng thí nghiệm phục vụ cho
kiểm tra các nguyên liệu thô và các
sản phẩm.
• Chính phủ Việt Nam có thể đầu tư

vào việc cải tiến các trang thiết bị
phòng thí nghiệm và kĩ năng cho
Cục chăn nuôi, do đó việc kiểm tra
đầy đủ và thường xuyên các sản
phẩm chăn nuôi có thể được thực
hiện.
• Chính sách trợ cấp của Chính phủ về
kiểm soát chất lượng nên được cân
nhắc. Ví dụ như các thí nghiệm kiểm
soát chất lượng bắt buộc đối với sản
ph
ẩm thức ăn chăn nuôi nên được
miễn phí.
2. Thắt chặt việc thực thi các quy định
về kiểm soát chất lượng

Lựa chọn này phụ thuộc vào trách nhiệm
của cơ quan được giao nhiệm vụ kiểm
soát chất lượng thức ăn chăn nuôi với
các trang thiết bị đầy đủ, nguồn lực nhân
sự và kĩ năng để tực hiện các bài kiểm
tra. Các khía cạnh có th
ể cần xem xét
bao gồm:
• Cân nhắc lại xem các thí nghiệm
kiểm soát chất lượng có thể được
tiến hành khả thi là cần thiết. Hiện
tại 15 tiêu chuẩn đánh giá (theo
Quyết định 113/QĐ/BNN tháng 10
năm 2001 về danh mục các chỉ tiêu


4
kỹ thuật cho thức ăn chăn nuôi) đã
được đưa ra, nhưng khả năng thực
thi chúng lại bị hạn chế. Cục phát
triển chăn nuôi Thái Lan chỉ đưa ra
rất ít tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng
nhưng thực tế thực hiện tới 3 lần 1
năm. Số lượng các bài kiểm tra yêu
cầu và tần xuất các thử nghiệm nên
được định rõ ở mứ
c độ có thể thực
hiện được.
• Tham nhũng liên quan đến việc
không báo cáo về sai phạm liên quan

tới các tiêu chuẩn kiểm soát chất
lượng cần được giải quyết.
• Việc điều tra hệ thống kiểm soát chất
lượng cho thức ăn chăn nuôi hiện tại
được thực hiện tại Thái Lan có thể sẽ
có giá trị.
• Một chính sách nhằm thực hiệ
n các
bài kiểm tra ngẫu nhiên các sản
phẩm thức ăn chăn nuôi trên thị
trường để kiểm tra độ chính xác ghi
trên nhãn cũng có thể được xem xét.
Nó cần bao gồm các thủ tục nhằm
thực thi lệnh trừng phạt nghiêm khắc
đối với những nhãn hàng ghi không
chính xác.
3. Tích cực thúc đẩy việc thông qua các
tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng quốc
tế
Đào tạo về “Thực hành quản lý tốt” và “
HACCP” có thể đượ
c cung cấp đến các
doanh nghiệp nhỏ, nội địa, kèm theo một
lịch trình cho việc áp dụng các tiêu
chuẩn thích hợp hơn với từng doanh
nghiệp cụ thể. Sự trợ giúp của các doanh
nghiệp nước ngoài lớn trong ngành và
của VAFA có thể được tìm kiếm nhằm
thúc đẩy và thực hiện đào tạo này,
nhưng điều này nên nằm dưới sự kiểm

soát của Cục chăn nuôi (hoặc mộ
t cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác).
Khóa đào tạo này có thể được trợ cấp từ
Chính phủ.

Một số khuyến nghị
1. Chính phủ cần đầu tư trang thiết bị
tốt hơn cho các phòng thí nghiệm và
đào tạo đội ngũ cán bộ có thể đảm
đương tốt các thủ tục kiểm tra đó.
2. Trách nhiệm về kiểm tra sản phẩm
thứ
c ăn chăn nuôi nên được ghi rõ
cho một cơ quan cụ thể (ví dụ như
Cục Chăn nuôi) để thực hiện các
nhiệm vụ và hoạt động có liên quan,
và đầu tư cho khả năng thực hiện của
họ (kĩ năng và nguồn lực) nhằm thực
hiện các quy trình kiểm soát chất
lượng đầy đủ cho các sản phẩm thức
ăn chăn nuôi.
3. Cần học t
ập kinh nghiệm từ hoạt
động của hệ thống kiểm soát chất
lượng thức ăn chăn nuôi của Thái
Lan (và các quốc gia láng giềng khác
có liên quan đến lĩnh vực sản xuất
thức ăn chăn nuôi).
4. Các doanh nghiệp trong ngành nên

được đào tạo về các tiêu chuẩn kiểm
soát chất lượng quốc tế, và nên có
một lịch trình cụ thể cho việc thực
hiện các tiêu chuẩn thích hợp. Thờ
i
hạn cuối cùng cho các doanh nghiệp
phải có ít nhất tiêu chuẩn GMP liên
quan đến khả năng sản xuất cần
được cân nhắc và xem xét. Trợ cấp
về đào tạo từ Chính phủ cũng nên
được cân nhắc.

Tham khảo thêm
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam: Phần
1. Sản xuất thức ăn chăn nuôi. Báo cáo cho
Dự án CARD 030/06.
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp,
2010. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
ngành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam: Phần
II. Sử dụng thức ăn chăn nuôi của các hộ
chăn nuôi gà và lợn. Báo cáo cho Dự án
CARD 030/06.







VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
TRUNG TÂM TƯ VẤN CHÍNH SÁCH



Dự án CARD 030/06 VIE: Xây dựng chiến lược tăng cường khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi
ngành hàng nông sản: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi




Báo cáo Thảo luận: Dự án CARD 030/06 VIE


Đường lối chính sách trong ngành chăn nuôi:
vai trò của IPSARD/CAP




















Hà Nội, tháng 6 - 2010

2
1. Giới thiệu
Nhiều tài liệu và các cơ quan quốc tế đã thể hiện sự quan tâm đến công việc xây dựng
chính sách ở Việt Nam, đặc biệt là cách tiếp cận “từ trên xuống” và thiếu đầu vào từ
khu vực tư nhân trong quá trình xây dựng chính sách (ví dụ như báo cáo của Vũ,
2003; Weaver, chưa có thời gian). IPSARD/CAP là cơ quan trực thuộc Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) và đóng vai trò chính là “cơ quan cố vấn
chính sách” cho Bộ. Như vậy, IPSARD/CAP đóng vai trò trong việc rà soát chính
sách, và xây d
ựng chính sách điều chỉnh và/hoặc chính sách mới. Báo cáo thảo luận
này rà soát sơ bộ chính sách chăn nuôi ở Việt Nam, và những nhận xét về vai trò của
IPSARD/CAP trong việc rà soát chính sách và đầu vào trong chính sách tiếp theo
trong ngành chăn nuôi. Báo cáo cũng tìm hiểu cách tiếp cận của IPSARD/CAP đối
với việc khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong quá trình xây dựng
chính sách chăn nuôi. IPSARD/CAP cũng đã tham gia rà soát đầu vào chính sách
trong ngành chăn nuôi trong khuôn khổ của dự án ACIAR LPS/2005/063 "Nâng cao
năng lực cạnh tranh của ng
ười chăn nuôi lợn trong thị trường chuyển đổi của Việt
Nam", và bản báo cáo này không có ý định lặp lại công trình này, mà thay vào đó bổ
sung thêm một số cách nhìn nhận về vai trò của IPSARD/CAP trong việc xây dựng và
rà soát chính sách trong ngành chăn nuôi.
2. Chính sách hiện tại trong ngành chăn nuôi

2.1 Các chính sách chăn nuôi (2000-2010)
Nhiều nghị định và quy định của chính phủ Việt Nam (GoV) có liên quan tới chính
sách cho ngành chăn nuôi và ngành thức ăn chăn nuôi. Các quy định này được phân
loại dưới đây theo các chính sách liên quan tới chiến lược phát triển, kiểm soát đầu
vào và kiểm soát chất lượng.

2.1.1 Chính sách về chiến lược phát triển ngành
Nghị định 15-CP (ngày 19/3/1996): Về quản lý thức ăn chăn nuôi.
Nghị định này quy định nhà nước sẽ áp dụng quản lý thống nhấ
t đối với hoạt động sản
xuất, kinh doanh, xuất khẩu và nhập khẩu thức ăn chăn nuôi để bảo vệ cho lợi ích của
người sản xuất, người kinh doanh và người sử dụng cuối cùng thức ăn chăn nuôi.
Nghị định cũng quy định nhà nước đầu tư vốn cho hệ thống sản xuất thức ăn chăn
nuôi và thông qua các chính sách tín dụng phù hợp cho ngành sản xuất th
ức ăn chăn
nuôi. Đồng thời nghị định này cũng đưa ra một danh sách yêu cầu các doanh nghiệp
phải đáp ứng để thực hiện hoạt động chế biến thức ăn. Nghị định quy định việc dán
nhãn cu thể các thành phần nguyên liệu sử dụng.
Quyết định 166/2001/QD-TTg (ngày 26/10/2001): Về các biện pháp và chính sách
phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2010.
Quyết định này khuyến khích phát triể
n các khu vực chăn nuôi xuất khẩu lợn chất
lượng cao. Quyết định này cũng quy định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ
phối hợp với các Bộ ngành liên quan trong việc đánh giá tình hình sản xuất thức ăn
chăn nuôi ở Việt Nam và xây dựng đề xuất để mở rộng và cải tiến sản xuất. Quyết
định cũng định hướng mở rộng diện tích trồng ngô lai nhằm giả
m chi phí sản xuất
thức ăn.

3

Quyết định 167/2001/QD-TTg (ngày 26/10/2001): Về các biện pháp và chính sách
phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
Quyết định này khuyến khích phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam và quy định
định hướng phát triển nguyên liệu thức ăn cho chăn nuôi bò sữa trên các đồng cỏ cải
tiến và nông phụ phẩm.
Quyết định 1506/QĐ-BNN-KHCN (ngày 15/5/2008): Về ban hành quy trình thực
hành chăn nuôi tốt cho chăn nuôi lợn an toàn (VIET GAHP).
Quyết định này khuyến khích ch
ăn nuôi lợn an toàn nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro
từ nguy cơ ô nhiễm ảnh hưởng tới chất lượng thịt lợn, môi trường, sức khỏe và độ an
toàn cho người tiêu dùng. Đồng thời quyết định này cũng cụ thể hóa các bước để có
sản phẩm chất lượng cao, bao gồm lựa chọn địa điểm xây dựng chuồng trại và thiết bị
chăn nuôi và nuôi con giố
ng; quản lý thức ăn và thuốc thú y; quản lý dịch bệnh; quản
lý chất thải và bảo vệ môi trường; và quản lý nhân sự.
Quyết định 1504/QĐ-BNN-KHCN (ngày 15/5/2008): Về ban hành quy trình thực
hành chăn nuôi tốt cho chăn nuôi gia cầm an toàn (VIET GAHP).
Quyết định này quy định hướng dẫn tương tự cho chăn nuôi gia cầm.
Quyết định 10/2008/QĐ-TTg (ngày 16/1/2008): Về chiến lược phát triển chăn
nuôi đến năm 2020.
Theo quyết định này, từ nă
m 2008 đến 2020, ngành chăn nuôi sẽ tập trung phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa, từng bước đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu;
tổ chức lại ngành chăn nuôi theo hướng sản xuất gắn với thị trường, đảm bảo vệ sinh
thú y, bảo vệ môi trường và cải thiện điều kiện an sinh xã hội để nâng cao hiệu quả,
chất lượng, hiệu suất và an toàn thực phẩm; phát tri
ển sản phẩm chăn nuôi có lợi thế
và khả năng cạnh tranh như lợn, gia cầm, bò và đặc sản vùng; khuyến khích các tổ
chức và cá nhân đầu tư phát triển các hoạt động chăn nuôi theo hướng trang trại công
nghiệp.

2.1.2 Chính sách về kiểm soát đầu vào
Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam chủ yếu phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu
nguyên liệu thô để sản xuất thức ă
n công nghiệp. Để kiểm soát đầu vào, MARD đã
đưa ra 7 quyết định liên quan tới “Danh mục thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thức ăn
chăn nuôi được phép nhập khẩu vào Việt Nam”, bao gồm:
- Quyết định 35/2000/QĐ-BNN-KNKL (ngày 05/04/2000)
- Quyết định 55/2001/QĐ-BNN/KNKL (ngày 11/05/2001)
- Quyết định 80/2002/QĐ-BNN (ngày 06/09/2002)
- Quyết định 41/2004/QĐ-BNN (ngày 30/08/2004)
- Quyết định 01/2006/QĐ-BNN (ngày 06/01/2006)
- Quyết định 65/2007/QĐ-BNN (ngày 03/07/2007)
-
Quyết định 88/2008/QĐ-BNN (ngày 22/08/2008)
Các quyết định này quy định tên cụ thể cũng như các yêu cầu kỹ thuật (độ ẩm, tỷ lệ
đạm, độc tố ) cho từng loại thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thô nhập khẩu vào Việt
Nam hàng năm.
Quyết định số 83/2008/QĐ-BTC ngày 3/10/2008 xem xét mức thuế nhập khẩu thức
ăn chăn nuôi và một số nguyên liệu thô để sản xuất thứ
c ăn chăn nuôi.

4
Thông tư số 77/2009/TT-BTC ngày 14/4/2009 quy định điều chỉnh mức thuế nhập
khẩu ưu đãi đối với một số nguyên liệu thô và thức ăn chăn nuôi. Theo thông tư này,
mức thuế đối với các mặt hàng nguyên liệu sử dụng để sản xuất thức ăn hỗn hợp cho
chăn nuôi lợn và gia cầm được điều chỉnh giảm từ 5% xuống 4% và từ 5% xu
ống còn
0% đối với thức ăn hỗn hợp cho tôm và các loại khác. Ngoài ra, thuế nhập khẩu đối
với một số nguyên liệu thô để sản xuất thức ăn chăn nuôi như kiều mạch, đã được
giảm xuống mức 3% thay vì 5% trước đây, thuế nhập khẩu đối với hạt kê giảm từ 5%

xuống 0%. Thuế nhập khẩu cũng được điều chỉ
nh giảm xuống 0% đối với nhóm thức
ăn bổ sung và chất phụ gia.
2.1.3 Chính sách về kiểm soát chất lượng đầu ra
Quyết định 104/2001/QĐ-BNN (ngày 31/10//2001): về công bố danh mục quy
định kỹ thuật tạm thời đối với thức ăn chăn nuôi.
Quyết định này quy định mức tối thiểu và tối đa các chất (Aflotoxin, Ca, P, Fe,
Vitamin ) trong 1kg thức ăn chăn nuôi cho từng loại vật nuôi là gia cầm, lợn và bò.
Quy
ết định 113/2001/QĐ-BNN (ngày 28/10/2001): về công bố danh mục tiêu chí
kỹ thuật tối thiểu cần thiết làm tiêu chuẩn cho sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Quyết định này xác định 15 tiêu chí (như độ ẩm, hàm lượng đạm, năng lượng, Ca,
Aflotoxin, hormones ) đối với 6 loại sản phẩm thức ăn chăn nuôi bao gồm: thức ăn
hỗn hợp, thức ăn đậm đặc, khoáng vitamin, bổ sung khoáng, hóc môn và chất phụ gia.
Quy
ết định 54/2002/QĐ-BNN (ngày 20/6/2002): về việc cấm sản xuất, nhập khẩu,
vận chuyển và sử dụng các loại hóa chất nhất định trong sản xuất và kinh doanh
thức ăn chăn nuôi.
Quyết định xác định 18 loại hóa chất bị cấm trong sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Quyết định 3762/QĐ-BNN-CN (ngày 28/11/2008): về quản lý melamine trong
chăn nuôi vật nuôi và thủy sản.
Quyết định cấm nhậ
p khẩu, sản xuất và sử dụng nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi bị
nhiễm melamine. Mức độ melamine được chấp nhận là dưới 2,5mg/kg (≤ 2,5ppm).
Ngoài ra, quyết định cũng đưa ra các bước để xác định melamine trong nguyên liệu và
thức ăn chăn nuôi.
2.2 Các cơ quan chịu trách nhiệm ban hành và giám sát chính sách chăn nuôi
Nhiều cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm đối với các khía cạnh khác nhau của chính
sách chăn nuôi của chính phủ Việt Nam. Các cơ quan khác nhau có trách nhi
ệm trong

các lĩnh vực khác nhau của chính sách chăn nuôi như sau:

Xây dựng chính sách
Chỉ có các Cục do MARD quản lý trực tiếp tham gia vào việc xây dựng chính sách.
Công việc xây dựng chính sách chăn nuôi là trách nhiệm của:
• Cục Chăn nuôi,
• Cục Thú y,
• Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn, và
• Cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản và nghề muối

Thông qua chính sách
Tạo điều kiện cho việc thông qua chính sách là trách nhiệm của:

Cục Chăn nuôi,
• Cục Thú y,

5
• Vụ Kế hoạch,
• Vụ Tài chính,
• Bộ Tài chính,
• Bộ Kế hoạch và đầu tư,
• Viện Chăn nuôi quốc gia (NIAH), và
• Viện Thú y quốc gia.

Thực hiện chính sách
Ngược lại với việc tham gia phối hợp của nhiều Bộ và Cục để thúc đẩy cho quá trình
thông qua chính sách chăn nuôi, trách nhiệm duy nhất trong việc giám sát thực hiện
chính sách chăn nuôi thuộc về S
ở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở cấp tỉnh.


Đánh giá chính sách
Đánh giá chính sách chăn nuôi là trách nhiệm của:
• Các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
• Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn,
• Viện Chăn nuôi quốc gia, và
• Viện Thú y quốc gia.

3. Vai trò của IPSARD trong việc rà soát/xây dựng chính sách cho
ngành chăn nuôi
Như đã đề cập ở phần trước, IPSARD/CAP chỉ có vai trò “chính thức” trong việc tư
vấn/khuyến nghị chính sách và “đánh giá chính sách” cho ngành chăn nuôi. Việc xây
dựng, thông qua và thực hiện chính sách là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
khác. Trong khuôn khổ dự án CARD 030/06 VIE, các thành viên của nhóm dự án đã
thực hiện các cuộc phỏng vấn trực tiếp không chính thức với nhiều cán bộ lâu năm
của IPSARD về đầu vào của IPSARD trong chính sách, các vấn đề về
sự tham gia của
khu vực tư nhân vào chính sách và sự thỏa mãn với sự tham gia chính sách hiện nay.
Những vấn đề này được thảo luận dựa trên những câu hỏi được đưa ra để tìm hiểu vai
trò của IPSARD/CAP trong các lĩnh vực chính sách này.
3.1 Vai trò và các thủ tục chính sách
Câu hỏi được nêu ra thảo luận là: Trung tâm Tư vấn chính sách nông nghiệp (CAP) có
đưa ra lời tư vấn chính sách trước những câu hỏi hay định hướng của chính phủ - hay
CAP/IPSARD có đề xướ
ng tư vấn chính sách cho chính phủ đối với những vấn đề họ
thấy quan trọng hay không? Tỷ lệ % các tư vấn chính sách do IPSARD/CAP đề
xướng.
Các câu trả lời cho thấy chức năng chính của IPSARD là tư vấn những vấn đề liên
quan đến chính sách mang tính chất dài hạn, chiến lược, liên vùng, liên chính phủ;
Những vấn đề ngắn hạn, mang tính kỹ thuật không thuộc vai trò của IPSARD. Hiện
nay MARD vẫn tập trung vào các vấ

n đề kỹ thuật (thuộc về trách nhiệm của các Cục,
vụ chuyên ngành như Cục trồng trọt, Cục chăn nuôi…) nhiều hơn là vấn đề chiến
lược.
Một cán bộ lâu năm của IPSARD đã mô tả trình tự chính thức tạo lập bối cảnh về vai
trò của IPSARD trong tư vấn chính sách. Đối với các vấn đề liên quan đến nông

6
nghiệp nông thôn, MARD sẽ có các công văn chính thức nêu rõ mục đích, yêu cầu và
nội dung công việc rồi chuyển xuống văn phòng “phụ trách” việc phân loại. Theo đó,
IPSARD sẽ nhận công việc nếu có liên quan. Tuy nhiên, IPSARD có thể từ chối trong
trường hợp không có khả năng (về nguồn lực hoặc thông tin) để đảm nhận nhiệm vụ
được giao.
CAP/IPSARD chủ yếu làm tư vấn chính sách cho những câu hỏi của MARD trong khi
rất ít tư
vấn về những vấn đề họ cho là quan trọng. Do đó, đóng góp trong việc tư vấn
chính sách do IPSARD khởi xướng chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng số chính sách tư
vấn cho Bộ. Tuy nhiên, nếu tính riêng trong lĩnh vực tư vấn về chiến lược thì Viện
đóng góp khoảng 40%. Đôi khi, nếu thấy có những vấn đề quan trọng cần đề xuất lên
các cơ quan cao hơn để có chính sách phản ứng kị
p thời, có thể thông qua lãnh đạo
Viện. Tuy nhiên trường hợp này rất ít xảy ra.

Các cán bộ khác của IPSARD đề cập về các cách thức họ tham gia và đưa ra tư vấn
chính sách trong bối cảnh môi trường công việc.
• IPSARD/CAP tham gia một số nguyên cứu, với các dự án khác nhau do
MARD, Ngân hàng Thế giới, ACIAR, FAO (PPLPI – Sáng kiến Chính sách
Chăn nuôi vì người nghèo), chương trình CARD thuộc AusAID và quỹ Ford
Foundation tài trợ. Nghiên cứu này cung cấp thông tin thường có ngụ ý chính
sách.
• Một số cán bộ lâu n

ăm của IPSARD/CAP là thành viên của nhóm Tư vấn
Chính sách – nơi thảo luận và cung cấp đầu vào trong 3 lĩnh vực chiến lược
chính sách chính là nông nghiệp, nông dân và phát triển nông thôn. IPSARD
hỗ trợ đối thoại chính sách trong các lĩnh vực này. Các ví dụ về trang web hỗ
trợ cho đối thoại chính sách là: www.vietpigs.com.vn

/> . Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn nói chuyện trực tiếp với Viện trưởng của IPSARD và nhóm Tư
vấn chính sách (PAG).
• IPSARD/CAP viết tóm lược chính sách dựa trên thông tin từ các kết quả
nghiên cứu và sự tham gia của họ vào nhóm tư vấn chính sách.
3.2 Vai trò của khu vực tư nhân trong tư vấn chính sách
Nhiều câu hỏi đã được thảo luận để tìm hiểu vấn đề này. Câu hỏi thảo luận đầu tiên là:
IPSARD/CAP thu hút sự
tham gia của khu vực tư nhân trong quá trình xây dựng tư
vấn chính sách như thế nào? Công việc chuẩn bị này là chính thức hay phi chính
thức? Hãy đưa ra một số ví dụ về sự gắn kết hiện nay với khu vực tư nhân.

Một cán bộ lâu năm đưa ra câu trả lời chính thức cho câu hỏi này, rằng IPSARD chịu
trách nhiệm về các vấn đề chiến lược dài hạn nên không có sự tham gia đóng góp ý
kiến của khu vực t
ư nhân trong quá trình tư vấn chính sách. Nguyên nhân chính là các
chính sách/chiến lược được coi là tài liệu mật trong quá trình xây dựng, vì ảnh hưởng
đến lợi ích và quyền lợi của rất nhiều bên liên quan và ý kiến tham khảo có thể cản trở
việc hình thành chính sách. Do đó, việc thảo luận và đóng góp ý kiến chỉ diễn ra vào
giai đoạn sau, khi chính sách đã tương đối hoàn thành, và ý kiến đóng góp của các bên
liên quan chủ yếu để tham khảo và có thể chỉnh sửa đôi chút trong chính sách. Việ
c

7

tham khảo ý kiến của khu vực tư nhân thường chỉ liên quan và phù hợp hơn với các
chính sách ngắn hạn và các chính sách này không thuộc phạm vi trách nhiệm của
IPSARD.

Một cán bộ khác nhận xét rằng mặc dù lý do nói trên là đúng, song đó mới chỉ là một
lý do. Có những nguyên nhân khác liên quan tới cách thực hiện xây dựng chính sách:
tức là sử dụng cách tiếp cận “từ trên xuống” hoặc “tại chỗ” mà thiếu sự tham gia của
khu vực tư
nhân.

Các cán bộ trong IPSARD đề cập một số cách thức mà IPSARD/CAP lấy ý kiến của
khu vực tư nhân để đưa vào trong các tư vấn chính sách của mình. Giới doanh nhân
đôi lúc được mời tham gia các cuộc nói chuyện chính thức và cả không chính thức về
các vấn đề chính sách. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp các doanh nghiệp lớn
thường chịu ảnh hưởng bởi chính sách nhiều hơn. Các đại biểu của khu vự
c tư nhân,
cả ở cấp quốc gia và cấp tỉnh, cũng được mời đến hội thảo để thảo luận các kết quả
nghiên cứu và vấn đề chính sách. Ví dụ, tại cuộc hội thảo các bên liên quan tổ chức tại
TP. Hồ Chí Minh vào tháng 1/2010 của dự án này, các đại biểu của khu vực tư nhân
đã thể hiện nhiều quan điểm mạnh liên quan tới chính sách cho ngành thức ăn chăn
nuôi. M
ột số quan điểm này đã được đưa vào các báo cáo cuối cùng.

Một ví dụ về sự tham gia của khu vực tư nhân trong chính sách chăn nuôi đã được đề
cập trong Sáng kiến chính sách chăn nuôi vì người nghèo (PPLPI) (xem Vũ 2003 để
tham khảo phần thảo luận về các vấn đề chính sách liên quan tới Sáng kiến này). Một
ví dụ khác nằm trong một nghiên cứu của IFPRI về lựa chọn chính sách cho ngành
chăn nuôi (IFPRI, 2000). Các đại biểu của khu vự
c tư nhân tham gia vào các cuộc hội
thảo và thảo luận. Một khía cạnh nữa là ảnh hưởng của công ty sản xuất thức ăn chăn

nuôi lớn nước ngoài là CP thông qua các ngân hàng. Nông dân có hợp đồng với CP
được tiếp cận nhiều hơn với tín dụng, vì CP được coi là nơi tạo ra an toàn vốn.

Một ví dụ khác của nỗ lực đưa khu vực tư nhân tham gia vào chính sách là thông qua
Chính sách liên kết 4 nhà (trong đó 4 tác nhân là nhà nước – nông dân – nhà khoa học
– doanh nghiệp) thông qua Quyết
định 80 (Quyết định số 80/2002/QĐ-BNN, ra ngày
6/9/2002). Quyết định này khuyến khích hình thức hợp đồng nông sản trong sản xuất,
chế biến và tiêu thụ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các tác nhân đã thể hiện sự mập mờ
và có những khó khăn trong việc khuyến khích hợp đồng nông sản (ví dụ hợp đồng bị
phá vỡ do cả doanh nghiệp và nông dân, cơ chế tham gia của nhà khoa học không rõ
ràng, khó khăn về vốn vay). Một s
ố website thúc đẩy thực hiện chính sách này hiện
còn tồn tại ở cấp tỉnh, ví dụ www.lienket.4nha.vn


Một số cán bộ IPSARD không muốn đưa ra bình luận về các phương thức có thể qua
đó khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn vào quá trình tư vấn chính sách; tuy nhiên một
số cán bộ khác đã thảo luận những câu hỏi này. Các câu hỏi thảo luận là:
IPSARD/CAP có cho rằng đã có sự tham gia đủ của khu vực tư nhân vào quá trình tư
vấn chính sách cho chính phủ Việt Nam không? Nếu không, cần phải xây dựng những
chiến lược nào để cả
i thiện sự tham gia của khu vực tư nhân? và Các cán bộ lâu năm
của IPSARD/CAP có nghĩ rằng khu vực tư nhân có vai trò tiềm năng trở thành các
“nhóm vận động hành lang” ở Việt Nam để đóng góp vào quá trình lập chính sách
không?

×