Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Bài thu hoạch diễn án hình sự hồ sơ số 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.98 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Môn
: Hình sự cơ bản 03
Mã hồ sơ : HS 07
Diễn lần :
Ngày diễn : 28/10/2023
Giáo viên hướng dẫn:

Họ và tên
: Nguyễn Hồng Quyền
Lớp
: 3 Chung Khóa 07
Số báo danh : 60

TP Hồ Chí Minh, ngày tháng
NỘI DUNG

năm


I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Xác định tư cách đương sự trong vụ án
a. Bị cáo:
- Lê Minh, sinh năm 1984
- Đỗ Văn Tùng, sinh năm 1988
- Trần Hồng Đức, sinh năm 1980


- Nguyễn Thị Hồng, sinh năm 2001
b. Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thị Hồng:
- Bà Phạm Thị Tuyết Mai, sinh năm 1984 là mẹ của bị cáo
2. Tóm tắt nội dung vụ án

Vào khoảng 01 giờ ngày 16/3/2018, đội Cảnh sát điều tra tội phạm ma
túy Công an Quận 7 kết hợp với Cơng an phường Bình Thuận, Quận 7 kiểm
tra phịng số 101 khách sạn Khánh Ngọc (30A đường số 1, phường Bình
Thuận, Quận 7) phát hiện Đỗ Văn Tùng, Phạm Ngọc Thanh, Võ Quý Hiếu,
Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp, thu giữ 20
gói ma túy tổng hợp (Methamphetamine) có khối lượng 4,0852 gam; 01
máy điện thoại hiệu Nokia; số tiền 3.500.000 đồng và một số dụng cụ để sử
dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Đỗ Văn Tùng, Tùng khai mua của Lê Minh vào các
ngày 12/3/2018 và ngày 15/3/2018. Mỗi lần Tùng mua ½ hộp 5 về phân ra
từng gói nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán cho các đối
tượng nghiện. Tại cùng thời điểm này, Lê Minh đang thuê phòng 303 tại
khách sạn Khánh Ngọc (cùng địa chỉ) nên đã mời Minh về trụ sở làm rõ.
Mở rộng điều tra đến khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/3/2018, tại ngã ba
đường Phan Huy Thực và đường Lê Văn Lương phường Tân Kiểng, Quận
7, Đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức đang được Võ Cuốc Cường dùng
Đức xe NOUVO, biển số 54Z4-2723 chở Đức mang ma túy đi bán cho các
đối tượng nghiện (Cường không biết Đức đi bán ma túy) nên mời Đức và
Cường về trụ sở Công an phường làm việc. Đội công tác thu giữ của Đức
01 gói ma túy tổng hợp (MA) trọng lượng 0,0852 gam; 01 điện thoại di
động; số tiền 300.000 đồng và 01 xe gắn máy NOUVO, biển số 54Z4-2723.
Trong q trình làm việc tại trụ sở Cơng an phường Phước Kiểng, Quận
7 thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Đức để mua ma túy nên bị đội
cơng tác mời về làm việc gồm Phạm Văn Chính (Ty), Phạm Quốc Hiệp.
Tiếp tục mở rộng điều tra đến khoảng 0 giờ 30 phút ngày 17/3/2018, tại

trước khách sạn Lan Anh (A77 KDC Kim Sơn, phường Tân Phong, Quận
7). Đội ma túy Công an Quận 7 phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của
Nguyễn Văn Hoa mang ma túy đi bán. Đội ma túy thu giữ của Nguyễn Thị
Hồng 01 gói ma túy tổng hợp (Methamphetamine), trọng lượng 2,3947
gam, 02 điện thoại di động và 600.000 đồng. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an Quận 7, Nguyễn Thị Hồng khai nhận được Dũng (không rõ nhân
thân lai lịch) nhờ đem ma túy đi bán 02 lần. Ngoài việc bán ma túy cho
Trần Hồng Đức, Hồng còn 02 lần bán ma túy cho một đối tượng khác


(không rõ lai lịch) trên địa bàn Quận 7. Việc Hồng bán ma túy cho Dũng
được Dũng cho tiền 02 lần, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Hồng
tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.
Đối với Lê Minh ngoài việc bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng, Minh còn bán
ma túy của Thúng và Minh Bê (không xác định được nhân thân và lai lịch)
tổng cộng 03 lần.
- Lần thứ nhất vào ngày 02/3/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc (30A
Đường số 1, phường Bình Thuận, Quận 7), Lê Minh bán ma túy cho Trần
Hồng Đức ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Đức trả trước
1.000.000 đồng và còn thiếu 2.500.000 đồng.
- Lần thứ hai, vào ngày 10/3/2018, tại quán café Điểm Hẹn Quận 7, Lê
Minh bán cho Lê Hữu Thành 01 hộp 10 ma túy tổng hợp với giá 12.200.000
đồng. Minh nói Đỗ Văn Tùng đi qua đường Tôn Đản (Quận 4) rồi lấy tiền
đem về đưa cho Minh.
- Lần thứ ba, vào ngày 12/3/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc Lê Minh
đưa cho Trần Hồng Đức ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng,
Đức chưa trả tiền cho Minh.
Đối với Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Minh 03 lần, riêng lần mua
10 hộp ma túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không rõ lai lịch) với
giá 12.800.000 đồng. Đối với Trần Hồng Đức thu lợi bất chính số tiền

600.000 đồng, cịn 02 lần Đức mua của Lê Minh ½ hộp năm ma túy tổng
hợp và mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000đ đến
300.000 đồng và cất giấu sẵn trong người, khi nào có các đối tượng nghiện
cần mua lẻ thì điện thoại cho Đức theo số 0903536313, Đức sẽ mang đi bán
cho các đối tượng nghiện. Các đối tượng nghiện thường mua ma túy của
Đức gồm: Phạm Văn Chính (Ty), Phạm Quốc Hiệp, Nguyễn Văn Lành và
Võ Quốc Cường và 05 đối tượng khác không biết rõ tên và địa chỉ. Địa
điểm Đức thường bán ma túy là những địa bàn vắng người trên Quận 4 và
Quận 7.
Đối với Trần Hồng Đức ngoài việc mua ma túy của Lê Minh, Đức cịn
mua ma túy của Dũng (khơng xác định được lai lịch) được 02 lần. Lần 01
cách ngày Đức bị Công an Quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày
17/3/2018. Mỗi lần Đức mua ma túy của Dũng thì Dũng khơng trực tiếp
mang đi bán mà nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán cho Dũng. Trong thời
gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy (kể từ ngày 17/02/2018
đến ngày 17/3/2018), tổng số tiền Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng,
số tiền này Đức đã tiêu xài và mua ma túy sử dụng hết.
Ngày 22/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 ban hành Cáo trạng truy
tố Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng về tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251
BLHS năm 2015.


II. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
1. THẨM PHÁN:
1.1. KẾ HOẠCH XÉT HỎI:
a. Hỏi bị cáo Trần Hồng Đức:
- Bị cáo có sử dụng trái phép chất ma túy hay không?
- Vào khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/3/2018, bị cáo đi đâu, làm gì?
- Tại thời điểm bị Cơng an kiểm tra, bị cáo đã bán được ma túy chưa?

- Bị cáo đi bán ma túy cho ai?
- Bị cáo đi cùng với ai? Đi bằng phương tiện gì? Của ai?
- Cường có biết bị cáo đi bán ma túy không?
- Bị cáo bắt đầu bán ma túy từ thời điểm nào?
- Nguồn ma túy bị cáo sử dụng và bán ở đâu mà có? Nếu mua thì mua của ai? Ở
đâu? Cách thức liên lạc như thế nào?
- Bị cáo mua ma túy của Lê Minh mấy lần? Mỗi lần mua bao nhiêu? Bị cáo có nhớ
đã mua của Minh tổng bao nhiêu tiền không?
- Sau khi mua ma túy, bị cáo bán cho các đối tượng nghiện bằng cách nào?
- Có những ai thường mua ma túy của bị cáo?
- Các đối tượng nghiện liên lạc với bị cáo bằng cách nào?
- Bị cáo đã bán ma túy cho các đối tượng nghiện được bao nhiêu lần?
- Ngồi mua ma túy của Lê Minh, bị cáo cịn mua ma túy của ai?
- Dũng là ai, bị cáo quen Dũng như thế nào? Bị cáo mua ma túy của Dũng được
mấy lần?
- Dũng có trực tiếp giao ma túy cho bị cáo không? Ai giao ma túy cho bị cáo?
- Tổng số tiền bị cáo thu lợi từ việc mua ma túy kể từ ngày 17/02/2018 đến nay là
bao nhiêu?
- Bị cáo sử dụng số tiền này vào việc gì?
- Khi bị bắt, Cơng an thu giữ tài sản gì của bị cáo?
- Điện thoại này là của ai? Bị cáo sử dụng vào mục đích gì?
- Chiếc xe máy bị thu giữ là của ai?
b. Hỏi bị cáo Đỗ Văn Tùng:
- Ngày 16/3/2018, Minh có nhờ bị cáo đi lấy số tiền 12.200.000 đồng không?
- Bị cáo có biết nguồn gốc của số tiền 12.200.000 đồng này không?
- Vào khoảng 01 giờ ngày 16/3/2018 bị cáo đi đâu, làm gì?
- Bị cáo ở khách sạn cùng với những ai? Có mối quan hệ như thế nào với bị cáo?
- Khi Công an tiến hành kiểm tra phát hiện gì?
- Số ma túy này ở đâu bị cáo có? Bị cáo sử dụng vào mục đích gì?
- Tại sao tại phiên tòa ngày 19/9/2018 và tại Cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận số

ma túy bị thu giữ tại khách sạn Khánh Ngọc không phải do bị cáo mua của Lê Minh.
Bị cáo xác nhận rõ lời khai nào của bị cáo là đúng?
- Bị cáo mua ma túy của Lê Minh mấy lần? Mua bao nhiêu ma túy?
- Bị cáo có quen biết với Lê Minh trước đó khơng?
- Bị cáo bán ma túy cho các đối tượng nghiện bằng cách nào? Bị cáo bán được mấy
lần? Mỗi lần bán bao nhiêu?
- Bị cáo bắt đầu bán ma túy từ thời gian nào? Thu lợi bao nhiêu?
- Điện thoại bị cáo sử dụng để liên lạc với con nghiện là điện thoại gì? Của ai?
- Khi bị bắt, Cơng an thu giữ gì của bị cáo?
- Số tiền này là của ai? Bị cáo sử dụng vào mục đích gì?
- Xe gắn máy bị thu giữ là của ai? Bị cáo có nói mượn xe để đi bán ma túy không?


c. Hỏi bị cáo Lê Minh:
- Bị có Minh có nghiệm ma túy không?
- Số ma túy bị cáo Minh từ đâu mà có?
- Bị cáo Minh có nghe rõ lời khai của các bị cáo Đức và Tùng không?
- Bị cáo có thống nhất về lời khai của Đức và Tùng là mua ma túy ở chỗ bị cáo
không?
- Bị cáo có thống nhất về số lần bị cáo bán ma túy cho Đức và Tùng không?
- Tại sao bị cáo khai nhận trước đây tại CQĐT bị cáo bị công an đánh nên mới khai
nhận bán ma túy cho Đức và Tùng? Ai đánh bị cáo có nhớ không?
- Bị cáo xác nhận lại lời khai nào của bị cáo là đúng?
- Bị cáo bị Công an bắt khi nào? Tại đâu?
- Bị cáo bắt đầu bán ma túy từ thời điểm nào?
- Ngồi Đức và Tùng thì bị cáo còn bán ma túy cho những ai?
- Số tiền bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy là bao nhiêu?
- Số ma túy này bị cáo lấy ở đâu?
- Khi bị bắt, Công an thu giữ tài sản gì của bị cáo?
- Điện thoại này là của ai? Bị cáo sử dụng vào việc gì?

d. Hỏi bị cáo Nguyễn Thị Hồng:
- Bị cáo có nghe rõ lời khai của bị cáo Đức khơng?
- Bị cáo có ý kiến gì về nội dung Đức khai mua ma túy của bị cáo không?
- Bị cáo xác nhận đã bán ma túy cho Đức bao nhiêu lần?
- Bị cáo có quen bị cáo Đức trước đó khơng?
- Số ma túy trên ở đâu mà bị cáo có?
- Bị cáo có quan hệ gì với Dũng? Bị cáo liên lạc với Dũng bằng cách nào? Gặp tại
đâu?
- Ngoài bán ma túy cho Đức, bị cáo cịn bán cho ai nữa khơng? Bao nhiêu lần?
- Mỗi lần bán ma túy, Dũng cho bị cáo bao nhiêu?
- Tổng số tiền bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy là bao nhiêu? Bị cáo dùng số tiền đó
vào việc gì?
- Khi bị cơng an bắt, bị cáo đi cùng với ai? Làm gì?
- Cơng an có thu giữ tài sản gì của bị cáo không? Điện thoại là của ai? Sử dụng vào
việc gì?
1.2. NGHỊ ÁN:
- Thẩm phán và HTND tiến hành nghị án, thảo luận các vấn đề cần giải quyết.
- Tuyên án: Chủ tọa đọc bản án đã thông qua tại phịng nghị án, giải thích việc chấp
hành bản án và quyền kháng cáo
1.3. DỰ THẢO BẢN ÁN SƠ THẨM:


Bản
số: .../......./HS-ST
TỊA
ÁNánNHÂN
DÂN QUẬN 7
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngày: ...-...-......


CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Ơng Nguyễn Thanh Dũng
Các Hội thẩm nhân dân:
1/ Bà Trần Thị Phương Quỳnh
2/ Ơng Nguyễn Hồng Quyền
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Truyền
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn tham gia phiên tịa: Ơng
Nguyễn Văn Cầu - Kiểm sát viên.
Trong ngày 19 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh xét xử sơ thẩm cơng khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2018/TLST-HS ngày
22 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2018/QĐXXST-HS ngày 29
tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Lê Minh, sinh năm 1975 tại Cần Thơ; nơi cư trú: 211D/7 Bến Ba Đình, Phường 8,
Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Khơng; trình độ văn hố: 9/12; Dân tộc:
Kinh; Giới tính: Nam; Tơn giáo: Khơng; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Hy Cầu và bà
Nguyễn Thị Hồng Lý; Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Khơng.
Bị bắt, tạm giam ngày 17/3/2018. (Có mặt)
2. Đỗ Văn Tùng, sinh ngày 02 tháng 12 năm 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi
cư trú: 92/2 Khu phố 3, phường Tân Thuận Đơng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh;
nghề nghiệp: Khơng; trình độ văn hố: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang Thái (đã chết) và bà Trương Thị Kim
Sa; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Khơng.
Bị bắt, tạm giam ngày 16/3/2018. (Có mặt)



3. Trần Hồng Đức (Mạnh Đình), sinh ngày 17 tháng 01 năm 1980 tại Thành phố Hồ
Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 266/9 Tôn Đản, Phường 4, Quận 4, Thành
phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 334/3 Tơn Đản, Phường 4, Quận 4, Thành phố Hồ Chí
Minh; nghề nghiệp: Khơng; trình độ văn hố: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tơn
giáo: Khơng; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Hạnh (đã chết) và bà Tống Thị
Nhung; có 01 con là Tồng Thành Tài, sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Ngày 25/4/2012 bị Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về
tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án số 534/2012/HSST ngày 21/8/2012, Trần Hồng Đức
kháng cáo xin giảm án. Ngày 21/8/2012 Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt Trần Hồng Đức 03 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”
theo Bản án 1168/2012/HSPT ngày 21/10/2012;
- Ngày 18/7/2012 Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 02 năm tù về tội “Đánh bạc” theo
Bản án số 43/HSST ngày 18/7/2012.
Bị bắt, tạm giam ngày 16/3/2018. (Có mặt)
4. Nguyễn Thị Hồng, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2001 tại Khánh Hòa; nơi đăng ký
hộ khẩu thường trú: Tân Mỹ, xã Ninh Xuân, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; nơi cư
trú: 43/5 Đường 18, Khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí
Minh nghề nghiệp: Khơng; trình độ văn hố 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tơn giáo:
Khơng; quốc tịch: Việt Nam; con ơng Nguyễn Tâm và bà Phạm Thị Tuyết Mai; chưa có
chồng, con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt, tạm giam từ ngày 17/3/2018 đến ngày 29/5/2018. Áp dụng biện pháp ngăn
chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trương Thị Kim Sa, sinh năm 1959
Nơi cư trú: 92/2 Khu phố 3, phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có đơn xin vắng mặt)
2. Ơng Võ Quốc Cường, sinh năm 1985

Nơi cư trú: 450/110 Đoàn Văn Bơ, Phường 14, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có đơn xin vắng mặt)
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Phạm Thị Tuyết Mai, sinh năm 1984; nơi
cư trú: Tân Mỹ, xã Ninh Xuân, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, là mẹ ruột của bị cáo
Nguyễn Thị Hồng (Có đơn xin vắng mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Tấn Lộc, sinh năm 1979.


Là Luật sư Văn phòng Luật sư ĐTC trực thuộc đồn Luật sư TP.Hồ Chí Minh (Có
mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tịa, nội dung vụ án được
tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ ngày 16/3/2018, đội Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an
Quận 7 kết hợp với Cơng an phường Bình Thuận, Quận 7 kiểm tra phòng số 101 khách
sạn Khánh Ngọc (30A đường số 1, phường Bình Thuận, Quận 7) phát hiện Đỗ Văn Tùng,
Phạm Ngọc Thanh, Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép chất ma túy
tổng hợp, thu giữ 20 gói ma túy tổng hợp; 01 máy điện thoại hiệu Nokia; số tiền
3.500.000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Đỗ Văn Tùng, Tùng khai mua của Lê Minh vào các ngày 12/3/2018
và ngày 15/3/2018. Mỗi lần Tùng mua ½ hộp 5 về phân ra từng gói nhỏ có giá từ 200.000
đồng đến 300.000 đồng để bán cho các đối tượng nghiện. Tại cùng thời điểm này, Lê
Minh đang thuê phòng 303 tại khách sạn Khánh Ngọc (cùng địa chỉ) nên đã mời Minh về
trụ sở làm rõ và mở rộng điều tra.
Đến khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/3/2018, Đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức
đang được Võ Cuốc Cường dùng xe NOUVO, biển số 54Z4-2723 chở Đức mang ma túy
đi bán cho các đối tượng nghiện (Cường không biết Đức đi bán ma túy) nên mời Đức và
Cường về trụ sở Công an phường làm việc. Đội cơng tác thu giữ của Trần Hồng Đức 01
gói ma túy tổng hợp; 01 điện thoại di động; số tiền 300.000 đồng và 01 xe gắn máy
NOUVO, biển số 54Z4-2723.

Trong q trình làm việc tại trụ sở Cơng an phường Phước Kiểng, Quận 7 thì có các
đối tượng nghiện gọi điện cho Đức để mua ma túy nên bị đội cơng tác mời về làm việc
gồm Phạm Văn Chính (Ty), Phạm Quốc Hiệp.
Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 17/3/2018, tại trước khách sạn Lan Anh (A77 KDC Kim
Sơn, phường Tân Phong, Quận 7). Đội ma túy Công an Quận 7 phát hiện Nguyễn Thị
Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa mang ma túy đi bán. Đội ma túy thu giữ của
Nguyễn Thị Hồng 01 gói ma túy tổng hợp 02 điện thoại di động và số tiền 600.000 đồng.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Nguyễn Thị Hồng khai nhận đã được
Dũng (không rõ nhân thân, lai lịch) nhờ đem ma túy đi bán 02 lần. Ngoài việc bán ma túy
cho Trần Hồng Đức, Hồng còn 01 lần bán ma túy cho một đối tượng khác (không rõ lai
lịch) trên địa bàn Quận 7. Việc Hồng bán ma túy cho Dũng được Dũng cho tiền 02 lần,
tổng cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Hồng tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng
hết.
Tại Kết luận giám định số 473/KLGĐ-H ngày 04/4/2018 của Phịng kỹ thuật hình sự
- Cơng an TP.HCM kết luận: 01gói nilon chứa 20 gói tinh thể khơng màu được niêm


phong bên ngồi có chữ ký ghi tên Đỗ Văn Tùng và hình dấu Cơng an phường Tân
Kiểng, Quận 7 là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 4,0852 gam.
Tại Kết luận giám định số 475/KLGĐ-H ngày 04/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự
- Cơng an TP.HCM kết luận: 01 gói nilon chứa tinh thể khơng màu được niêm phong bên
ngồi có chữ ký ghi tên Trần Hồng Đức và hình dấu Cơng an Phường Tân Kiểng, Quận 7
là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 0,0852 gam; 01 gói nilon chứa tinh thể
khơng màu được niêm phong bên ngồi có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Hồng và hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, QUận 7 là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng
2,3947 gam.
Đối với Lê Minh ngồi việc bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng, Minh còn bán ma túy của
Thúng và Minh Bê Đê (không xác định được nhân thân, lai lịch) tổng cộng 03 lần.
- Lần thứ nhất vào ngày 02/3/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc (30A Đường số 1,
phường Bình Thuận, Quận 7), Lê Minh bán ma túy cho Trần Hồng Đức ½ hộp năm ma túy

tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Đức trả trước 1.000.000 đồng và còn thiếu 2.500.000 đồng.
- Lần thứ hai, vào ngày 10/3/2018, tại quán café Điểm Hẹn Quận 7, Lê Minh bán cho
Lê Hữu Thành 01 hộp 10 ma túy tổng hợp với giá 12.200.000 đồng. Minh nói Đỗ Văn
Tùng đi qua đường Tôn Đản (Quận 4) rồi lấy tiền đem về đưa cho Minh.
- Lần thứ ba, vào ngày 12/3/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc Lê Minh đưa cho Trần
Hồng Đức ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Đức chưa trả tiền cho Minh.
Đối với Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Minh 03 lần, riêng lần mua 10 hộp ma
túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không rõ lai lịch) với giá 12.800.000 đồng. Đối
với Trần Hồng Đức thu lợi bất chính số tiền 600.000 đồng, cịn 02 lần Đức mua của Lê
Minh ½ hộp năm ma túy tổng hợp và mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ
200.000đ đến 300.000 đồng và cất giấu sẵn trong người, khi nào có các đối tượng nghiện
cần mua lẻ thì điện thoại cho Đức theo số 0903536313, Đức sẽ mang đi bán cho các đối
tượng nghiện. Các đối tượng nghiện thường mua ma túy của Đức gồm: Phạm Văn Chính
(Ty), Phạm Quốc Hiệp, Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc Cường và 05 đối tượng khác
không biết rõ tên và địa chỉ. Địa điểm Đức thường bán ma túy là những địa bàn vắng
người trên Quận 4 và Quận 7.
Đối với Trần Hồng Đức ngoài việc mua ma túy của Lê Minh, Đức cịn mua ma túy
của Dũng (khơng xác định được lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Đức bị Công an
Quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày 17/3/2018. Mỗi lần Đức mua ma túy của
Dũng thì Dũng khơng trực tiếp mang đi bán mà nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán cho
Dũng. Trong thời gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy (kể từ ngày
17/02/2018 đến ngày 17/3/2018), tổng số tiền Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng, số
tiền này Đức đã tiêu xài và mua ma túy sử dụng hết.


Đối với các đối tượng Thúng, Minh bê đê và Dũng do không xác định được nhân
thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 khơng có điều kiện xác minh
làm rõ. Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, nếu phát hiện được đối tượng sẽ đề
nghị làm rõ và xử lý sau.
Vật chứng của vụ án:

* Tạm giữ của Đỗ Văn Tùng:
- 20 gói nylon chứa tinh thể khơng màu là ma túy thu giữ của Đỗ Văn Tùng;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1-01màu sen, số Imel: 358603/04/00/08277/9 đã
qua sử dụng;
- Số tiền 3.500.000 đồng và một số dụng cụ dùng để sử dụng ma túy;
- 01 xe gắn máy hiệu WaveS màu đỏ, biển số 54Z6-0098, số khung: 5055490, số máy
1512399 đã qua sử dụng.
* Tạm giữ của Trần Hồng Đức:
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu giữ của Trần Hồng Đức;
- 01 điện thoại di động hiệu Mobel M520I màu đen trắng, số Imel: 357443043675785
đã qua sử dụng;
- Số tiền 300.000 đồng;
- 01 xe gắn máy hiệu Nouvo màu trắng đen, biển số 54Z4-2723, số khung 222166, số
máy 9878533 đã qua sử dụng;
* Tạm giữ của Nguyễn Thị Hồng:
- 01 gói nylon chứa tinh thể khơng màu là ma túy thu giữ của Nguyễn Thị Hồng;
- 01 điện thoại di động Samsung màu tím đen, số Imel: 352348/00/082877/9 đã qua
sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen 6300, số Imel: 357671/01/878497/2
đã qua sử dụng.
- Số tiền 600.000 đồng
* Tạm giữ của Lê Minh: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu trắng đen, số
Imel:354076046949200 đã qua sử dụng.
Tại bản cáo trạng số /Ct-VKS ngày 22/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 truy
tố các bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng về tội “Mua
bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa,
Các bị cáo Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng có lời khai phù hợp với lời khai tại
Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân các bị



cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải nên xin Tòa án giảm nhẹ
hình phạt cho các bị cáo. Đối với bị cáo Lê Minh và Đỗ Văn Tùng sau khi thay đổi lời khai
và được điều tra bổ sung đã thống nhất với lời khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án và các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết
định truy tố các bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng về
tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251 Bộ luật
Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết
giảm nhẹ của từng bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
đối với các bị cáo Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng. Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Hồng
Đức từ 08 (tám) năm đến 10 (mười) năm tù; đề nghị phạt tiền bổ sung là 10.000.000 (mười
triệu) đồng. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm
tù, khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng.
- Không áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo Lê Minh và Đỗ Văn Tùng. Đề
nghị xử phạt bị cáo Lê Minh từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng đến 10 (mười) năm tù; đề
nghị phạt tiền bổ sung là 10.000.000 (mười triệu) đồng. Đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn
Tùng từ 07 (bảy) năm đến 09 (chín) năm tù; đề nghị phạt tiền bổ sung là 5.000.000 (năm
triệu) đồng.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 20 gói nylon chứa tinh thể khơng màu
là ma túy thu giữ của Đỗ Văn Tùng, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu
giữ của Trần Hồng Đức, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu giữ của
Nguyễn Thị Hồng. Đối với các tài sản khác đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng
tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra
viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã
thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng q trình điều tra Cơ quan điều tra có sai xót trong thủ
tục tố tụng tuy nhiên tại giai đoạn xét xử và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị
cáo và Luật sư đã tham gia và bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo khơng có ý kiến
hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[2] Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần
Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản


cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của các bị cáo, đối chiều với các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, các Biên bản bắt người phạm tội quả tang có đủ cơ sở kết luận:
- Bị cáo Đỗ Văn Tùng đã có hành vi cất giấu 10 gói ma túy ở thể rắn, có trọng lượng
4,0852 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma túy.
Ngoài ra, từ ngày 12/3/2018 đến ngày 15/3/2018, Đỗ Văn Tùng đã mua ma túy của Lê
Minh để bán lẻ cho các đối tượng nghiện.
- Bị cáo Trần Hồng Đức đã có hành vi cất giấu 01 gói ma túy ở thể rắn, có trọng
lượng 0,0852 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma
túy. Trần Hồng Đức cũng nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng nghiện trên địa bàn
Quận 4 và Quận 7 gồm Phạm Văn Chính (Ty), Phạm Quốc Hiệp, Nguyễn Văn Lành và
Võ Quốc Cường.
- Bị cáo Lê Minh đã nhiều lần mua ma túy của Thúng và Minh Bê để bán cho Đỗ
Văn Tùng, Trần Hồng Đức kể từ ngày 02/3/2018 đến ngày 15/3/2018.
- Bị cáo Nguyễn Thị Hồng thơng qua đối tượng Dũng đã có hành vi bán ma túy cho
Trần Hồng Đức vào ngày 17/3/2018 và 01 lần trước đó 01 tháng, ngồi ra Hồng cịn thực
hiện bán ma túy cho 04 người khác (không rõ lai lịch) trên địa bàn Quận 7.
Hành vi của các bị áo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội
phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho nên, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 là
có căn cứ.

[3] Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến
chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã
hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu
đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật
nghiêm cấm, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương
xứng để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội. Căn cứ
vào nhân thân và thái độ của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần
Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng
hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Ngồi ra, Hội đồng xét
xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng
Đức, Lê Minh theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa
đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 20 gói nylon chứa tinh thể khơng màu là ma túy thu giữ của Đỗ Văn Tùng,
01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu giữ của Trần Hồng Đức, 01 gói


nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu giữ của Nguyễn Thị Hồng đây là vật cấm
lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1-01 màu sen, số Imel: 358603/04/00/08277/9
đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo Đỗ Văn Tùng, bị cáo sử dụng để liên lạc mua
bán ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước;
- Số tiền 3.500.000 đồng là tải sản cá nhân của bị cáo Đỗ Văn Tùng, không liên quan
đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;
- 01 xe gắn máy hiệu WaveS màu đỏ, biển số 54Z6-0098, số khung: 5055490, số máy
1512399 đã qua sử dụng thuộc đứng tên bà Phạm Thị Hoa. Bà Hoa khai đã bán xe cho bà
Trương Thị Kim Sa (mẹ của Đỗ Văn Tùng) nhưng không làm thủ tục sang tên. Tùng
mượn xe trên để đi làm và bà Sa không biết việc Tùng sử dụng để thực hiện hành vi
phạm tội nên cần trả lại chiếc xe cho bà Sa;

- 01 điện thoại di động hiệu Mobel M520I màu đen trắng, số Imel: 357443043675785
đã qua sử dụng thu giữ của Trần Hồng Đức. Đức sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên
cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước;
- Tịch thu số tiền 300.000 đồng của Trần Hồng Đức là số tiền bán ma túy mà có;
- 01 xe gắn máy hiệu Nouvo màu trắng đen, biển số 54Z4-2723, số khung 222166, số
máy 9878533 đứng tên Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt. Ông Kiệt khai đã bán xe cho Võ Văn
Cường và không làm thủ tục sang tên. Cường không biết Đức nhờ chở đi bán ma túy nên
cần trả lại chiếc xe trên cho Cường;
- 01 điện thoại di động Samsung màu tím đen, số Imel: 352348/00/082877/9 đã qua
sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen 6300, số Imel: 357671/01/878497/2
đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của Nguyễn Thị Hồng sử dụng vào việc phạm tội nên
tịch thu sung ngân sách Nhà nước;
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 600.000 đồng Nguyễn Thị Hồng thu lợi
từ việc bán trái phép chất ma túy;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu trắng đen, số Imel:354076046949200
đã qua sử dụng thu giữ của Lê Minh. Minh sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu
sung ngân sách Nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố các bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng
phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa
đổi, bổ sung năm 2017:


- Xử phạt Lê Minh 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/3/2018. Buộc bị cáo
nộp phạt số tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.
- Xử phạt Đỗ Văn Tùng 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày
16/3/2018. Buộc bị cáo nộp phạt số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân
sách Nhà nước.

Tiếp tục giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi
lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
2. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Xử phạt bị cáo Trần Hồng Đức 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ
ngày 16/3/2018. Buộc bị cáo nộp phạt số tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung
vào ngân sách Nhà nước.
Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm)
ngày kể từ ngày tuyên án.
3. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, khoản 1 Điều 101, điểm s khoản 1 Điều 52 Bộ
luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Xử phạt Nguyễn Thị Hồng 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để
thi hành án. Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
5. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2017 và Điều 47 Bộ luật Hình sự
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Tịch thu, tiêu hủy 20 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu giữ của Đỗ
Văn Tùng, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy thu giữ của Trần Hồng Đức,
01 gói nylon chứa tinh thể khơng màu là ma túy thu giữ của Nguyễn Thị Hồng còn lại
sau giám định;
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1-01 màu
sen, số Imel: 358603/04/00/08277/9 đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Văn Tùng ; 01 điện
thoại di động hiệu Mobel M520I màu đen trắng, số Imel: 357443043675785 đã qua sử
dụng thu giữ của Trần Hồng Đức ; 01 điện thoại di động Samsung màu tím đen, số Imel:
352348/00/082877/9 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen 6300, số
Imel: 357671/01/878497/2 đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị Hồng; 01 điện thoại
di động hiệu Nokia 2730 màu trắng đen, số Imel:354076046949200 đã qua sử dụng thu
giữ của Lê Minh;
- Trả lại cho bà Trương Thị Kim Sa 01 xe gắn máy hiệu WaveS màu đỏ, biển số
54Z6-0098, số khung: 5055490, số máy 1512399 đã qua sử dụng;
- Trả lại cho Võ Văn Cường 01 xe gắn máy hiệu Nouvo màu trắng đen, biển số 54Z42723, số khung 222166, số máy 9878533 đã qua sử dụng;



- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Tùng tiền 3.500.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm
bảo thi hành án.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Trần Hồng
Đức; Số tiền 600.000 đồng Nguyễn Thị Hồng.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 30/3/2018).
6. Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật phí và lệ
phí Tịa án:
Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn
15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người
được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự..

Nơi nhận:
- Bị cáo;

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TỊA

- Người bào chữa;
- Cơng an TP. HCM (PV06);
- TAND TP.HCM;
- Sở Tư pháp TP.HCM;
- VKSND Quận 7;

- Công an Quận 7;
- THADS Quận 7;
- THAHS Quận 7;
- Lưu VP, hồ sơ.

(Đã ký tên và đóng dấu)


2. KIỂM SÁT VIÊN:
2.1. KẾ HOẠCH XÉT HỎI:
a. Hỏi bị cáo Đỗ Văn Tùng:
- Bị cáo học đến lớp mấy?
- Trước đây bị cáo đã từng bị Tòa án xét về các tội gì? Xử phạt hình phạt gì?
- Bị cáo có mối quan hệ gì với Lê Minh?
- Bị cáo cho biết có ngày 16/3/2018, Minh có nhờ bị cáo nhận 12.200.000 từ Đức
khơng?
- Bị cáo có biết nguồn gốc của số tiền 12.200.00 đồng này không?
- Ngày 16/3/2018, bị cáo đến khách sạn Khánh Ngọc để làm gì? Với ai?
- Số ma túy trên ở đâu bị cáo có? Bị cáo sử dụng vào việc gì?
- Có ai sử dụng ma túy cùng với bị cáo?
- Bị cáo cho biết Minh có nhờ bị cáo bán ma túy không?
- Minh đưa ma túy cho bị cáo bằng cách nào?
- Mỗi lần Minh đưa cho bị cáo bao nhiêu ma túy? Mấy lần?
- Bị cáo đã bán ma túy cho những ai? Ở đâu?
- Sau khi bán ma túy, Minh cho bị cáo bao nhiêu tiền? Số tiền này bị cáo sử dụng
vào việc gì?
- Tại sao ngày 05/11/2018 bị cáo thay đổi lời khai về số ma túy trên? Lời khai nào
của bị cáo là đúng?
- Bị cáo gặp Minh bê đê mấy lần?
- Bị cáo có nhớ Minh bê đê bao nhiêu tuổi, nhận dạng như thế nào khơng? Nếu u

cầu bị cáo có nhận dạng được khơng?
- Bị cáo có nhận ra nhà của Minh Bê đê được không?
- Khi bị bắt, công an thu giữ tài sản gì của bị cáo? Điện thoại là của ai, bị cáo sử
dụng để làm gì?
- Chiếc xe bị thu giữ là của ai? Bà Sa có biết bị cáo sử dụng xe để bán ma túy
không?
b. Hỏi bị cáo Trần Hồng Đức:
- Bị cáo quen biết với Minh như thế nào?
- Bị cáo đã mua ma túy của Minh mấy lần? Bị cáo nêu cụ thể từng lần?
- Minh có phải là người trực tiếp giao ma túy cho bị cáo không? Và giao ở đâu?
- Mỗi lần bị cáo mua ma túy của Minh là bao nhiêu tiền?
- Ngồi Minh thì bị cáo cịn mua ma túy của ai?
- Bị cáo quen biết như thế nào với Dũng?
- Ai là người giao ma túy của Dũng cho bị cáo?
- Bị cáo bán số ma túy mua được cho những ai? Bao nhiêu lần? Tại đâu?
- Số tiền bị cáo thu được từ những lần bán ma túy là bao nhiêu? Số tiền này bị cáo
sử dụng vào việc gì?
- Khi bị bắt cơng an thu giữ tài sản gì của bị cáo?
- Chiếc xe Nouvo biển số 54Z4-2723 là của ai?
- Cường có mối quan hệ gì với bị cáo?
- Cường có biết bị cáo nhờ chở đi bán ma túy không?
- Số tiền 300.000 đồng là tiền gì?
- Chiếc điện thoại bị thu giữ là của ai? Bị cáo sử dụng vào việc gì?
c. Hỏi bị cáo Lê Minh:
- Bị cáo khai rõ nguồn gốc số tiền 12.200.000 đồng mà bị cáo nhờ Tùng đi lấy?
- Vì sao bị cáo khơng trực tiếp đi lấy mà nhờ Tùng?


- Tại sao tại phiên tòa trước bị cáo lại thay đổi lời khai? Trong q trình điều tra có
ai đánh đập hay ép buộc gì đối với bị cáo khơng?

- Tại sao lúc bị bắt, bị cáo khai có bán ma túy cho Đức và Tùng?
- Nếu bị cáo không bán ma túy cho Đức và Tùng vậy tại sao Đức và Tùng lại khai
là mua ma túy của bị cáo?
- Bị cáo khai rõ số lần bán ma túy cho Tùng và Đức? Bán bao nhiêu?
- Số ma túy này ở đâu bị cáo có? Thúng và Minh bê đê là ai, bị cáo quen biết như
thế nào?
- Khi bị bắt, cơng an thu giữ tài sản gì của bị cao? Điện thoại của ai? Bị cáo sử dụng
vào việc gì?
d. Hỏi bị cáo Nguyễn Thị Hồng:
- Bị cáo hiện có đang mang thai hay ni con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không?
- Số ma túy mà bị cáo mang đi bán có được từ đâu?
- Bị cáo quen biết như thế nào với đối tượng Dũng?
- Bị cáo có biết địa chỉ của Dũng ở đâu khơng? Bị cáo liên lạc với Dũng bằng cách
nào? Gặp nhau như thế nào?
- Ngày 17/3/2018, Dũng có liên lạc cho bị cáo khơng? Dũng nói bị cáo làm gì?
- Bị cáo có biết Mạnh Đình trước đó khơng?
- Bị cáo đã bán ma túy được bao nhiêu lần?
- Mỗi lần Dũng cho bị cáo bao nhiêu tiền?
- Sau khi lấy ma túy, bị cáo có gặp được Mạnh Đình khơng?
- Cơng an thu giữ tài sản gì của bị cáo?
- Điện thoại này là của ai? Bị cáo sử dụng vào việc gì?
- Số tiền bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy tổng cộng là bao nhiêu? Bị cáo sử dụng
làm việc gì?
2.2. DỰ THẢO BẢN LUẬN TỘI:


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN 7

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số:

TP. HCM, ngày ... tháng ... năm 20...

BẢN LUẬN TỘI

“Thưa Hội đồng xét xử”,
Căn cứ Điều 321 Bộ luật Tố tụng hình sự,
Hơm nay, Tịa án nhân dân Quận 7 mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án đối với các bị cáo Lê Minh,
Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.
Tơi tên là Nguyễn Văn Cầu - Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 được phân công thực
hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tồ trình bày quan điểm của Viện kiểm sát về việc xử lý
đối với các bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng và giải quyết vụ án
như sau:
PHẦN NỘI DUNG
1. Nêu tóm tắt nội dung vụ án
Vào các ngày 16/3/2018 và 17/3/2018, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng đã có
hành vi cụ thể như sau:
- Vào khoảng 01 giờ ngày 16/3/2018, phát hiện Đỗ Văn Tùng, Phạm Ngọc Thanh, Võ Quý Hiếu,
Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp, thu giữ 20 gói ma túy tổng hợp
(Methamphetamine) có khối lượng 4,0852 gram; 01 máy điện thoại hiệu Nokia; số tiền 3.500.000
đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp. Qua lời khai của Đỗ Văn Tùng, Tùng khai mua
của Lê Minh vào các ngày 12/3/2018 và ngày 15/3/2018. Mỗi lần Tùng mua ½ hộp 5 về phân ra từng
gói nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán cho các đối tượng nghiện. Tại cùng thời
điểm này, Lê Minh đang thuê phòng 303 tại khách sạn Khánh Ngọc (cùng địa chỉ) nên đã mời Minh về

trụ sở làm rõ và mở rộng điều tra.
- Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/3/2018, Đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức đang được Võ
Cuốc Cường dùng Đức xe NOUVO, biển số 54Z4-2723 mang ma túy đi bán cho các đối tượng nghiện
(Cường không biết Đức đi bán ma túy) nên mời Đức và Cường về trụ sở Công an phường làm việc.
Đội công tác thu giữ của Trần Hồng Đức 01 gói ma túy tổng hợp (Methamphetamine) có khối lượng


0,0852 gram; 01 điện thoại di động; số tiền 300.000 đồng và 01 xe gắn máy NOUVO, biển số 54Z42723.
Trong q trình làm việc tại trụ sở Cơng an phường Phước Kiểng, Quận 7 thì có các đối tượng
nghiện gọi điện cho Đức để mua ma túy nên bị đội cơng tác mời về làm việc gồm Phạm Văn Chính
(Ty), Phạm Quốc Hiệp.
- Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 17/3/2018, tại trước khách sạn Lan Anh, Quận 7. Đội ma túy Công
an Quận 7 phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa mang ma túy đi bán. Đội ma
túy thu giữ của Nguyễn Thị Hồng 01 gói ma túy tổng hợp (Methamphetamine), khối lượng 2,3947
gram 02 điện thoại di động và số tiền 600.000 đồng. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7,
Nguyễn Thị Hồng khai nhận đã được Dũng (không rõ nhân thân, lai lịch) nhờ đem ma túy đi bán 02
lần. Ngoài việc bán ma túy cho Trần Hồng Đức, Hồng còn 01 lần bán ma túy cho một đối tượng khác
(không rõ lai lịch) trên địa bàn Quận 7. Việc Hồng bán ma túy cho Dũng được Dũng cho tiền 02 lần,
tổng cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Hồng tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.
Đối với Lê Minh ngoài việc bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng, Minh còn bán ma túy của Thúng và
Minh Bê (không xác định được nhân thân, lai lịch) tổng cộng 03 lần.
- Lần thứ nhất vào ngày 02/3/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc (30A đường số 1, phường Bình Thuận,
Quận 7), Lê Minh bán ma túy cho Trần Hồng Đức ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Đức trả
trước 1.000.000 đồng và còn thiếu 2.500.000 đồng.
- Lần thứ hai, vào ngày 10/3/2018, tại quán café Điểm Hẹn Quận 7, Lê Minh bán cho Lê Hữu
Thành 01 hộp 10 ma túy tổng hợp với giá 12.200.000 đồng. Minh nói Đỗ Văn Tùng đi qua đường Tơn
Đản (Quận 4) rồi lấy tiền đem về đưa cho Minh.
- Lần thứ ba, vào ngày 12/3/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc Lê Minh đưa cho Trần Hồng Đức ½
hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Đức chưa trả tiền cho Minh.
Đối với Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Minh 03 lần, riêng lần mua 10 hộp ma túy tổng hợp

Thành mang bán cho Tuấn (không rõ lai lịch) với giá 12.800.000 đồng. Đối với Trần Hồng Đức thu lợi
bất chính số tiền 600.000 đồng, cịn 02 lần Đức mua của Lê Minh ½ hộp năm ma túy tổng hợp và
mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000đ đến 300.000 đồng và cất giấu sẵn trong
người, khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ thì điện thoại cho Đức theo số 0903536313, Đức sẽ
mang đi bán cho các đối tượng nghiện. Các đối tượng nghiện thường mua ma túy của Đức gồm: Phạm
Văn Chính (Ty), Phạm Quốc Hiệp, Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc Cường và 05 đối tượng khác không
biết rõ tên và địa chỉ. Địa điểm Đức thường bán ma túy là những địa bàn vắng người trên Quận 4 và
Quận 7.
Đối với Trần Hồng Đức ngoài việc mua ma túy của Lê Minh, Đức còn mua ma túy của Dũng
(không xác định được lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Đức bị Công an Quận 7 bắt khoảng 01
tháng và lần 02 là ngày 17/3/2018. Mỗi lần Đức mua ma túy của Dũng thì Dũng không trực tiếp mang
đi bán mà nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán cho Dũng. Trong thời gian thực hiện việc mua bán trái


phép chất ma túy (kể từ ngày 17/02/2018 đến ngày 17/3/2018), tổng số tiền DDwcs thu lợi bất chính là
6.000.000 đồng, số tiền này Đức đã tiêu xài và mua ma túy sử dụng hết.
2. Phân tích, đánh giá chứng cứ
- Căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản kiểm tra điện thoại, Biên bản niêm
phòng vật chứng lời khai của các bị cáo, người liên quan, Biên bản đối chất và các tài liệu chứng cứ
thu thập trong quá trình điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tịa, có đủ
cơ sở khẳng định Cáo trạng số …/CT-VKS ngày 22/8/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Quận 7 truy tố bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng bị xét xử về tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 là
có căn cứ, đúng người; đúng tội, đúng pháp luật.
3. Phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, tuy
nhiên các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích nhu cầu
bản thân.
Bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng khơng có tiền án, tiền sự; bị cáo Trần Hồng Đức có02 tiền án, 00
tiền sự; bị cáo Nguyễn Thị Hồng khơng có tiền án, tiền sự, tại thời điển thực hiện tội phạm bị cáo chưa

thành niên, hiện đang mang thai nhưng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm
hại đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh; xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước,
hành vi phạm tội liên quan đến ma túy là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng
xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, sự an tồn và mơi trường sống lành mạnh trong xã hội.
Vì vậy cần có 01 mức án đủ nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng 01 thời gian nhằm cải tạo,
giáo dục đối với các bị cáo. Mặt khác, đáp ứng được nhu cầu phòng ngừa chung cho xã hội và giáo
dục riêng đối với bị cáo.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tồ hơm nay; các bị cáo Đỗ Văn Tùng và Nguyễn Thị Hồng
có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự quy định tại điểm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét, cân nhắc các tình tiết, động cơ của bị cáo khi lượng hình đối với Đỗ Văn Tùng và Nguyễn Thị
Hồng.
4. Kết luận:
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử:
Hình phạt chính: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều
101 Bộ luật hình sự 2015:
- Xử phạt Trần Hồng Đức từ 08 (tám) năm đến 10 (mười) năm tù.
- Xử phạt Nguyễn Thị Hồng từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm tù.
- Xử phạt bị cáo Lê Minh từ 09 (tám) năm tháng đến 12 (mười) năm tù.



×