Nâng cao chất lượng công tác thanh tra thu, chi ngân sách trên địa bàn huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG
4
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
4
1.1. Về công tác thanh tra
4
1.1.1. Khái niệm thanh tra
4
1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra
5
1.1.3. Mục đích, nguyên tắc của hoạt động thanh tra
6
1.1.4. Đặc điểm của hoạt động thanh tra
7
1.2. Về chất lượng công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
7
1.2.1. Khái niệm thu, chi Ngân sách nhà nước
7
1.2.2. Khái niệm thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
9
1.3. Mục tiêu của thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
1.4. Chất lượng công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
9
11
1.4.1. Khái niệm
11
1.4.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác thanh tra thu, chi ngân sách
11
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THANH TRA THU, CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG,
15
TỈNH NAM ĐỊNH
15
2.1. Khái quát về đặc điểm công tác thanh tra trên địa bàn huyện
15
2.1.1. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
15
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Thanh tra huyện Xuân Trường
15
2.2. Một số kết quả đạt được
16
2.3. Một số hạn chế, tồn tại
18
2.4. Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại
20
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THANH TRA THU, CHI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH
22
3.1. Các giải pháp hoàn thiện Luật thanh tra và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật 22
3.2. Các giải pháp về tổ chức thi hành Luật thanh tra
23
KẾT LUẬN
27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
29
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh tra là một trong nội dung cơ bản của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, là một chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước. Thanh tra chỉ xuất
hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra. Ngay sau khi
cách mạng tháng 8 năm 1945 thành cơng, nước Việt Nam cộng hịa được thành lập,
Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cũng đã dành nhiều thời gian bàn
về cơng tác thanh tra. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/SL
thành lập Ban Thanh tra đặc biệt có trách nhiệm đi giám sát tất cả các công việc, các nhân
viên của các UBND và các cơ quan của Chính phủ.
Kể từ khi thành lập, cơng tác thanh tra đã góp phần quan trọng trong việc phòng
ngừa, phát hiện và xử lý các sai phạm, kiến nghị và đề xuất nhiều biện pháp để xử lý kịp
thời; kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách nhằm khắc
phục những khiếm khuyết, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước nói chung.
Ngân sách nhà nước được coi là huyết mạch của nền kinh tế, là yếu tố cơ bản
quyết định đến sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế và xã hội. Những năm gần đây,
Ngân sách nhà nước bước đầu được cơ cấu lại một cách mạnh mẽ theo hướng tích cực,
tồn diện, đảm bảo an tồn tài chính, khai thác và sử dụng nguồn lực quốc gia một cách
hiệu quả nhất. Với xu hướng chung đó, cân đối Ngân sách nhà nước của huyện Xuân
Trường ngày càng vững chắc, nguồn thu ngân sách được đảm bảo, đáp ứng những nhu
cầu thiết yếu, đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển toàn diện mọi mặt kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, công tác quản lý thu, chi ngân sách của địa phương vẫn còn những hạn chế,
thu ngân sách chưa bao quát, tình trạng thất thu tiếp diễn; hiệu quả các khoản chi thấp,
chi đầu tư dàn trải, thiếu tập trung gây lãng phí, thất thốt ngân sách.
Trước tình hình này, thanh tra việc quản lý, sử dụng ngân sách ngày càng có vai
trị quan trọng trong việc phát hiện kịp thời các cơ sở yếu kém, đề xuất về cơ chế chính
sách và có biện pháp giải quyết, hoàn thiện hoạt động thu, chi ngân sách tại các địa
phương nói chung, huyện Xuân Trường nói riêng.
Nhận thức rõ được điều này, tại Nghị quyết số 27/2016/QH14 của Quốc hội khóa
XIV ban hành ngày 11/11/ 2016 đã chỉ rõ: “Tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách,
thực hiện dự toán Ngân sách nhà nước đúng quy định của pháp luật. Đẩy mạnh thanh tra,
kiểm tra và công khai, minh bạch việc sử dụng Ngân sách nhà nước, nhất là trong các
lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí”.
Như vậy, cơng tác thanh tra thu, chi ngân sách đã và đang được Đảng, Nhà nước
đặc biệt quan tâm, xem như đây là nhiệm vụ cốt lõi; là công cụ quan trọng trong công
cuộc phịng chống tham nhũng, lãng phí, thất thốt, những vấn đề mà trong thời gian qua
gây bức xúc, làm xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước.
Vì vậy, cùng với việc tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng, việc hoàn thiện, nâng cao chất
lượng hoạt động thanh tra thu, chi ngân sách cũng là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì lý
do đó, sinh viên đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng công tác thanh
tra thu, chi ngân sách trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định” làm đề tài
nghiên cứu kết thúc môn học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác thanh tra thu chi ngân sách, đề tài nghiên
cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra thu, chi ngân sách xã trên
địa bàn huyện Xuân Trường.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về cơng tác thanh tra nói
chung, cơng tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về chất lượng cơng tác thanh tra thu, chi ngân sách
trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, tập trung vào các vấn đề: Kết quả đạt
được; những tồn tại hạn chế; nguyên nhân của tồn tại, hạn chế.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh tra thu, chi ngân
sách trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: lý luận và thực tiễn về chất lượng công tác thanh tra
thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
+ Phạm vi thời gian: giai đoạn 2015-2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập số liệu về công tác lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách
của UBND huyện Xuân Trường, các đơn vị, phòng, ban trực thuộc UBND huyện Xuân
Trường; UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Xn Trường thơng qua Báo cáo
quyết tốn ngân sách, Nghị quyết HĐND huyện, xã, thị trấn.
- Thu thập số liệu liên quan đến công tác thanh tra trên địa bàn huyện Xuân
Trường qua các Báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý, Báo cáo tổng kết, Báo cáo
chuyên đề về công tác thanh tra của UBND huyện Xuân Trường, cơ quan Thanh tra
huyện Xuân Trường. Đồng thời, kế thừa các Báo cáo đánh giá, tổng kết công tác thanh
tra trên địa bàn tỉnh theo năm, theo giai đoạn của UBND tỉnh Nam Định, Thanh tra tỉnh
Nam Định.
- Thu thập số liệu chi tiết về công tác thanh tra thu, chi ngân sách qua các Báo cáo
kết quả thanh tra của Đồn thanh tra, Kết luận thanh tra cơng tác quản lý và sử dụng ngân
sách UBND các xã, thị trấn, các phòng, ban, đơn vị trực thuộc UBND huyện Xuân
Trường tại cơ quan Thanh tra huyện, UBND huyện Xuân Trường.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được kết cấu
gồm 3 chương, 10 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Về công tác thanh tra
1.1.1. Khái niệm thanh tra
Theo Từ điển tiếng Việt “Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa
phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, Thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm:
“Xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy định”. Thanh tra thường đi kèm
với một chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ thanh tra” “Đoàn thanh tra” và “đặt
trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Theo Thuật ngữ pháp lý phổ thông, “thanh tra là một biện pháp của kiểm tra và
nhiệm vụ thanh tra được ủy quyền cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm”
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra,
xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi
một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận
đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phịng ngừa, xử lý
các vi phạm, góp phần hồn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Lần đầu tiên khái niệm thanh tra được định nghĩa trong Luật Thanh tra số
22/2004/QH11 dưới khái niệm thanh tra nhà nước. Theo đó:
Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy
định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành.
Luật Thanh tra năm 2004 sau khi có hiệu lực đã góp phần tạo lập khung pháp lý
quan trọng cho việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, tuy
nhiên vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Để khắc phục hạn chế đó, ngày 15/11/2010,
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII đã thơng
qua Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 thay thế Luật Thanh tra số 22/2004/QH11, theo đó:
“Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao
gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành ”.
Từ những khái niệm trên cho thấy, thanh tra không đồng nhất với hoạt động điều
hành, quản lý, khác với hoạt động kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ. Trong hoạt động,
thanh tra thực thi quyền lực của Nhà nước, tác động đến đối tượng bị quản lý, nhằm
mang lại cho chủ thể quản lý những thơng tin chính xác, khách quan, để từ đó có biện
pháp chấn chỉnh hoạt động quản lý. Hoạt động thanh tra khơng chỉ xem xét tính hợp
pháp, mà cịn xem xét tính hợp lý của hành vi của đối tượng quản lý. Bản chất của hoạt
động thanh tra không phải chỉ là phát hiện, xử lý vi phạm, mà điều quan trọng hơn là tìm
ra nguyên nhân vi phạm để từ đó đề xuất các giải pháp phịng ngừa, ngăn chặn vi phạm.
Nếu cho rằng, thanh tra là phát hiện hành vi vi phạm và áp dụng biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính thì đó là việc nhận thức không đúng với bản chất của hoạt động thanh
tra. Ngược lại, thanh tra phải chỉ ra được những việc làm được, những thiếu sót, khuyết
điểm và nguyên nhân của nó và phải thực sự trở thành ''tai mắt của trên, là người bạn của
dưới''.
1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra
Sự cần thiết của hoạt động thanh tra trong đời sống kinh tế, xã hội bắt nguồn từ
những lý do sau:
- Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước: Thanh tra là phạm trù gắn
liền với hoạt động quản lý nhà nước. Thanh tra chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển trong
xã hội có Nhà nước. Hoạt động thanh tra bắt nguồn từ tính chất và chức năng hoạt động
quản lý nhà nước. Nhà nước không thể quản lý, điều hành mọi hoạt động kinh tế, xã hội
nếu thiếu công tác thanh tra và kiểm tra. Như vậy thanh tra là một nội dung không thể
thiếu của quản lý nhà nước, là một giai đoạn của chu trình quản lý, có vai trò kiểm định,
đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước cần thiết phải có
thanh tra và thanh tra phải phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước.
- Thanh tra là phương thức đảm bảo trật tự kỷ cương trong quản lý, góp phần tăng
cường pháp chế XHCN: Với chức năng giám sát hoạt động của các đối tượng bị quản lý,
thanh tra có thể kịp thời phát hiện những sai phạm và có biện pháp xử lý. Với chức năng,
nhiệm vụ xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hoặc hành vi hành
chính của cán bộ, cơng chức Nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, chức
trách, nhiệm vụ được giao, thanh tra góp phần đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý,
làm trong sạch bộ máy Nhà nước. Mặt khác, việc tìm ra sơ hở, yếu kém trong công tác
quản lý, phát hiện những nộ dung trong chủ trương, chính sách chưa phù hợp với yêu cầu
thực tế khách quan, từ đố có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục kịp thời cũng có ý
nghĩa tích cực trong việc củng cố trật tự, kỷ cương hoàn thiện cơ chế quản lý.
- Thanh tra là một phương thức góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân.
Dân chủ của nhân dân được thực hiện thông qua người đại diện của mình là Nhà nước.
Các tổ chức Thanh tra Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thơng qua việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; thông qua việc
giúp đỡ các Ban Thanh tra nhân dân hoạt động. Đồng thời, qua việc xem xét, kết luận và
kiến nghị giải quyết khiếu nại, tố cáo, phát hiện kịp thời những biểu hiện quan liêu, tiêu
cực, có biện pháp xử lý, khắc phục, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.
1.1.3. Mục đích, nguyên tắc của hoạt động thanh tra
Mục đích thanh tra là nội dung quan trọng đã được pháp luật thanh tra trước đây
đề cập, song từ yêu cầu công tác quản lý nên mỗi giai đoạn cụ thể mục đích của thanh tra
có sự thay đổi nhất định. Nếu như Luật Thanh tra năm 2004 đề cao mục đích thanh tra là
“phịng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật” thì Luật Thanh tra năm
2010 đã thể hiện rõ hơn mục đích thanh tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Tại Điều 2, Luật Thanh tra năm
2010 đã chỉ rõ:
Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính
sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục;
phịng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nguyên tắc của hoạt động thanh tra là cơ sở và tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong
quá trình thực hiện hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra nhà nước.
Nguyên tắc thể hiện những định hướng chủ đạo trong hoạt động thanh tra. Tại Điều 7,
Luật Thanh tra 2010 đã quy định những nguyên tắc của thanh tra: “Tuân theo pháp luật;
bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, cơng khai, dân chủ, kịp thời. Không trùng lặp
về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức
năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là
đối tượng thanh tra”.
1.1.4. Đặc điểm của hoạt động thanh tra
- Thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước: Trong mối quan hệ giữa quản lý và
thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra
đường lối, chủ trương, quy định thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, sử dụng các kết
quả, các thơng tin từ phía các cơ quan Thanh tra).
- Thanh tra ln mang tính quyền lực nhà nước: Thanh tra là một hoạt đơng ln
ln mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà
nước. Thanh tra (với tư cách là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng này) luôn luôn áp
dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân
danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó.
- Thanh tra có tính độc lập tương đối: Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản
chất của thanh tra. Tính độc lập tương đối trong q trình thanh tra được thể hiện trên các
điểm sau: tuân theo pháp luật; tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh
tế - xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định; ra các kết luận, kiến nghị, quyết
định xử lý theo các quy định của pháp luật về thanh tra; chịu trách nhiệm về Quyết định
thanh tra của mình.
1.2. Về chất lượng cơng tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm thu, chi Ngân sách nhà nước
Tại Điều 1 và 2 của Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ
2 thơng qua ngày 16/12/2002 có nêu: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Ngân sách nhà nước có vai trị rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai trị của Ngân sách
nhà nước ln gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với
nền kinh tế thị trường, Ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mơ đối với tồn
bộ nền kinh tế, xã hội. Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã
hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời
sống xã hội.
Thu Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu
từ hoạt kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản
viện trợ và các khoản thu khác theo qui định của pháp luật. Về bản chất, thu Ngân sách
nhà nước là hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị nảy sinh trong quá trình
Nhà nước dùng quyền lực chính trị tập trung các nguồn lực tài chính trong xã hội để hình
thành quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của nhà nước. Về phương diện pháp lý, thu
Ngân sách nhà nước bao gồm những khoản tiền nhà nước huy động vào ngân sách để
thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Theo Điều 2 Nghị định số 60/2003/NĐ - CP
ngày 06/06/2003 của Chính phủ thì thu Ngân sách nhà nước bao gồm:
Thuế do các tổ chức, cá nhân nộp theo qui định của pháp luật; phần nộp Ngân sách
nhà nước theo qui định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động
kinh tế của nhà nước theo qui định của pháp luật; phần nộp ngân sách theo qui định của
pháp luật từ các hoạt động sự nghiệp; tiền sử dụng đất, thu từ hoa lợi công sản, tài sản
cơng và đất cơng ích; tiền cho th đất, thuê mặt nước; huy động từ các tổ chức, cá nhân
theo qui định của pháp luật; các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở
trong và ngoài nước; thu từ huy động vốn đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng;
phần nộp Ngân sách nhà nước theo qui định của pháp luật từ tiền bán hoặc cho thuê tài
sản thuộc sở hữu nhà nước; các khoản viện trợ khơng hồn lại của Chính phủ các nước,
các tổ chức, cá nhân ở nước ngồi cho Chính phủ Việt Nam, các tổ chức nhà nước thuộc
địa phương; thu từ Quỹ dự trữ tài chính; thu kết dư ngân sách; các khoản thu khác theo
qui định của pháp luật.
Chi Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
quốc phòng an ninh, đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước, chi viện trợ và các khoản
chi khác theo qui định của pháp luật. Đứng về phương diện pháp lí, chi Ngân sách nhà
nước là những khoản chi tiêu do Chính phủ hoặc các pháp nhân hành chính thực hiện để
đạt được các mục tiêu cơng ích như giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, trật tự an an toàn
xã hội. Xét về bản chất, chi Ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ phân phối lại
những khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước như thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, mở rộng các sự nghiệp văn hóa xã hội, duy trì hoạt động bộ máy nhà nước, đảm bảo
quốc phòng an ninh. Theo Điều 2 Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 06/06/2003 của
Chính phủ thì chi ngân sách bao gồm:
Chi đầu tư phát triển; chi thường xuyên; chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do
Chính phủ vay; chi viện trợ của ngân sách trung ương cho các chính phủ và tổ chức ngoài
nước; chi cho vay của ngân sách trung ương; chi trả gốc và lãi các khoản huy động đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc ngân sách cấp tỉnh theo qui định tại khoản 3 Điều 8
của Luật Ngân sách nhà nước; chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính; chi bổ sung ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới; chi chuyển nguồn ngân sách năm trước sang ngân sách
năm sau [10].
1.2.2. Khái niệm thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
Trên cơ sở định nghĩa về cơng tác thanh tra, có thể khái qt về thanh tra thu, chi
ngân sách như sau: Thanh tra thu chi ngân sách là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ
quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước về công
tác thu và chi Ngân sách nhà nước, nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, chính sách, chế độ thu, chi Ngân sách nhà nước đối với các tổ chức, đơn
vị cà cá nhân.
Thanh tra thu chi Ngân sách nhà nước là một phần trong hoạt động thanh tra tài
chính, thuộc lĩnh vực thanh tra nhà nước, được tiến hành trong quá trình chấp hành nghĩa
vụ thu, chi Ngân sách nhà nước. Trong thời gian qua, xã hội đã chứng kiến rất nhiều vụ
án với giá trị sai phạm rất lớn, mà chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực chi tiêu Ngân sách
nhà nước, gây thiệt hại rất lớn cho Ngân sách nhà nước. Đồng tiền của Nhà nước chi ra
đã không mang lại hiệu quả phục vụ cho sự phát triển của đất nước, bị thất thốt và lãng
phí rất nhiều. Từ những thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta hiện nay rất quan tâm đến
cơng tác thanh tra tài chính, trong đó thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước được dư luận
đặt biệt quan tâm và là một đòi hỏi cần thiết nhất đối với cơng cuộc phịng chống tham
nhũng hiện nay ở nước ta.
1.3. Mục tiêu của thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
Từ những mục tiêu chung của công tác thanh tra, mục tiêu cụ thể của thanh tra thu,
chi ngân sách được xác định như sau:
- Phịng ngừa, ngăn ngừa những sai phạm, thiếu sót, tiêu cực có thể xảy ra trong
q trình thực hiện các nghiệp vụ thu, chi Ngân sách nhà nước của các tổ chức, đơn vị và
cá nhân.
- Phát hiện sớm, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm trong quá trình thu, chi
Ngân sách nhà nước của các tổ chức, đơn vị, cá nhân.
- Phát hiện những điểm bất cập, lạc hậu, khơng phù hợp của cơ chế, chính sách
liên quan đến công tác quản lý và sử dụng Ngân sách nhà nước để kiến nghị kịp thời sửa
đổi, hồn thiện, bổ sung chế độ, chính sách và cơ chế phù hợp.
- Góp phần từng bước hồn thiện tổ chức bộ máy thu, chi Ngân sách nhà nước,
tăng cường công tác quản lý cán bộ thực hiện thu, chi Ngân sách nhà nước và nâng cao ý
thức tuân thủ của các đối tượng liên quan.
- Tác động đến việc thực hiện tốt dự toán thu, chi Ngân sách nhà nước, đảm bảo
tính đúng đắn, chính xác, kịp thời, cơng khai, minh bạch
Tại điều 3, Nghị định 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra và tại điều 4, Quyết định số 32/2006/QĐBTC ngày 6/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính quy định về quy chế hoạt động thanh
tra, kiểm tra tài chính nêu rõ:
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính
xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở đến hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, kiểm tra.
- Khi tiến hành thanh tra, kiểm tra người ra quyết định thanh tra, kiểm tra, Trưởng
đoàn thanh tra, kiểm tra, thanh tra viên, thành viên đoàn thanh tra, kiểm tra phải thực hiện
đúng các qui định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra và phải chịu trách nhiệm cá nhân
về hành vi, quyết định của mình.
- Sau khi kết thúc thanh tra, phải có Kết luận thanh tra; các Đồn thanh tra tài
chính phải bàn giao đủ hồ sơ, tài liệu, chứng lý cho cơ quan quyết định thanh tra theo
đúng qui định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Mặt khác, để đạt được mục đích đã đặt ra, trong q trình tiến hành thanh tra, cán
bộ làm công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước phải đảm bảo đáp ứng được các
yêu cầu:
Phải nắm vững các văn bản pháp luật, hướng dẫn có liên quan đến cơng tác quản
lý, sử dụng NSN; nắm vững quy trình tiến hành một cuộc thanh tra. Phải quán triệt một
cách đầy đủ các nguyên tắc thanh tra; người làm công tác thanh tra phải có quan điểm
thanh tra đúng đắn (quan điểm tồn diện, lịch sử, cụ thể...). Đánh giá, kết luận phải chính
xác, khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật. Những kiến nghị, đề xuất xử lý phải căn cứ
vào các điều luật đã quy định, phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo tính khả thi.
Đây là những yêu cầu cụ thể về yêu cầu hoạt động thanh tra nói chung và hoạt
động thanh tra thu, chi ngân sách nói riêng. Các cuộc thanh tra, đồn viên đồn thanh tra
phải tuân thủ đúng những yêu cầu này trong quá trình hoạt động, thực hiện nhiệm vụ,
đảm bảo đồn thanh tra thực hiện đúng chức năng theo pháp luật quy định.
1.4. Chất lượng công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước
1.4.1. Khái niệm
Chất lượng hoạt động thanh tra là một chỉ tiêu phức tạp, khó đo lường, định lượng,
thiếu tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá, bởi vì hoạt động thanh tra đa dạng, phức tạp và mang
tính chất đặc thù riêng trong từng cuộc thanh tra cũng như trong các cơ quan Thanh tra
Nhà nước khác nhau. Một cách khái quát nhất, có thể hiểu chất lượng hoạt động thanh tra
là tổng hòa kết quả thực hiện các nội dung trong công tác thanh tra; được thể hiện ở hiệu
lực, hiệu quả, mức độ tác động, ảnh hưởng của hoạt động thanh tra đối với đối tượng,
lĩnh vực, nội dung được thanh tra.
1.4.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác thanh tra thu, chi ngân sách
Từ thực tiễn triển khai các hoạt động cho thấy, các tiêu chí đánh giá sẽ giúp minh
bạch hóa, đồng thời là địn bẩy để thúc đẩy các lĩnh vực cơng tác phát huy được hiệu quả.
Đối với công tác thanh tra, theo nhận định của tác giả, để công tác thanh tra có thể ngày
càng phát huy được vị trí, vai trị của mình trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thì chất lượng, hiệu quả cơng tác thanh tra tại các ngành, lĩnh vực, địa phương cần được
đánh giá khách quan trên các tiêu chí cụ thể, rõ ràng, minh bạch.
Tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác thanh tra nói chung, cơng tác thanh tra thu,
chi ngân sách nói riêng là những dấu hiệu, tiêu chuẩn nhất định làm cơ sở cho việc đánh
giá. Mỗi tiêu chí được xem là một căn cứ để xác định chất lượng của công tác thanh tra ở
một phương diện nhất định.
Trên thực tế, chưa có quy định nào hướng dẫn bộ tiêu chí để đánh giá chất lượng
hoạt động thanh tra. Việc xác định những tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả, hiệu lực
hoạt động thanh tra chủ yếu dựa trên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, mang tính chủ quan
và tương đối. Thanh tra thu, chi ngân sách là một trong những nội dung quan trọng của
công tác thanh tra, do đó những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động thanh tra thu, chi
ngân sách cũng dựa trên cơ sở những tiêu chí đánh giá chất lượng của hoạt động thanh
tra.
a/ Mục đích của hoạt động thanh tra:
Đây là căn cứ đầu tiên và cũng là căn cứ quan trọng nhất mà cơ quan, người có
thẩm quyền dựa vào đó để đánh giá chất lượng hoạt động thanh tra. Mỗi hoạt động thanh
tra cụ thể có những mục đích cụ thể phù hợp với đặc điểm, tính chất của cuộc thanh tra
đó, khi đánh giá kết quả hoạt động thanh tra, cơ quan, người có thẩm quyền nhất thiết
phải dựa vào căn cứ này và cần thực hiện những công việc sau: Xem lại một cách kỹ
lưỡng mục đích được đề ra ban đầu cho hoạt động thanh tra. Đối chiếu kết quả của hoạt
động thanh tra với mục đích được đề ra đó và xác định: mục đích đề ra có đạt được hay
khơng; mục đích đề ra đạt được như thế nào, có thể ước lượng được bao nhiêu phần trăm;
nguyên nhân của việc không đạt được mục đích đề ra.
b/ Yêu cầu của hoạt động thanh tra:
Mỗi hoạt động thanh tra cụ thể vừa phải đảm bảo những yêu cầu chung vừa phải
đảm bảo những yêu cầu riêng. Những yêu cầu của hoạt động thanh tra được đảm bảo
hoặc không đảm bảo đều ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động thanh tra. Vì
vậy, cơ quan, người có thẩm quyền cần phải dựa vào đó để đánh giá kết quả hoạt động
thanh tra. Khi dựa vào căn cứ này, cơ quan, người có thẩm quyền cần: Xem lại một cách
đầy đủ những yêu cầu đặt ra cho hoạt động thanh tra. Kiểm tra, đối chiếu, xem xét những
yêu cầu nào được đảm bảo thực hiện, những yếu tố nào không được thực hiện hoặc thực
hiện không tốt. Xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan của những yêu cầu không
được thực hiện hoặc thực hiện không tốt.
c/ Nội dung đã thực hiện của hoạt động thanh tra:
Mỗi hoạt động thanh tra đều có nội dung của nó. Nội dung của hoạt động giám sát,
kiểm tra, thanh tra là những công việc cụ thể thuộc vào nội dung vụ việc mà chủ thể
thanh tra phải giải quyết. Việc thực hiện nộ dung này đúng hay không đúng, tốt hay
không tốt đều ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thanh tra. Vì vậy, cơ quan, người có
thẩm quyền cần căn cứ vào nội dung đã thực hiện của hoạt động thanh tra để đánh giá.
Cụ thể là: Xem lại những nội dung công việc mà chủ thể thanh tra phải giải quyết: những
công việc đó là gì, cơng việc nào là trọng tâm, mức độ và phạm vi xem xét, giải quyết
mỗi công việc là gì? Xem lại những nội dung cơng việc mà chủ thể thanh tra đã thực
hiện. Đối chiếu những nội dung công việc phải thực hiện với những công việc đã thực
hiện của chủ thể thanh tra.
Trong quá trình đánh giá các nội dung của chỉ tiêu này, cần tập trung vào:
- Sự chuẩn bị nguồn lực đầu vào phù hợp với tầm quan trọng và mức độ phức tạp
của cuộc thanh tra (chi phí, phương tiện đi lại, thời gian khảo sát, thời gian tiến hành
thanh tra...).
- Sự phù hợp, đúng đắn khi xác định nội dung, đối tượng, kế hoạch chi tiết triển
khai cuộc thanh tra; trong quá trình tổ chức thực hiện cơng tác thanh tra (từ khâu chuẩn bị
và quyết định thanh tra; tiến hành thanh tra; kết thúc thanh tra).
- Sự bảo đảm đầy đủ chứng cứ, tính khách quan, kịp thời, dễ hiểu của những kết
luận, nhận định, kiến nghị của thanh tra về tồn tại, sai phạm trong công tác quản lý, sử
dụng Ngân sách nhà nước.
- Công tác phối hợp giữa tổ chức tiến hành thanh tra với các cơ quan, tổ chức, đơn
vị liên quan trong q trình thực hiện (Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Cơng an, Tịa án
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân...). Sự gắn kết và phối hợp linh hoạt, ăn ý, mềm dẻo
với hoạt động của các cơ quan chuyên môn khác trong cùng một hệ thống cơ quan, đơn
vị hoặc giữa các tổ chức thuộc các cơ quan khác nhau trong thực hiện nhiệm vụ công vụ.
d/ Thời hạn của hoạt động thanh tra:
Thời hạn hoạt động thanh tra là khoảng thời gian mà chủ thể thực hiện hoạt động
thanh tra phải thực hiện, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Khi đánh giá kết quả, chất lượng
của hoạt động thanh tra cần căn cứ vào thời hạn của hoạt động thanh tra để xem xét: Khi
hoạt động thanh tra hồn thành trong thời hạn hoặc trước thời hạn thì được đánh giá cao
hơn hoạt động thanh tra mà không hoàn thành nhiệm vụ trong thời hạn quy định (xét ở
tiêu chí thời hạn). Khi đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra về mặt thời hạn cần lưu ý
đến trường hợp khơng hồn thành nhiệm vụ thanh tra trong thời hạn quy định là do
những trở lực khách qun như: xuất hiện vấn đề mới, đối tượng thanh tra tiêu hủy tài liệu,
chứng cứ hoặc bỏ trốn... Sự lưu ý trong trường hợp này để đánh giá chất lượng của hoạt
động thanh tra về mặt thời hạn đảm bảo tính tồn diện, khách quan và cơng bằng.
e/ Hiệu quả, tác động của hoạt động thanh tra:
Khi thực hiện đánh gia kết quả hoạt động thanh tra cần phải căn cứ vào hiệu quả,
tác động của hoạt động thanh tra. Cụ thể là: Xem xét hoạt động thanh tra có đạt hiệu quả
hay khơng, cơng việc cụ thể nào đạt hiệu quả, công việc cụ thể nào không đạt hiệu quả,
hiệu quả đạt được là gì? Xem xét tác động của hoạt động thanh tra đối với các khía canh:
chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, quản lý nhà nước. Những tác động cụ thể đối với từng
khía cạnh như thế nào.
- Tác động về chính trị: Tác động đối với đường lối chính trị như thế nào (bảo đảm
thực hiện đường lối chính trị; góp phần hồn thiện đường lối chính trị...); tác động đối với
việc thúc đẩy dân chủ trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước; tác động đối với việc
thúc đẩy quyền dân chủ của công dân như thế nào?
- Tác động về kinh tế: Nâng cao hiệu quả về kinh tế các cơ quan, tổ chức, cơng
dân; bảo vệ lợi ích về kinh tế của các cơ quan, tổ chức, công dân.
- Tác động về xã hội: Bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
cơ quan, tổ chức, cơng dân; góp phần duy trì trật tự và ổn định các mối quan hệ xã hội
như thế nào?
- Tác động đối với pháp luật và quản lý Nhà nước: Bảo vệ được pháp luật hay
không;, kiến nghị để hoàn thiện những quy định pháp luật như thế nào? Chấn chỉnh được
hoạt động quản lý nhà nước hay không, những hoạt động nào đã chấn chỉnh được, những
hoạt động nào chưa thực hiện được?
f/ Quy định của pháp luật, quy chế hoạt động của thanh tra:
Bất cứ hoạt động nào của Nhà nước đều phải được thực hiện trên cơ sở quy định
của pháp luật. Đây là căn cứ để đánh giá hoạt động của cơ quan Nhà nước, người có thẩm
quyền hợp pháp hay khơng. Đồng thời, pháp luật cũng là căn cứ để đánh giá hay kết luận
thanh tra có đầy đủ cơ sở pháp lý hay không. Bên cạnh quy định của pháp luật, hoạt động
thanh tra còn thực hiện theo quy chế hoạt động thanh tra. Quy chế này cũng là cơ sở để
đánh giá hoạt động thanh tra đúng quy chế hay vi phạm quy chế. Vì thế, khi đánh giá kết
quả, chất lượng hoạt động của thanh tra cần phải dựa vào cơ sở quy định pháp luật và quy
chế hoạt động thanh tra.
Tóm lại, tiêu chí đánh giá hiệu quả cơng tác thanh tra là những dấu hiệu, tiêu
chuẩn nhất định làm cơ sở cho việc đánh giá. Mỗi tiêu chí được xem là một căn cứ để xác
định hiệu quả của công tác thanh tra ở một phương diện nhất định. Việc xây dựng hệ
thống tiêu chí đánh giá hiệu quả, hiệu lực hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra tài
công tác quản lý, sử dụng Ngân sách nhà nước nói riêng là khó khăn nhưng cần thiết cho
việc xem xét, đánh giá kết quả và những tác động của thanh tra đối với công tác quản lý,
sử dụng Ngân sách nhà nước. Để đánh giá đúng, đầy đủ hiệu quả, chất lượng của công
tác thanh tra cần phải có đủ các tiêu chí cần thiết liên quan đến cơng tác thanh tra; đảm
bảo được tính khách quan, chuyên sâu, tổng hợp trong quá trình đánh giá.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THANH TRA THU,
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG,
TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Khái quát về đặc điểm công tác thanh tra trên địa bàn huyện
2.1.1. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Thực hiện quy định pháp luật về thanh tra, UBND huyện Xuân Trường giao
Thanh tra huyện tham mưu, giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, xử lý, giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh
trong các cuộc thanh tra; chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc UBND huyện, UBND
các xã, thị trấn trên địa bàn nghiêm túc thực hiện các quy định tại Luật Thanh tra và các
văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Về cơ cấu biên chế: Cơ quan Thanh tra huyện có tổng số 06 biên chế, trong
đó có: 01 Chánh thanh tra, 01 Phó Chánh thanh tra, 04 Thanh tra viên.
Căn cứ vào tình hình thực tế, để nâng cao năng lực cơng tác, hiệu quả hoạt động
của cơ quan Thanh tra huyện, hàng năm UBND huyện đã xây dựng kế hoạch đào tạo, cử
các công chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Thanh tra viên, nghiệp vụ Thanh
tra viên chính do Trường Cán bộ thanh tra tổ chức.
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Thanh tra huyện Xuân Trường
Theo Luật Thanh tra 2010 và các văn bản chi tiết, hướng dẫn thi hành, cơ
quan Thanh tra huyện có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Trong quản lý nhà nước về thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước của UBND
huyện: Xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch UBND huyện phê duyệt và tổ chức
thực hiện kế hoạch đó; báo cáo kết quả về cơng tác thanh tra; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Chủ tịch UBND
huyện, Thanh tra huyện
- Trong hoạt động thanh tra: Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, của UBND các xã,
thị trấn trên địa bàn huyện; Thanh tra vụ việc phức tạp, có liên quan đến trách nhiệm của
nhiều cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện; Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch UBND huyện giao.
- Giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;
thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại,
tố cáo.
- Giúp UBND huyện quản lý nhà nước về cơng tác phịng, chống tham nhũng;
thực hiện nhiệm vụ phịng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
2.2. Một số kết quả đạt được
Thứ nhất, mục đích các cuộc thanh tra thu, chi ngân sách đúng đắn, chính xác, cụ
thể phù hợp với đặc điểm, tính chất của cuộc thanh tra đó. Đây là căn cứ đầu tiên và cũng
là căn cứ quan trọng nhất mà cơ quan, người có thẩm quyền dựa vào đó để đánh giá chất
lượng hoạt động thanh tra. Hoạt động thanh tra thu, chi ngân sách trong thời gian qua đã
giúp phịng ngừa, ngăn ngừa những sai phạm, thiếu sót, tiêu cực có thể xảy ra trong q
trình thực hiện các nghiệp vụ thu, chi Ngân sách nhà nước của các tổ chức, đơn vị và cá
nhân; đồng thời phát hiện sớm, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm trong quá trình thu,
chi Ngân sách nhà nước của các tổ chức, đơn vị, cá nhân.
Thứ hai, các cuộc thanh tra thu, chi ngân sách được thực hiện cơ bản đáp ứng yêu
cầu của một cuộc thanh tra ngân sách. Họat động thanh tra ngân sách tuân theo pháp luật;
bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, cơng khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản
trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, kiểm
tra. Mặt khác, để đạt được mục đích đã đặt ra, trong q trình tiến hành thanh tra, cán bộ
làm công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước phải đảm bảo đáp ứng được các u
cầu về trình độ chun mơn, nghiệp vụ; khả năng đánh giá, tổng hợp, phân tích số liêu;
trên cơ sở đó có những đề xuất phù hợp.
Thứ ba, về cơ bản, công tác thanh tra đã được tiến hành trên cơ sở tuân thủ chặt
chẽ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện quyền trong hoạt động thanh
tra, bao gồm các bước tổ chức thực hiện quyền, việc ban hành các văn bản như quyết
định, kết luận, công văn yêu cầu, biên bản... Công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà
nước được tiến hành với sự tập trung, huy động tối đa nguồn nhân lực, có trọng tâm,
trọng điểm, tránh được sự trùng lặp, chồng chéo, đảm bảo tiết kiệm tiết kiệm được thời
gian, công sức và tiền bạc của nhà nước. Chú trọng đến cơng tác đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức công tác trong
ngành thanh tra; đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định pháp luật và thực tế yêu cầu công việc.
Nguồn nhân lực thực hiện công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước cơ bản đáp ứng
yêu cầu, tiêu chuẩn được quy định tại Luật Thanh tra 2010 và Nghị định số 97/2011/NĐCP ngày 21 tháng 10 năm 2011 quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra, các
văn bản hướng dẫn thi hành khác. Thành viên đồn thanh tra am hiểu chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để vận dụng vào hoạt động thanh tra;
có khả năng am hiểu tình hình kinh tế - xã hội; khả năng nắm được nguyên tắc, chế độ,
chính sách, quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung, trong
đó am hiểu, nắm bắt được đầy đủ, tồn diện các quy định pháp luật liên quan đến công
tác quản lý và sử dụng Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, mỗi một thành viên đồn thanh
tra ln tự trang bị cho bản thân kiến thức, nội dung thực hiện quy trình nghiệp vụ thanh
tra. Sự am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng áp dụng những phương pháp
thanh tra một cách linh hoạt, phù hợp đã giúp thành viên đồn thanh tra nhanh chóng chỉ
ra được những tồn tại, sai phạm trong công tác quản lý, sử dụng Ngân sách nhà nước theo
những mục tiêu đã đề ra.
Thứ tư, việc kiểm tra, xác minh hồ sơ, tài liệu tại đơn vị được tiến hành theo đúng
quy định pháp luật (30 ngày làm việc kể từ ngày công bố quyết định thanh tra). Trong
trường hợp những cuộc thanh tra có nội dung phức tạp, nhiều yếu tố cần phải xác minh,
thực hiện gia hạn thời gian kiểm tra, xác minh, đảm bảo theo quy định pháp luật.
Thứ năm, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương,
cơng tác thanh tra ngày càng được chú trọng, phát huy được tính tích cực, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Qua thanh tra, phát hiện, xử lý, chấn chỉnh
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng có liên quan, bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của nhân dân; xử lý thu hồi các khoản thu, chi Ngân sách nhà nước chưa
đảm bảo quy định pháp luật, yêu cầu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong
quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, hướng dẫn công tác thu, chi Ngân sách nhà nước đảm
bảo quy định pháp luật đối với các đơn vị được thanh tra.
Đồng thời, công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước được thực hiện với nội
dung cốt lõi liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng Ngân sách nhà nước tại địa phương
trong thời gian qua. Với việc sử dụng một cách đồng bộ các biện pháp nhằm phát huy tối
đa vai trị của cơng tác thanh tra; hoạt động thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước trong
giai đoạn 2014- 2016 cơ bản đã đạt được những mục tiêu đề ra, cụ thể: góp phần phịng
ngừa, ngăn ngừa những sai phạm, thiếu sót, tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình thực
hiện các nghiệp vụ thu, chi Ngân sách nhà nước của các tổ chức, đơn vị và cá nhân. Phát
hiện sớm, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm trong quá trình thu, chi Ngân sách nhà
nước của các tổ chức, đơn vị, cá nhân. Qua đó, góp phần từng bước hoàn thiện tổ chức bộ
máy thu, chi Ngân sách nhà nước, tăng cường công tác quản lý cán bộ thực hiện thu, chi
Ngân sách nhà nước và nâng cao ý thức tuân thủ của các đối tượng liên quan. Hướng dẫn
kịp thời các đơn vị trong công tác lập dự toán, chấp hành dự toán, quyết toán thu, chi
Ngân sách nhà nước tại các đơn vị được thanh tra.
Thứ sáu, hoạt động thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước đã được tiến hành trên
cơ sở các yêu cầu quy định tại điều 3, Nghị định 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra và tại điều 4, Quyết
định số 32/2006/QĐ-BTC ngày 6/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính quy định về quy
chế hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính. Thanh tra huyện Xuân Trường đã chủ động
tham mưu cho Chủ tịch UBND huyện Xuân Trường trong quản lý nhà nước về công tác
thanh tra. Hoạt động thanh tra nói chung, thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước nói riêng
được tiến hành trên cơ sở quy định pháp luật về Thanh tra, tài chính, ngân sách và các
nội dung khác có liên quan; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân
chủ, kịp thời; khơng làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân
là đối tượng thanh tra. Sau khi kết thúc thanh tra, phải có Kết luận thanh tra; các Đoàn
thanh tra tiến hành bàn giao đủ hồ sơ, tài liệu, chứng lý cho cơ quan quyết định thanh tra
theo đúng qui định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thực hiện..
2.3. Một số hạn chế, tồn tại
- Công tác chuẩn bị trước khi tiến hành thanh tra cịn hạn chế, việc nắm thơng tin
về nội dung thanh tra chưa đầy đủ, việc khảo sát xây dựng đề cương chưa được coi trọng
đúng mức dẫn đến đề cương, kế hoạch thanh tra chưa xác định được trọng tâm, trọng
điểm. Theo quy định, trước khi ban hành quyết định thanh tra, trong trường hợp cần thiết,
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cử công
chức hoặc Tổ cơng tác thu thập thơng tin, tài liệu, nắm tình hình về đối tượng thanh tra,
địa bàn được thanh tra và các nội dung có liên quan. Tuy nhiên, cơng tác thu thập thông
tin, tài liệu ở bước này hầu như chưa được chú trọng, khi tiến hành thanh tra chưa tiên
lượng được phần việc và tính phức tạp của nội dung thanh tra nên không chủ động để
thực hiện, trong nhiều trường hợp gây nên sự lúng túng trong định hướng cơng việc,
thành viên đồn thanh tra gặp nhiều khó khăn trong khâu thẩm tra, xác minh, phối hợp xử
lý thông tin, số liệu và báo cáo, kết luận nội dung thanh tra.
- Việc xây dựng báo cáo theo đề cương của đối tượng thanh tra còn chưa đảm bảo
theo yêu cầu của Đoàn thanh tra. Báo cáo theo đề cương của đối tượng thanh tra là cơ sở
đầu tiên để Đoàn thanh tra có những đánh giá tổng quát, thu thập những số liệu, thông tin
cơ bản liên quan đến nội dung thanh tra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đơn vị
được thanh tra không chủ động trong khâu xây dựng báo cáo, phụ thuộc vào sự hướng
dẫn của Đoàn thanh tra; nhiều đơn vị tổng hợp số liệu chưa chính xác, chưa nhận rõ được
tầm quan trọng của việc báo cáo theo đề cương yêu cầu của Đoàn thanh tra.
- Việc duy trì chế độ thơng tin và xử lý vấn đề phát sinh giữa thành viên Đoàn
thanh tra trong các khâu lập biên bản, Báo cáo kết quả thanh tra của thành viên Đoàn
thanh tra chưa được sâu sát, chưa được thảo luận kỹ nên chưa phát hiện kịp thời những
vướng mắc để xử lý ngay trong khi còn thanh tra tại đơn vị. Nội dung báo cáo thường dàn
trải, chưa nêu bật được tính chất, mức độ sai phạm và trách nhiệm của cá nhân có liên
quan; các nội dung nêu trong dự thảo báo cáo chỉ dừng lại mô tả sự việc, chưa xem xét
đầy đủ các sự kiện có liên quan, chứng cứ chưa chắc chắn nên khi đánh giá, kết luận rất
khó và thường có ý kiến khác nhau giữa các thành viên Đồn thanh tra; Mặc dù Đồn
thanh tra có nhiều cố gắng trong việc thẩm tra, xác minh, kết luận các nội dung thanh tra
nhưng chất lượng báo cáo kết quả thanh tra cịn hạn chế.
- Tính chủ động, độc lập trong hoạt động của cơ quan thanh tra chưa được đảm
bảo. Điều này thể hiện ở sự phụ thuộc quá nhiều vào UBND huyện về tổ chức, nhân sự,
kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành
thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử lý.
- Công tác phối hợp giữa tổ chức tiến hành thanh tra với các cơ quan, tổ chức, đơn
vị liên quan trong quá trình thực hiện (Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Cơng an, Tòa án
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân...) chưa đảm bảo. Trong nhiều trường hợp, q trình
cung cấp thơng tin của các đơn vị có liên quan như Phịng Lao động - Thương binh & xã
hội, phịng Tài chính - Kế hoạch, Nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa đảm bảo, kịp
thời; hạn chế tính phối hợp trong công tác thanh tra thu, chi Ngân sách nhà nước nói
riêng, cơng tác thanh tra nói chung.
- Cơng tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý
sau thanh tra còn chưa triệt để. Việc xử lý sau thanh thiếu sự kiên quyết của một số cơ
quan chức năng. Trong hoạt động thanh tra liên ngành, một số thành viên tham gia chưa
tích cực. Theo kế hoạch hàng năm, Thanh tra huyện đã tiến hành các cuộc kiểm tra việc
thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra, thanh tra trách nhiệm của