MỞ ĐẦU
Từ cuối thế kỷ trước, nhiều chuyên gia đã đi đến kết luận rằng với sự phát
triển như vũ bão của cơng nghệ thơng tin, các tập đồn lớn và xã hội sẽ mở rộng
khả năng giải quyết các vấn đề chính trị bằng cách định hướng thơng tin lên các
chủ thể.
Trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ của Internet cùng với trí tuệ nhân
tạo, các ơng lớn trong lĩnh vực công nghệ (Big Tech) như Google, Facebook,
Twitter, YouTube... giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng thơng tin cho
người dân tồn thế giới
Kể từ khi xung đột quân sự bùng nổ tại Ukraine, dư luận thế giới đã nhanh
chóng cảm nhận được sự hỗn loạn trên mặt trận thơng tin. Quả thực đã có sự “khấp
khểnh” giữa phân tích quân sự về bước tiến của quân đội Nga trên chiến trường và
các mạng xã hội thiên về những hình ảnh chết chóc của binh sĩ Nga khi đối mặt với
sự kháng cự của Ukraine. Rất khó để biết thơng tin nào là đúng, thơng tin nào là
giả hoặc thiên lệch.
Cho đến nay, diễn biến cuộc chiến giữa Kiev và Matxcơva vẫn phức tạp và
chưa có dấu hiệu hòa dịu. Nạn nhân trực tiếp là những người Ukraina, phải sống
trong cảnh bom đạn, loạn lạc, bỏ nhà bỏ cửa. Sau đó là cuộc khủng hoảng di dân
chưa từng có kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến thách thức việc tiếp đón tị nạn ở châu
Âu. hãng tin AFP hôm 29/03/2022 đã cảnh báo việc phổ biến thơng tin và hình ảnh
liên quan đến cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina thách thức giới truyền thông,
nếu không cẩn thận có thể dễ dàng trở thành kẻ tiếp tay cho cuộc chiến thông tin
diễn ra song song với cuộc chiến trên chiến tuyến. Chính vì vậy để thực hiện được
đúng chức năng xã hội cơ bản của báo chí nên em đã chọn vấn đề “Đạo đức và
trách nhiệm xã hội của báo chí trong việc thực hiện chức năng thông tin, giám
sát, phản biện xã hội trong trong cuộc chiến tại Ukraine” để làm đề tài nghiên
cứu mơn học của mình.
NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1.
Báo chí và đạo đức, trách nhiệm xã hội của báo chí
1.1.1.Báo chí
Báo chí là gì? Theo quan niệm từ trước đến nay, báo chí là phương tiện
truyền thơng đại chúng, truyền tải những thơng tin thời sự có tính định kỳ đến với
đơng đảo cơng chúng. Ngồi ra, Báo chí cịn là một hình thái ý thức xã hội, lấy
hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh. Nghĩa là đối tượng phản ánh đó
phải xác thực cụ thể. Báo chí là một hoạt động thơng tin đại chúng nhất, năng động
nhất trong các loại hình hoạt động truyền thông đại chúng hiện nay. Tại Việt Nam,
Gia Định báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên, phát hành từ năm 1865 đến 1910 tại Sài
Gòn. Báo, hay gọi đầy đủ là báo chí (xuất phát từ 2 từ "báo" - thơng báo - và "chí"
- giấy), nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm định kỳ, như nhật báo hay
tạp chí. Nhưng cũng để chỉ cả các loại hình truyền thơng khác như đài phát thanh,
đài truyền hình. Khái niệm này cũng áp dụng được cho một tạp chí liên tục xuất
bản trên web (báo điện tử). Báo chí, dựa trên những điều tra, tìm hiểu để làm sáng
tỏ đời sống xã hội, văn hóa; mục đích là để tìm hiểu thơng tin, phổ biến và phân
tích tin tức. Đây là những cơ quan ngôn luận, cung cấp thơng tin và ý kiến về mọi
vấn đề. Chính vì thế, báo chí thường được gọi là quyền lực thứ tư. Quyền lực này,
nếu được nhân dân sử dụng đúng, thì sẽ góp phần nói lên sự thật, góp phần nói lên
nguyện vọng của người dân, qua đó, cải tiến bộ máy xã hội.
Theo nhóm tác giả TS. Hà Huy Phượng, ThS Đinh Ngọc Sơn, ThS. Vũ
Thúy Bình, ThS. Lê Thanh Xuân, ThS. Đỗ Phan Ái trong các loại hình báo chí, thì
báo chí gồm nhiều thể loại như báo in, ảnh báo chí, phát thanh (báo nói), truyền
hình, báo mạng điện tử; và mỗi loại đều có những ưu điểm riêng của mình, tuy
nhiên đều có chung các chức năng của báo chí.
Theo Luật Báo chí năm 1999, Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là
cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là
diễn đàn của nhân dân. Ngồi ra, từ báo chí bắt đầu từ hai chữ: báo (thơng tin), chí
(giấy). Tên gọi có gốc thuần Việt. Trong tiếng Anh Journalism bắt nguồn từ
Journal - Nhật ký, điều này cũng nói lên rằng nhà báo- ký giả, chính là những
người ghi lại lịch sử trong cuộc sống hàng ngày. Nói một cách khác, các ký giả
chính là những sử gia, ghi chép lại các sự kiện trong cuộc sống thường nhật. Cuộc
sống chúng ta có rất nhiều câu chuyện diễn ra mỗi ngày và báo chí có nhiệm vụ ghi
lại những sự kiện đó, chứng kiến, thêm lời bình. Báo chí là một hiện tượng xã hội,
ra đời do nhu cầu thông tin, giao tiếp, giải trí và nhận thực của con người và có ảnh
hưởng rộng lớn tới đời sống xã hội. Lịch sử phát triển của báo chí chính là sự gia
tăng các tiện ích của q trình thu nhập, xử lý và tiếp nhận thông tin dành cho số
đông trong xã hội. Thơng tin báo chí có tính tư tưởng và khuynh hướng rõ rệt gắn
với nhiệm vụ hết sức to lớn và nặng nề, nhất là trong bối cảnh thế giới phức tạp,
yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi phải nâng cao năng lực khoa học
công nghệ, tri thức cho mọi hoạt động của công chúng.
Theo PGS.TS Dương Xuân Sơn và TS. Phạm Văn Thấu trong chuyên đề
nghiên cứu về Cơ sở lý luận báo chí, xuất bản, khái niệm báo chí được định nghĩa
trên ba phương diện: “Báo chí là một trong những hệ thống xã hội” (định danh),
“báo chí là một hoạt động chính trị xã hội” (định tính), “báo chí là thứ vũ khí lợi
hại trong cuộc đấu tranh chính trị, tác động vào xã hội để tạo sự can thiệp gián tiếp
vào đời sống chính trị, tham gia vào việc tập hợp lực lượng, giáo dục ý thức và góp
phần tích cực vào việc hình thành các khuynh hướng, các phong trào chính trị - xã
hội” (mục đích). Đặc điểm nổi bật của báo chí là tính cơng khai, chân thật, chính
xác và sự lang tỏa nhanh chóng, rộng khắp; gắn liền với những thông tin thời sự,
những vấn đề, sự kiện diễn ra hàng ngày, hàng giờ, có sự phân tích, mỗ xẻ nhằm
rộng đường dư luận. Từ đó, PGS.TS Dương Xuân Sơn và TS. Phạm Văn Thấu đã
đưa ra khái niệm báo chí như sau: Báo chí là phương tiện truyền thơng đại chúng
truyền tải thông tin về các sự kiện, sự việc, hiện tượng đang diễn ra trong hiện thực
khách quan một cách nhanh chóng, chính xác và trung thực đến đơng đảo cơng
chúng nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn.
Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng xuất bản 2011, tác giả
Dương Xuân Sơn quan niệm “báo chí là loại hình hoạt động thơng tin chính trị - xã
hội” và chú trọng đến các khái niệm thông tin và thơng tin báo chí. Tương tự quan
niệm này, trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí (PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn chủ biên), các
tác giả xem xét khái niệm báo chí gắn liền với những đặc trưng chính yếu của hoạt
động báo chí gồm sự hình thành và phát triển của báo chí; báo chí - hoạt động
thơng tin đại chúng và báo chí - một loại hình hoạt động chính trị xã hội .
Cịn theo TS. Đỗ Chí Nghĩa trong Vai trị của báo chí trong định hướng dư
luận xã hội thì cho rằng: Báo chí là loại hình các phương tiện truyền thơng đại
chúng được cơ quan thẩm quyền cấp phép hoạt động, có nhiệm vụ truyền tải thông
tin nhanh nhất, mới mẻ nhất đến đông đảo cơng chúng, nhằm tích cực hóa đời sống
thực tiễn. Chúng ta thấy rằng, báo chí là một loại hình truyền thơng phổ biến hiện
nay và có ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội hết sức rộng lớn và sâu sắc. Tính
chất cơng khai, rộng rãi và nhanh chóng đã khiến báo chí trở thành một loại vũ khí
sắc bén trong xã hội; trở thành một thứ quyền lực - quyền lực của trí tuệ, nhận
thức. Để thực sự trở thành một thứ quyền lực trong xã hội, báo chí phải gắn liền
với những thơng tin mang tính thời sự, phản ánh khách quan, chân thật. Cơng
chúng tìm đến báo chí tức là tìm kiếm thơng tin, mà trong đó, tin thời sự đóng vai
trị quan trọng. Ví dụ như những sự kiện liên quan đến công tác phòng chống tham
nhũng, cứ mỗi lần cơ quan chức năng phát hiện vụ án tham nhũng, cũng là lúc
công chúng mong đợi những thông tin, diễn biến vụ việc xét xử; như vụ án PM18,
Vinashing vv… Khi nhìn nhận xã hội như một hệ thống trong tổng thể đang vận
hành, báo chí cũng cần được tiếp cận từ quan điểm hệ thống; nhìn nhận báo chí
như một tiểu hệ thống cấu thành hệ thống xã hội nói chung; trong đó, báo chí là
một bộ phận cấu thành và chịu sự chi phối của hệ thống lớn cũng như sự tác động
của các tiểu hệ thống (hoặc hệ thống con). Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững trong
cuốn Cơ sở lý luận báo chí, thì quan niệm về báo chí có nhiều gốc nhìn khác nhau,
từ hàn lâm đến đời thường được gắn với truyền thơng xã hội; giới báo chí có thể
gọi chung là giới truyền thơng. Từ đó, PGS.TS đã phân tích những, đánh giá, so
sánh các khái niệm báo chí phương Tây và những nước khác, trong đó có Việt
Nam và cho rằng báo chí truyền thơng là hoạt động thông tin giao tiếp xã hội trên
quy mô rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là
công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ công
chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và các nhóm lợi ích, với các nước trong khu
vực và quốc tế…
1.1.2.Đạo đức, trách nhiệm xã hội của báo chí
Trách nhiệm xã hội trong cung cấp thơng tin: Thơng tin tác động trực tiếp
đến đời sổng xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp tới tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của
con người; do đó, làm thay đổi nhận thức, quan niệm, thái độ và hành vi của con
người. Nó tạo ra dư luận và áp lực xã hội đối với một hiện tượng, sự kiện cụ thê.
Vì vậy, thơng tin báo chí phải trung thực, khách quan và có tính định hướng xây
dựng cao. Nêu thơng tin bị bóp méo, cắt xén, xuyên tạc sẽ đưa đến những hậu quả
xã hội khôn lường, sẽ làm tổn hại đến uy tín cá nhân, cơ quan, đồn thể, làm phá
sản các doanh nghiệp và khiến hàng ngàn lao động mất việc làm... Bên cạnh đó, có
những thơng tin dù là đúng nhưng sẽ gây sốc, tạo tâm lý hoang mang, hoảng sợ,
ghê tởm, mât lòng tin vào con người, vào đời sống; vì thế, khi đưa tin cũng cần có
liều lượng hợp lý và cách tiếp cận cụ thể. Thông tin báo chí, xét đến cùng, là
hướng tới giúp xã hội, con ngưòi ngày càng phát triển tốt đẹp hơn, cao đẹp hơn. Vì
vậy, những thông tin dẫn đến những hậu quả trái với điều này đều là phản tuyên
truyền, độc hại, chông lại con người.
Trách nhiệm nâng cao dân trí và sự hiểu biết của nhân dân: Nâng cao dân trí
là trách nhiệm xã hội to lớn của báo chí nước ta. Trong điểu kiện dân trí, trình độ
văn hóa thấp, đời sống vật chất và tinh thần của người dân còn gặp nhiều khó khăn,
giáo dục cịn nhiều bất cập, hơn mọi loại hình truyền thơng khác, báo chí phải đóng
vai trị quan trọng trong cơng tác nâng cao dân trí và sự hiếu biêt của mọi tầng lớp
nhân dân. Qua báo chí, người dân ngay tại nhà mình, địa phương mình có thể tiêp
cận được các nguồn thơng tin, tri thức quý báu cho đời sông và cho sản xuất, kinh
doanh. Nâng cao dân trí và sự hiếu biết của nhân dân thực chất là xây dựng nền
tảng tinh thần cho sự phát triển của con người và xã hội trong bối cảnh tồn cầu
hóa.
Trách nhiệm củng cố và bảo vệ sự ổn định xã hội: Một xã hội bất ổn thì
khơng thể phát triển được. Vì vậy, trong khi tác nghiệp, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình, báo chí cần thực hiện đúng định hướng, tích cực tuyên truyền
phơ biến đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên
truyền những thành tựu to lớn của cơng cuộc đơi mới; có chính kiến mạnh mẽ bảo
vệ sự nghiệp đổi mới, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Kiên quyết đấu tranh chông những thế lực cơ hội chính trị, phản động lợi
dụng các vấn đề tơn giáo, dân tộc, nhân quyển xuyên tạc sự thật, kích động, gây
hận thù, chia rẽ dân tộc, tôn giáo tạo bất ổn, bạo lực lật đố và thực hiện “diễn biến
hòa bình”. Đây thực sự là những nhân tố tiêu cực, làm mất ổn định xã hội, phá hoại
đời sốngbình yên của nhân dân, phá hoại sự nghiệp đổi mới đang phát triển mạnh
mẽ của đất nước. Báo chí cách mạng cần tích cực góp phần xây dựng và củng cố
lịng tin của nhân dân vào Đảng, vào sự nghiệp đổi mới và chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.2. Chức năng giám sát xã hội
Giám sát xã hội
Giám sát xã hội có thể được hiểu là “theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện
đúng những điều quy định khơng”. Điều đó có nghĩa là, giám sát bao gồm hai quá
trình, theo dõi và kiểm tra. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm
cho hoạt động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều
kiện có thể, theo mục tiêu, chương trình, kế hoạch đề ra. Giám sát phải được tiến
hành bởi lực lượng độc lập, khác với chủ thể đang tiến hành hoạt động được giám
sát, giám sát có chun mơn, hiểu biết… mới bảo đảm tính khách quan và hiệu
quả. Giám sát xã hội bao gồm:
- Giám sát hành chính các cơ quan chức năng thuộc hệ thống nhà nước
- Giám sát thành viên của các tổ chức chính trị
- Giám sát các phương tiện thông tin đại chúng
- Giám sát các thiết chế cơng dân
- Giám sát mỗi người dân
Có hai bộ phận tham gia giám sát xã hội: bộ máy nhà nước và cơng dân.
Trên thực tế thì các thiết chế nhà nước vốn đã được hình thành và hoạt động theo
cơ chế tự giám sát và giám sát công dân. Tuy nhiên, một xã hội dân chủ là xã hội
cần phải coi trọng sự giám sát của công dân đối với nhà nước. Đồng thời điều này
cũng thể hiện trình độ phát triển, ý thức tự giác và thái độ trách nhiệm cao của
người dân.
Giám sát xã hội là giám sát lẫn nhau, giám sát từ nhiều góc độ một cách
cơng bằng và có ý nghĩa xã hội. Giám sát khơng chỉ để kiểm tra, đánh giá phân tích
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà còn đề xuất giải pháp nhằm điều
chỉnh kế hoạch, khắc phục thiếu sót, những cái lỗi thời, khơng cịn phù hợp với
định hướng và bản chất xã hội.
Trên tinh thần đó, giám sát khơng chỉ mang tính chất phê phán mà cịn là
sự biểu dương những cái mới, cái tiến bộ, tích cực. Cái đúng, cái sai, cái lạc hậu,
cái tiến bộ…đều được phát hiện và soi chiếu rõ ràng. Như vậy cần phải đặt ra một
yêu cầu là cần tạo ra một cơ chế hợp lý để đảm bảo cho giám sát xã hội trở thành
hoạt động thực chất và hiệu quả.
Phản biện xã hội
Phản biện là một hành vi xác định tính khoa học của hành động của con
người, xuất hiện khi con người chuẩn bị hành động. Phản biện làm cho mỗi một
hành vi được tiến hành trên cơ sở có một sự xác nhận có chất lượng khoa học đối
với nó. Phản biện xã hội là một khái niệm chính trị, là biểu hiện đặc trưng chuyên
nghiệp nhất của cái gọi là đời sống dân chủ. Phản biện trong một xã hội dân chủ là
một loại "phản hành động" ("phản hành động" chứ không phải là "phản động"). Nó
xuất hiện song song cùng với các hành động, nó xuất hiện đối lập với tất cả các
hành động. Trong mỗi một xã hội bao giờ cũng có nhiều nhóm lợi ích khác nhau.
Các nhóm lợi ích bao giờ cũng có nhu cầu tiến hành hành động vì một mục tiêu
nào đó. Nhưng trên mỗi khía cạnh hay mỗi lĩnh vực của đời sống con người bao
giờ cũng có những cách lý giải khác nhau và do đó có những cách hành động khác
nhau để đạt được mục tiêu như vậy. Phản biện tạo ra một giai đoạn đệm cho quá
trình hành động tự nhiên của các nhóm lợi ích, đó là giai đoạn thảo luận và thỏa
thuận. Trong tác phẩm Triết học Pháp quyền, Hêghen đã chỉ ra rằng: Bằng con
đường tranh luận và trao đổi, cho phép tách ra những cái chung có tỷ trọng hợp lý
các ý kiến đã được thảo luận. Phản biện làm cho các hành vi chính trị, kinh tế và
xã hội trở nên ít chủ quan hơn, tức là sự xung đột của các nhóm lợi ích đã được
điều chỉnh thơng qua thảo luận và thoả thuận. Nói cách khác, phản biện làm cho
những cuộc xung đột trên thực tế trở thành cuộc xung đột của thảo luận, tức là biến
sự xung đột lợi ích trong hành động thành các xung đột lợi ích trong thảo luận.
Nếu một xã hội khơng có phản biện và mỗi hành động đều được đương
nhiên tiến hành thì đấy là cách thể hiện rõ rệt nhất tính chất phi dân chủ của xã hội.
Bởi vì mỗi một hành động chính trị bao giờ cũng là kết quả thỏa thuận của các
khuynh hướng chính trị, một hành động chính trị chỉ có thể được tiến hành khi nó
là sự thúc bách của nhu cầu đời sống và để cân đối các nguyện vọng khác nhau của
đời sống. Phản biện là một địi hỏi khách quan của đời sống. Nói một cách khái
quát, phản biện là một thể hiện của các phản hành động xuất hiện một cách tự
nhiên trong một xã hội mà ở đó mỗi con người đều tự do bày tỏ các nguyện vọng
của mình. Phản biện góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn hố,
chính trị, làm cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và
gần với đời sống con người hơn.
Giám sát và phản biện xã hội khác với việc hỏi ý kiến nhân dân. Hỏi ý kiến
nhân dân là việc trưng cầu dân ý một cách không chuyên nghiệp và hồn tồn
khơng phải là phản biện. Phản biện là một hoạt động khoa học, phản biện là tranh
luận một cách khoa học chứ khơng phải là tìm câu trả lời có đồng ý hay khơng. So
với trưng cầu dân ý, phản biện hoàn toàn khác về chất. Trưng cầu dân ý là hỏi dân.
Phản biện không phải là hỏi dân. Phản biện không phải là nhân dân trả lời mà là
nhân dân nói tiếng nói của mình. Năm 1984, Ban Bí thư TW Đảng ra chỉ thị về
cơng tác dân vận, trong đó có đề ra phương châm: “ Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Đấy là một hoạt động của xã hội dân sự, nhưng không phải là hoạt
động nhân dân đơn giản mà là hoạt động thông qua một hệ thống tranh luận
chuyên nghiệp. Cơ sở để người dân nói lên ý kiến của mình là lợi ích xã hội. Dư
luận xã hội được hình thành thông qua con đường thảo luận, bàn bạc về những ý
kiến mà người dân tiếp thu được. Báo chí chính là diễn đàn của cuộc thảo luận, bàn
bạc xã hội đó. Bằng hoạt động truyền thơng của mình, báo chí vừa là nơi nhân dân
thể hiện vai trị giám sát, phản biện xã hội, mà bản thân báo chí cũng đang thực
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình. Giám sát có thể được hiểu
là theo dõi, kiểm tra những quy định pháp luật đã được ban hành; và nó bao gồm 2
q trình: theo dõi và kiểm tra. Hoạt động này có một ý nghĩ rất quan trọng trong
nhiệm vụ tham gia quản lý xã hội của báo chí. Giám sát phải được tiến hành bởi
một lực lượng độc lập mới đảm bảo tính khách quan
Giám sát xã hội của báo chí là q trình báo chí bằng mọi phương thức huy
động sức lực, trí tuệ và cảm xúc của đông đảo nhân dân với tinh thần trách nhiêm
chính trị cao nhất trong việc theo dõi, kiểm tra q trình thưc hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, bảo đảm đạt được mục đích
cao nhất trong điều kiện có thể. Giám sát xã hội của báo chí bao gốm các bình diện
khác nhau, như theo dõi, kiểm tra phát hiện những nơi làm đúng, làm tốt để biểu
dương và nhân rộng; theo dõi và kiểm tra để phát hiện những nơi làm trệch, làm sai
để uốn nắn và đấu tranh, bảo đảm cho đường lối, chính sách chủ trương của Đảng,
pháp luật Nhà nước được thực thi đúng trong thực tế…
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 Khóa VIII (2/1999), đã nêu chức
năng giám sát của cơng luận, báo chí, khi nói về việc thực hiện đồng bộ 4 hệ thống
giám sát cán bộ, đảng viên, trong đó có giám sát của các cơ quan 26 thông tin đại
chúng - “Giám sát bằng công luận”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
(1/2011) cũng khẳng định chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức, phản biện xã hội
của báo chí, trên cơ sở nhấn mạnh “vì lợi ích nhân dân và đất nước. Như vậy, có
hai bộ phận tham gia giám sát xã hội: bộ máy nhà nước và cơng dân; mà báo chí là
một bộ phận khơng thể tách rời trong GSXH
Thực chất, GSXH là sự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh hành động của các
cơ quan, tổ chức, các các nhân nắm giữ và thực thi quyền lực Nhà nước. Đồng
thời, nó cũng phát hiện, phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục
những thiếu sót hạn chế, những hành vi sai trái, những vấn đề bất hợp lý, lỗi thời,
khơng cịn phù hợp với định hướng và bản chất xã hội. Mặt khác, hoạt động GSXH
cũng là phương tiện có vai trị vô cùng quan trọng trong việc quản lý, giáo dục đội
ngũ cán bộ công chức trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, các tổ chức thuộc hệ
thống chính trị. Nó có ý nghĩa như sự răn đe, cảnh báo thường xuyên những nguy
cơ và khả năng vi phạm pháp luật Nhà nước, vi phạm tiêu chuẩn phẩm chất đạo
đức người cán bộ. Nó cũng có ý nghĩa quản lý, nhắc nhở cán bộ công chức về trách
nhiệm công tác, kỷ luật lao động, kỉ cương của cơ quan công quyền, thái độ tôn
trọng người dân và ý thức nghiêm chỉnh gương mẫu thực hiện pháp luật Nhà
Nước.
Hoạt động GSXH không chỉ mang tính chất phê phán mà cịn có tác dụng
biểu dương những nhân tố tiên tiến tích cực trong xã hội. Thông qua GSXH, nhiều
kết quả hoạt động của các cơ quan công quyền, những thành tựu và hiệu quả thực
tế của bộ máy quản lí, nhiều thành tích và năng lực công tác của các cán bộ và nhất
là những người lao động được làm sáng tỏ. Đó là cơ sở khách quan, điều kiện quan
trọng cho việc biểu dương các nhân tố mới, không ngừng tăng cường hiệu quả hoạt
động của các cơ quan lãnh đạo quản lý.
Thực tiễn cho thấy báo chí đã tham gia giám sát và quản lý xã hội, bởi
giám sát là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí. Ở
phương Tây chức năng này được đề cao như một thứ “quyền lực thứ tư”, bên cạnh
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, báo
chí được xác định là cơ quan ngơn luận của Đảng và các tổ chức chính trị xã hội
nghề nghiệp và là diễn đàn của nhân dân. Hệ thống báo chí và các loại hình truyền
thơng đại chúng nói chung là phương tiện quan trọng có sức mạnh đặc biệt to lớn
trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu dân chủ hóa, góp phần quan trọng để giải
quyết vấn đề chung của quốc gia trong tiến trình vận động và phát triển. Báo chí
tham gia việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
Nước trên phạm vi xã hội hay trong những lĩnh vực rộng lớn.
Báo chí có vai trị như một hệ thống xã hội cung cấp thông tin, dữ liệu cho
chủ thể quản lí xã hội; kiểm nghiệm đánh giá hiệu quả của các chính sách xã hội.
Xã hội càng phát triển, dân trí và quan trí càng nâng cao thì dân chủ càng được mở
rộng và do đó sẽ hạn chế lạm dụng quyền lực thông qua cơ chế giám sát xã hội.
GSXH là phương cách đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng Nhà Nước pháp
quyền, xã hội công dân. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho
hoạt động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện
có thể theo chương trình kế hoạch đã đề ra. Báo chí giám sát sự vận hành của các
tiến trình chính trị kinh tế xã hội, phát hiện và cảnh báo kịp thời những nguy cơ,
những khó khăn phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Sự giám sát này
trước hết nhằm vào những cơ quan, tổ chức quyền lực của bộ máy Nhà Nước, các
cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy cơng quyền, trong hệ thống kinh tế nó vừa
phát hiện răn đe những biểu hiện sai trái không cho chúng mở rộng phạm vi ảnh
hưởng tích cực trong xã hội. Thực tế cho thấy nhân dân có thể thực hiện quyền
giám sát của mình hiệu quả nhất là thơng qua báo chí và các phương tiện truyền
thơng đại chúng.
Ở Việt Nam, trong văn kiện chính thức của mình tại Nghị quyết Trung
Ương 6 lần 2 khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí
và truyền thông đại chúng là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội. Đây là bước
phát triển quan trọng trong lý luận, nhận thức của Đảng về vai trò xã hội của báo
chí và truyền thơng đại chúng. Đó cũng là một dấu mốc quan trọng của thực hiện
mở rộng dân chủ. Về thực chất, đó là sự xác định và đề cao hơn quyền dân chủ của
nhân dân, đồng thời trao cho nhân dân công cụ sắc bén trong việc thực hiện quyền
giám sát xã hội của mình. GSXH của báo chí có thể hiểu là bao gồm nhiều nội
dung phong phú. Một là huy động nguồn lực trí tuệ xã hội, động viên khích lệ năng
lực sáng tạo của nhân dân trong việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật. Hai là giám sát quy trình ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật cũng như sự phù hợp của các văn bản ấy với Hiến pháp với lợi ích căn
bản của nhân dân. Ba là tuyên truyền tri thức, giáo dục luật pháp cũng như ý thức
chấp hành luật pháp và chính sách của Nhà Nước cho cộng đồng. Bốn là cổ vũ việc
thực hiện và giám sát việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật đối với mọi tổ
chức cá nhân trong xã hội để kịp thời phát hiện những nơi làm tốt, làm hay cũng
như những nơi làm dở vi phạm pháp luật…Năm là tham gia tổng kết thực tiễn góp
phần làm phong phú thêm những tri thức, những kinh nghiệm để tiếp tục hoàn
thiện chủ trương chính sách cũng như hệ thống văn bản pháp luật hồn thiện mơi
trường pháp lí. GSXH của báo chí-truyền thơng đại chúng là giám sát chủ yếu
bằng tai mắt của nhân dân, giám sát bằng DLXH. Đó là q trình giám sát mọi lúc,
mọi nơi. Vai trò và sức mạnh GSXH của báo chí trước hết là xã hội hóa những
việc tốt cũng như các sai phạm của các tổ chức hoặc cá nhân để khơi nguồn và
định hướng dư luận xã hội theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích tạo áp lực dư luận xã
hội và buộc các cơ quan cơng quyền giải quyết trước cơng luận. Đó là việc báo chí
quyền được thơng tin, quyền được biết của nhân dân về mọi vấn đề liên quan đến
họ, là công cụ thực hiện sự công khai và minh bạch-cơ sở và dấu hiệu thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân.