Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.73 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ 4: NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
Họ và tên : NGUYỄN QUỐC HƯNG
Lớp: K7A
MSSV: 193801010267


MỤC LỤC
A. Mở đầu......................................................................................................... 1
B. Nội dung....................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.... 2
1. Khái niệm và ý nghĩa các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt
Nam ............................................................................................................................. 2
2. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc đảm bảo tranh tụng .............. 2
3. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng ......................................... 8
4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với các nguyên tắc
khác ............................................................................................................ 9
II. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử ............................................................................. 10
1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người
tham gia tố tụng..................................................................................................... 10
2. Quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh
tụng trong xét xử ..................................................................................... 14
3. Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong xét xử ..................................................................................... 16
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử
và kiến nghị ............................................................................................................. 20
1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử .. 20


2. Kiến nghị về nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử ............ 27
C. Kết luận ..................................................................................................... 30


Danh mục viết tắt

HĐXX: Hội đồng xét xử
TTDS: Tố tụng dân sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
TAND: Tòa án nhân dân
KSV: Kiểm sát viên
THTT: Tiến hành tố tụng


A. Mở đầu
Theo các nhà nghiên cứu, tố tụng tranh tụng xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu, cùng
với sự xuất hiện của Tịa án nhà nước. Loại hình tố tụng này được áp dụng tại Hy Lạp
cổ đại, sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Cùng với
thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và cho đến nay nó được áp dụng
ở hầu hết các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ. Ở Việt
Nam, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Tranh tụng là
phương tiện để các bên trong tranh chấp tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình dựa trên các quy định của pháp luật và chứng cứ, chứng minh. Nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tư pháp của hầu hết các
quốc gia dân chủ và pháp quyền. Đó là một tiêu chí quan trọng để đánh giá tính dân
chủ và pháp quyền của một quốc gia. Chính vì thế, các văn kiện của Đảng về cải cách
tư pháp và Hiến pháp năm 2013 đều ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một bộ phận
quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung và hoạt động của hệ thống tịa
án nhân dân nói riêng. Tranh tụng trong tố tụng dân sự có vai trị hết sức quan trọng,
nó khơng chỉ là sự đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà

cịn có tác dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Nó chính là cơ chế tối ưu nhất
để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tịa,
phát huy được tối đa mặt tích cực của nó thì cần có sự nghiên cứu sâu sắc cả về mặt
lý luận cũng như thực tiễn áp dụng tranh tụng tại phiên tịa. Vì thế em xin lựa chọn
đề tài “Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử- Những vấn đề lý luận và thực
tiễn”. Bài tiểu luận sẽ khái quát chung về nguyên tắc, phân tích các quy định liên
quan và nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong thực tiễn.
Từ đó, đưa ra các kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp dụng dụng nguyên tắc này. Vì
sự hạn chế về điều kiện tài liệu và hiểu biết nên khi nghiên cứu khơng thể tránh khỏi
những sai sót mong thầy (cơ) đóng góp ý kiến để bài làm của em có thể được hồn
thiện hơn. Em xin cảm ơn.

1


B. Nội dung
I. Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử
1. Khái niệm và ý nghĩa các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.1. Khái niệm nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam
Nguyên tắc của một ngành luật hiểu chung là những nguyên lý, tư tưởng pháp lý
chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy định của ngành
luật đó. Luật TTDS là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì vậy,
việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự phải dựa trên
những tư tưởng, nguyên lý nhất định xuất phát từ việc xác định nhiệm vụ của Luật.
Nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam là những nguyên lý, tư tưởng pháp
lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. [18]
1.2. Ý nghĩa của các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam
Trong xây dựng pháp luật tố tụng dân sự, phải dựa vào các nguyên tắc của Luật tố

tụng dân sự để xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể phù hợp, tránh được sự mâu
thuẫn, chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật hoặc thiếu sự nhất quán giữa các văn
bản pháp luật. Ngoài ra, dựa vào các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự cũng có thể
tìm ra những mâu thuẫn, khiếm khuyết của các quy phạm pháp luật đã ban hành để
sửa chữa, bổ sung và hồn thiện các quy phạm đó. Trong tố tụng dân sự, việc thực
hiện đúng các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự tạo điều kiện cho việc giải quyết
vụ việc dân sự được thuận lợi, ngăn chặn được những tiêu cực nảy sinh trong quá
trình tố tụng, bảo đảm cho các đương sự có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của họ trước Toà án. Trong trường hợp pháp Luật tố tụng dân sự khơng có quy định
cụ thể thì các chủ thể tố tụng có thể căn cứ vào các nguyên tắc của Luật tố tụng dân
sự mà xác định phương hướng và thực hiện các hành vi tố tụng của mình. [4]
2. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc đảm bảo tranh tụng
2.1. Tranh tụng trong Tố tụng dân sự
2.1.1. Khái niệm tranh tụng trong Tố tụng dân sự

2


Đối với việc nghiên cứu đề tài nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam thì
khái niệm tranh tụng trong TTDS là một vấn đề hết sức quan trọng, khái niệm này
giúp hiểu đúng và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Có thể định nghĩa
tranh tụng trong TTDS như sau: “Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải quyết
tranh chấp dân sự tại Tòa án, diễn ra trong q trình tố tụng, theo đó các bên đương
sự xuất trình, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho
yêu cầu của mình; phản bác u cầu đối lập trước Tịa án và kết quả của q trình
này được Tịa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”. [22]
2.1.2. Nội dung, phạm vi tranh tụng trong Tố tụng dân sự
Tranh tụng trong tố tụng bao gồm những nội dung sau đây:
Thứ nhất là, cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ mới bằng
cách: chủ động cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình; đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ của vụ án mà tự
mình khơng thể thu thập được, triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định
giá, thẩm định giá.
Thứ hai là, đánh giá chứng cứ và thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án
dân sự tại phiên hòa giải do Tòa án thực hiện trước khi mở phiên tòa xét xử.
Thứ ba là, thực hiện việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi tại phiên tịa thực chất
là cuộc điều tra chính thức, cơng khai tại phiên tịa để xác định sự thật khách quan
của vụ án. Vì vậy, các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển
của chủ tạo phiên tòa, xem xét chứng cứ, tài liệu.
Thứ tư là, phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua việc điều tra chính thức,
cơng khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá
của mình về kết qủa chứng minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải cơng khai
đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án
cân nhắc khi ra phán quyết.
Thứ năm là, phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do
nhiều lý do khác nhau như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ
ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật được nhận thức
3


rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nội dung của tranh tụng trong giai đoạn
tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật
để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được
giao.
Thứ sáu là, đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích
liên quan. Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Vì vậy, nội dung khơng thể thiếu trong tranh tụng là các bên đề xuất
ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi
ích đó. Tùy theo tư cách tố tụng của mình mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý

kiến của mỗi người tham gia tố tụng cũng có khác nhau như nguyên đơn dân sự đòi
hỏi việc bồi thường, bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường… [9]
2.1.3. Ý nghĩa của tranh tụng trong Tố tụng dân sự
Thứ nhất, tranh tụng trong tố tụng dân sự chính là thể hiện bản chất dân chủ và
nhân đạo nhằm bảo vệ các quyền con người.
Thứ hai, thơng qua q trình tranh tụng giúp Tịa án hiểu rõ yêu cầu của các
đương sự, có được các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để xác định chân lý khách quan
của vụ kiện trên cơ sở đó Tịa án giải quyết các u cầu của đương sự, xác lập lại cho
đúng các quan hệ pháp luật dân sự mà các bên tham gia hoặc những quan hệ mà pháp
luật điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của các bên khi có sự kiện pháp lý xẩy ra, xác
định đúng các quyền, nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, trên cơ sở của tranh tụng trong tố tụng dân sự, các đương sự được thực
hiện đầy đủ các quyền tố tụng dân sự đồng thời bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố
tụng quyền bình đẳng tức là tạo ra khả năng để các chủ thể nói chung và các đương
sự nói riêng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án.
Thứ tư, tranh tụng trong tố tụng dân sự còn là một bảo đảm cơ bản cho một nền
công lý trong sạch, trung thực và công bằng…, do đó tranh tụng khơng chỉ bảo đảm
sự cơng bằng, bình đẳng về mặt pháp lý cho mọi cá nhân, tổ chức mà còn tạo điều
kiện cho việc đạt được sự bình đẳng, cơng bằng về thực tế của các cá nhân, tổ chức
đó.
2.1.4. Các yếu tố đảm bảo tranh tụng trong Tố tụng dân sự
4


Thứ nhất, các quy định của pháp luật về tranh tụng trong tố tụng dân sự. Pháp
luật có vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Pháp luật là công cụ quản lý
nhà nước và xã hội, xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn
hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có quyền con người,
quyền công dân. Hoạt động tranh tụng trong TTDS muốn thực hiện có hiệu quả phải
được thực hiện dưới sự điều chỉnh của pháp luật.

Thứ hai, vai trò của tòa án khi giải quyết vụ án. Trong tố tụng nói chung và
TTDS nói riêng, Tịa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Tòa án thực hiện chức
năng như một trọng tài có địa vị độc lập với các bên để phân xử một cách khách quan,
theo pháp luật.
Thứ ba, sự hỗ trợ đương sự tranh tụng của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đương sự có vai trò quan trọng nhất để thực hiện việc tranh tụng. Để đương sự có
điều kiện tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của mình cũng như góp phần quan trọng
giúp Tịa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án thì đương sự cần nhận được sự hỗ
trợ, giúp đỡ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Sự hỗ trợ này trước tiên từ người đại
diện hợp pháp của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự đặc biệt là các luật sư. [17]
Thứ tư, cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng. Tranh tụng là một hoạt
động quan trọng trong tố tụng nói chung và TTDS nói riêng. Để hoạt động tranh tụng
hiệu quả và tuân thủ đúng quy định của pháp luật cần có cơ chế kiểm sát, giám sát
nhằm đảm bảo cho hành vi xử sự của các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng
được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nhằm giải quyết được VADS. Một
trong những hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tranh tụng là
hoạt động của VKSND. Giám sát hoạt động tranh tụng còn được thực hiện bởi cơ
quan quyền lực nhà nước Quốc hội, các cơ quan đại diện cho nhân dân cùng cấp, hệ
thống các cơ quan truyền thơng, cơng luận như báo, đài tham dự phiên tịa, truyền
hình,... Qua sự kiểm tra, giám sát đó sẽ đảm bảo tranh tụng hiệu quả, đúng pháp luật.
Thứ năm, sự hiểu biết pháp luật của các đương sự. Vì vai trị tích cực và chủ
động của đương sự trong tranh tụng nên địi hỏi đương sự phải có sự hiểu biết pháp
luật nhất định mới có thể tranh tụng như đương sự đưa ra yêu cầu gì, cần phải biết
thu thập chứng cứ ở đâu, bằng những biện pháp pháp lý nào, cung cấp những chứng
5


cứ nào cho Tòa án, tranh tụng tại phiên tòa thì đặt các câu hỏi như thế nào với đương
sự phía bên kia, chuẩn bị bản luận cứ để tranh luận, đối đáp với đương sự phía bên

kia,… Có như vậy, đương sự mới có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, cũng như giúp Tịa án ra phán quyết đúng đắn, chính xác, đúng pháp luật. [7]
2.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Tố tụng dân sự
Dựa theo các lớp nghĩa trên, có thể đưa ra khái niệm cụ thể về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự như sau: “Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố
tụng dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản trong TTDS, thể hiện sự định
hướng của Nhà nước trong việc xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm
được các điều kiện cần thiết làm cho các chủ thể tranh tụng thực hiện được quyền
tranh tụng trong suốt quá trình tố tụng dân sự, bao gồm việc đưa ra chứng cứ, trao
đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của đương
sự trước Tòa án . Tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng để quyết định về việc giải
quyết vụ án dân sự.”
2.3. Đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Tố tụng dân sự
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc gắn
liền với tổ chức và hoạt động của TAND. Xét xử là đặc điểm quan trọng nhất của Tòa
án. Nhiệm vụ của Tòa án là xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng, căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án,
quyết định việc có tội hoặc khơng có tội, áp dụng hoặc khơng áp dụng hình phạt, biện
pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
Thứ hai, các chủ thể tham gia tranh tụng được bình đẳng trong việc thực hiện
quyền tranh tụng, theo đó các bên đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố
tụng dân sự và bình đẳng về trách nhiệm pháp lý. Nội dung này thể hiện các chủ thể
tranh tụng khơng chỉ có các quyền tranh tụng mà họ được pháp luật thừa nhận bình
đẳng khi thực hiện quyền tranh tụng của mình. Sự bình đẳng này được thể hiện trên
hai khía cạnh: họ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự và họ bình đẳng về
trách nhiệm pháp lý của mình. Nội dung này thể hiện tính cân bằng của pháp luật
trong việc đảm bảo việc thực hiện tranh tụng trong xét xử. [8]

6



Thứ ba, trong nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, Tịa án đóng vai trị là
trọng tài, trung gian giám sát việc tranh tụng giữa các bên chứ khơng tham gia trực
tiếp vào q trình tố tụng. Tịa án tạo điều kiện cho các bên được quyền giao nộp,
cung cấp các tài liệu, chứng cứ và được tiếp cận với chứng cứ của phía bên kia, ghi
nhận ý kiến của các bên, trong một số trường hợp, Tòa án cáo thể đưa ra định hướngd
dể các bên có thể thỏa thuận với nhau Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ do các bên
cung cấp, kết quả tranh luận giữa các bên, Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng bảo
đảm khách quan, đúng quy định của pháp luật. [15]
2.4. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Tố tụng dân sự
Nguyên tắc cùng các quy định khác có liên quan của BLTTDS 2015 đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc tranh tụng được đảm bảo như: Thứ nhất, về thời điểm và các giai
đoạn tranh tụng của các đương sự được thực hiện từ khi khởi kiện, thụ lý vụ án cho
đến khi giải quyết xong vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh tụng troang các giai
đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. [18] Hai là, Tịa án có
trách nhiệm đảm bảo cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của
đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Ba là, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tịa án thụ lý vụ án dân
sự; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp
luật áp dụng để bảo vệ u cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu
cầu của người khác theo quy định của BLTTDS. Tuy nhiên đương sự cũng phải thực
hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của BLTTDS, nếu khơng sẽ phải chịu hậu
quả pháp lý theo quy định của pháp luật. [18] Bốn là, việc xem xét chứng cứ và quyền
được tiếp cận chứng cứ của đương sự. Trong q trình tố tụng và tại phiên Tịa, các
chứng cứ của vụ án phải được công khai trừ hợp không được công khai tại khoản 2
Điều 109 BLTTDS 2015.
Như vậy, việc quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng này đã góp phần thực hiện
mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong hoạt động xét xử của
Tịa án. Từ đó, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN,

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng
thời, không chỉ bảo đảm sự cơng bằng, bình đẳng về mặt pháp lý cho mọi cá nhân, tổ
7


chức mà còn tạo điều kiện cho việc đạt được sự bình đẳng, cơng bằng về thực tế của
các cá nhân, tổ chức đó. Nguyên tắc này cũng góp phần to lớn vào nâng cao ý thức
pháp luật của toàn bộ nhân dân nói chung và các chủ thể tham gia vào tranh tụng
trong TTDS nói riêng.
3. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
Thứ nhất, tranh tụng trong TTDS cũng xuất phát từ yêu cầu thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp của nhà nước ta. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định phải đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử,
coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Thể chế hóa chủ trương của Đảng và
Nhà nước về cải cách tư pháp, Điều 103 khoản 5 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy
định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, đây chính là quy định bản
lề để Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm quyền
tranh tụng trong xét xử - một trong những quy định chung nhất của TTDS.
Thứ hai, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTDS. Nhà nước luôn
lấy nhân dân làm gốc, luôn luôn xây dựng các chủ trương, chính sách hướng đến nhân
dân. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, ln ln bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp con người. Do đó, Nhà nước ln tạo ra những phương tiện cần thiết
để bảo vệ quyền con người, quyền công dân và một trong các phương thức đó là các
đương sự thực hiện tranh tụng trong TTDS.
Thứ ba, bảo đảm bình đăng, cơng bằng, dân chủ trong hoạt động TTDS. TTDS
chính là q trình Tịa án đứng ra giải quyết tranh chấp giúp hai bên đương sự theo
thủ tục tư pháp dân chủ. Do đó, ngun tắc dân chủ, cơng khai, khách quan là nguyên
tắc được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật TTDS, đồng thời cũng là nguyên
tắc trong tổ chức và hoạt động của Tòa án. Thực tế đã chứng minh, bản chất và

phương pháp để đạt đến sự dân chủ, vô tư, khách quan trong TTDS là qua con đường
tranh tụng. [19].
Thứ tư, bảo đảm Tòa án ra quyết định đúng đắn, chính xác. Tranh tụng nhằm xác
định vai trò chủ đạo của các bên đương sự, giúp họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình dưới sự giám sát của Tịa án. Điều này cũng hồn toàn phù hợp với ngành luật
tố tụng khi nguyên tắc tự định đoạt của đương sự được đề cao. Vì liên quan đến lợi
8


ích của chính bản thân mình nên buộc đương sự phải tích cực, chủ động thu thập, đưa
ra những chứng cứ để chứng minh là có căn cứ và thuyết phục được Tịa án. Điều này
giúp cho Tịa án có thể khách quan xem xét, đánh giá vụ việc để từ đó đưa ra quyết
định đúng đắn, chính xác. [15]
4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với các nguyên tắc khác
Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ trong TTDS". Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa
các cá nhân, pháp nhân. Trong TTDS bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng là điều
kiện, cơ sở thuận lợi để thực hiện việc tranh tụng tại Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Ngun tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Cung cấp chứng cử và chứng
minh trong TTDS”. Trên cơ sở của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong TTDS thì các đương sự biết được các yêu cầu và chứng cử, lý lẽ, căn cứ pháp
lý cho yêu cầu của mình đưa ra và thơng qua đó các đương sự có thể tranh luận với
nhau về các yêu cầu, phản yêu cầu, đưa ra các lý lẽ để chứng minh cho quyền lợi hợp
pháp, viện dẫn các quy định pháp luật làm căn cứ cho những nhận định và kết luận
của mình. Thực chất của tranh tụng là việc các bên đi tìm và so sánh chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình là xác thực hơn. Bên cạnh đó, các đương sự bình
đẳng với nhau trong việc cung cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh là điều
kiện tốt nhất để các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy,
việc tranh tụng chỉ có hiệu quả khi nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh

trong TTDS được bảo đảm.[22]
Ngun tắc tranh tụng cịn có mối liên hệ với nguyên tắc “Quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự”. Việc thực hiện nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự trong TTDS sẽ quyết định phạm vi, nội dung của những vấn đề mà các
bên cần tranh tụng để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngược lại,
nếu Tịa án bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thì hiệu quả quyền tự quyết định việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án mới được phát huy rõ nét. Mối
liên hệ giữa hai nguyên tắc này cũng là mối liên hệ vô cùng mật thiết, hai chiều qua
lại, bổ sung cho nhau.

9


Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” có
mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Đương sự tranh tụng
mục đích là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, vì vậy, bảo đảm quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng tức là bảo đảm cho tranh tụng. Có thể thấy hai
nguyên tắc này cùng chung mục đích và hỗ trợ cho nhau.
Nguyên tắc “Tịa án xét xử kịp thời, cơng bằng, cơng khai” và “Bảo đảm sự vô tư,
khách quan trong TTDS”.Sự công bằng, vô tư, khách quan của cơ quan, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng là yếu tố hết sức cần thiết, đảm bảo cho tranh
tụng, có những yếu tố này thì tranh tụng mới trở nên thực chất và có ý nghĩa.
Nguyên tắc “Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng” (Điều 13
BLTTDS 2014). Nguyên tắc này nhằm xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người
tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Thực hiện nguyên tắc này hiệu
quả sẽ đồng nghĩa với việc nguyên tắc bảo đảm tranh tụng có thêm cơ chế để đảm
bảo thi hành, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
II. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong xét xử
1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham gia tố

tụng
1.1. Quy định về quyền bình đẳng trong Tố tụng dân sự
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự được quy định tại Điều 8
BLTTDS năm 2015. Đó cũng là một quyển thể hiện rất rõ nguyên tắc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong TTDS. Đây khơng cịn là quyền bình đẳng trước
pháp luật nói chung mà là quyền bình đẳng, quyền ngang bằng giữa các đương sự
trong vụ việc dân sự. Với nguyên tắc này, nguyên tắc quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng cử chứng minh được quy định tại Điều 6 Bộ luật TTDS năm 2015 nói trên sẽ
thật sự phát huy vai trị quyết định của mình.
Quy định tại Điều 70 BLTTDS sửa đổi năm 2011 tiếp tục ghi nhận: “Các đương
sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng”. Quy định về sự bình
đẳng này là nền tảng căn bản để thực hiện nguyên tắc tranh tụng, tạo ra môi trường
thuận lợi nhất cho các bên đương sự có thể tranh tụng một cách thực chất. Người đại
10


diện của đương sự là người thực hiện thay các hoạt động tranh tụng của đương sự, họ
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
của đương sự tại Tịa án. Do vậy, người đại diện trong TTDS cũng có quyền bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tịa án như đối với đương sự mà họ đại diện.
Đây chính là tiền đề căn bản của việc thực thi nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
1.2. Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và thời điểm
được bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải quyết tranh chấp
Quyền được đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn trong TTDS được quy định tại
khoản 1 Điều 200 BLTTDS 2015 như sau: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn
bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập.” Nghĩa là sau khi nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án hoặc sau
khi nhận được thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu độc lập của Tòa án, bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc đối với người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Việc phân biệt thế nào là yêu cầu phản tố và
ý kiến của bị đơn được Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm
2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn theo đó: “Được coi là yêu
cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập nếu u cầu đó độc lập, khơng cùng với u cầu mà nguyên
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có u cầu độc lập u cầu Tồ án giải
quyết.” Theo khoản 3 Điều 200 BLTTDS 2015 thì “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu
phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai
chứng cứ và hịa giải.” Quy định này tạo điều kiện cho nguyên đơn có thời gian tiếp
cận hồ sợ, chuẩn bị chứng cứ, tài liệu, lập luận cần thiết phục vụ cho tranh tụng tại
phiên tòa.
Điều 201 BLTTDS 2015 cũng đã có những quy định tương tự đối với quyền yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Từ đó, hướng tới mục đích
bảo đảm tranh tụng của nguyên đơn và bị đơn cũng như các đương sự khác. Việc quy
định các điều kiện góp phần giúp việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính
xác hơn.

11


Mặc dù pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự và ghi nhận quyền “
Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này” tại
khoản 4 Điều 70 BLTTDS 2015 nhưng để điều này khơng gây khó khăn cho các
đương sự khác trong việc thực hiện tranh tụng, tại khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015
đã quy định: “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”
1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong việc thu
thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết chứng cứ, tài liệu do người khác
xuất trình

1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, cung cấp tài liệu,
chứng cứ
Nhằm hạn chế việc thiếu hợp tác của một bên đương sự, gây trở ngại cho việc
tranh tụng, khoản 4 Điều 96 BLTTDS năm 2015 đã có những quy định về thời hạn
cung cấp chứng cử, theo đó “Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn
chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo
quy định của Bộ luật này...”. Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã giới hạn thời gian cung
cấp chứng cứ của đương sự cho Tòa án bằng việc Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án dân sự ổn định, nhưng không quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Vậy, BLTTDS
năm 2015 đã hạn chế được phần nào những bất cập trong quá trình tố tụng gây ra bởi
việc đương sự cố tình khơng xuất trình chứng cử ngay khi thu thập được mà để đến
thời điểm nào đó gây được bất ngờ cho bên đương sự đối phương thì mới xuất trình.
Trong hoạt động tranh tụng, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự cũng được quy định có quyền “Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng
cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần
thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự” (khoản 2 Điều 64 BLTTDS). Quy định này tạo điều kiện cho người bảo
vệ quyền có được các chứng cứ cần thiết để thực hiện việc tranh tụng, tìm ra những
căn cứ cho việc biện hộ từ đó giúp đượng sự có thể tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ.
12


Để đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình thì khoản 1 Điều 97
BLTTDS 2015 quy định các biện pháp thu thập chứng cứ mà đương sự được thực
hiện để đảm bảo các chứng cứ có được mang tính hợp pháp. Hậu quả của việc đương
sự khơng cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra
chứng cứ để chúng mình mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ
chứng cứ thì Tịa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được

có trong hồ sơ vụ việc (khoản 4 Điều 91). Nếu đương sự không gian nộp hoặc giao
nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tịa án u cầu mà khơng có lý do chính đáng
thì Tịa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ và đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu
thập theo quy định tại Điều 97 Bộ luật TTDS để giải quyết vụ việc dân sự (khoản 1
Điều 96).
1.3.2. Quyền được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình
Đương sự có quyền “Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương
sự khác xuất trình hoặc do Tịa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản
2 Điều 109 của Bộ luật này.”( Khoản 8 Điều 70 BLTTDS 2015). Đây là một quyền
quan trọng đảm bảo cho đương sự có được tài liệu, chứng cứ của bên kia hoặc do Tòa
án thu thập để sẵn sàng chuẩn bị cho việc tranh tụng tại phiên tòa.
Dựa trên việc tiếp thu các ưu điểm cũng như khắc phục những hạn chế trong
quy định cũ, khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 đã quy định “ Khi đương sự giao nộp
tài liệu, chứng cứ cho Tịa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự
khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ
quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao
gửi được thì phải thơng báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự khác.”
1.4. Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự nghĩa là tổng hợp các biện pháp, cơ chế hỗ
trợ làm cho các đương sự có đủ những điều kiện cần thiết, chắc chắn để thực hiện
được trên thực tế quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ mình trước pháp luật.
Trên một mức độ khái quát hơn, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định “Quyền
bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”(khoản 7 Điều 103 Hiến pháp
13


năm 2013). Nếu đương sự khơng có điều kiện để mời luật sư, cũng không thuộc các
đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý và cũng không
nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình thì họ có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình.

Thực hiện tốt quyền bảo vệ của đương sự là cơ sở để bảo đảm thực hiện có hiệu quả
ngun tắc tranh tụng tại phiên tịa, góp phần giải quyết vụ án chính xác, khách quan.
Đặc biệt, hoạt động tố tụng dân sự thường phức tạp, rất nhạy cảm với khả năng xâm
phạm quyền tố tụng nói chung, trong đó có quyền bảo vệ của đương sự. [20]
2. Quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng trong
xét xử
2.1. Sự độc lập, vô tư, khách quan của Tòa án trong tố tụng dân sự
Trong hoạt động xét xử, yêu cầu về sự độc lập của Tòa án được xem là điều kiện
tiên quyết nhằm hướng đến phán quyết cơng bằng, đảm bảo cho tính khách quan, vơ
tư để tìm đến cơng lý. Ngun tắc về sự xét xử độc lập của Tòa án được ghi nhận
trong đạo luật pháp lý tối cao là Hiến Pháp Việt Nam hiện hành tại khoản 2 Điều 103
và Điều 12 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Nguyên tắc này bao hàm 03 nội dung cơ
bản sau:
Thứ nhất, trong xét xử Tòa án phải độc lập với các cơ quan khác. Tòa án là một
nhánh cơ quan độc lập (tách biệt lập pháp và hành pháp) để nhân danh Nhà nước bảo
vệ pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi. Chính vì vậy, kim chỉ nam duy nhất
để Tòa án căn cứ khi xét xừ là các quy định của pháp luật, luôn luôn theo tôn chỉ
“Thượng tơn pháp luật”. Ngồi tơn chỉ trên, Tịa án khơng thể bị áp lực, chi phối từ
phía các cơ quan khác ngay cả cơ quan nhà nước, cơ quan Đăng
Thứ hai, Tòa án phải độc lập với cơ quan Tòa án cấp trên. Mặc dù về mặt tổ chức
thi tòa án địa phương, tòa án cấp dưới phải chịu sự quản lý của TAND tối cao. Tuy
nhiên, xét về mặt xét xử thì tịa cấp dưới phải hồn tồn độc lập với tòa cấp trên tránh
việc chỉ đạo án, chưa xử đã biết nội dung bản án...
Thứ ba, thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với nhau. Phải đảm bảo giữa
các Thẩm phán, Hội thẩm có sự độc lập thì mới tơn tại tỉnh khách quan của bản án
Bởi suy cho cùng thì họ là những cá nhân riêng biệt, có suy nghĩ và chính kiến của
riêng mình dù đó là ý kiến thiểu số hay đa số thì đều được ghi nhận việc áp dụng
nguyên tắc trên sẽ tránh được sự độc đoán, áp đặt đảm bảo cho phán quyết chung
14



mang tính hợp pháp, có căn cứ và có lẽ đây chính là ý nghĩa căn bản cho vấn đề có
sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử.
Sự vô tư của thẩm phán và những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án lại mang đến sự công bằng, dân chủ cho những người liên quan và cho cả xã
hội. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
thực chất là việc xác lập một cơ chế bảo đảm cho sự vô tư của người tiến hành tôi
tụng để họ không thiên vị trong quá trình giải quyết vụ án.
Cụ thể hơn về sự bảo đảm này, khoản 2 Điều 16 BLTTDS năm 2015 còn quy định:
“Việc phân công người tiến hành tố tụng phải bảo đảm để họ vô tư, khách quan khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.” Như vậy, BLTTDS 2015 đã có quy định
chặt chẽ hơn về cơ chế bảo đảm sự vơ tư, khách quan của Tịa án trong q trình tố
tụng.
2.2. Trách nhiệm của Tịa án trong việc đảm bảo cho đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp thực hiện tranh tụng trong tố tụng dân sự
Có thể thấy rằng, các quy định về bảo đảm quyền bảo vệ đã cụ thể hơn rất nhiều
trong BLTTDS 2015, theo Điều 9 BLTTDS 2015 đã cụ thể quyền được trợ giúp pháp
lý của một số đối tượng khó khăn trong xã hội, khi tham gia tố tụng họ khơng có khả
năng thuế Luật sư hoặc khơng tìm được người hỗ trợ về mặt pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền lợi cho mình thì họ có thể u cầu bằng hình
thức trợ giúp pháp lý để có Luật sư tư vấn pháp luật hoặc làm người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp giúp đỡ miễn phí cho đối tượng. Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã
có cơ chế cụ thể, rõ ràng hơn để bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
2.3. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm cho đương sự,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện các quyền tố tụng khác
Trước hết, trách nhiệm, nhiệm vụ chung của Tòa án, người tiến hành TTDS được
thể hiện qua Điều 3 Bộ BLTTDS năm 2015: nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong
TTDS, theo đó việc tuân thủ pháp luật không chỉ đặt ra cho đương sự và những người
tham gia TTDS Tòa án, người tiến hành TTDS cũng là một chủ thể trong TTDS nên

nguyên tắc tuân thủ pháp luật cũng đặt ra cho nhóm chủ thể này và đây cũng là nguyên
15


tắc nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của đương sự. Có tn thủ pháp
luật thì việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án mới khách quan, cơng bằng và đúng
đắn. Có thể nói, trách nhiệm phải tuân thủ pháp luật được đặt ra đầu tiên cho các chủ
thể trong TTDS (trong đó có Tịa án, người tiến hành TTDS) trong phần các nguyên
tắc của Bộ luật TTDS năm 2015 là rất hợp lý, là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm
quyền con người, quyền công dân của đương sự trong TTDS.
Không chỉ quy định trách nhiệm chung của Tòa án, người tiến hành TTDS, Bộ luật
TTDS năm 2015 còn quy định khá rõ trách nhiệm cụ thể của Tòa án, người tiến hành
tố tụng trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của họ.
Khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTDS năm 2015 cơng nhận quyền u cầu Tịa án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản 2 quy định trách nhiệm của Tịa án
“khơng được từ chối giải quyết vụ Việc dân sự”. Đương sự có quyền khởi kiện, nộp
đơn yêu cầu nhưng đương sự khơng có quyền thụ lý đơn để giải quyết. Việc đương
sự nộp đơn khởi kiện hay yêu cầu giải quyết việc dân sự cũng chẳng có ý nghĩa thực
tế nếu Tịa án gây khó khăn, khơng thụ lý giải quyết. Với trách nhiệm buộc phải nhận
đơn, Tòa án buộc phải thực hiện nhiệm vụ giải quyết của mình.
Điều 5 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định trách nhiệm của Tòa án “chi thụ lý giải
quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và trách nhiệm”, “chỉ giải
quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Quy định này đã ràng buộc trách
nhiệm của Tịa án khơng thể lạm quyền, hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự.
Điều 13 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, nếu các chủ thể này có hành vi trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật như nếu hành vi trái pháp luật, gây
ra thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Quy định này buộc Tịa án,
người tiến hành tố tụng ln phải có ý thức cố gắng để giải quyết tốt các vụ việc dân

sự, tránh tình trạng phải thực hiện trách nhiệm bồi thường.
3. Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử
3.1. Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án tục liên quan đến nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự
16


Khởi kiện là hành vi tố tụng đầu tiên của nguyên đơn làm phát sinh các quan hệ
pháp luật tố tụng để Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện, đơn khởi kiện phải bảo đảm
các nội dung luật định. Một trong những nội dung mà đơn khởi kiện phải có là: tên,
nơi cư trú, làm việc của người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là cá
nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2017NQ-HĐTP hướng dẫn về trả lại đơn khởi
kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Theo đó, khoản 2 Điều 5 Nghị quyết quy
định, đề Tịa án thụ lý vụ án thì người khởi kiện phải chứng minh mình ghi đúng địa
chỉ của bị đơn, ….
Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thi Thẩm phán phải thông báo ngay cho
người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong
trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận
được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp
tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tịa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí Thẩm phán
thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí
Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì
Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo. Pháp luật cũng quy định Tịa án khơng được thụ lý vụ án khi người khởi kiện
không đủ điều kiện khởi kiện Một trong những điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án dân
sự là: Chủ thể khởi kiện có quyền khởi kiện, chủ thể ở đây được quy định cụ thể tại
Điều 180, Điều 187 Bộ luật TTDS năm 2015, trong đó một trong các chủ thể có quyền

khởi kiện là cá nhân, cá nhân có quyền tự mình khởi kiện vụ án tại tịa án có thẩm
quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3.2. Giai đoạn chuẩn bị xét xử liên quan đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong tố tụng dân sự
Về thủ tục giao nộp chứng cứ, trong q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự,
đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ, tài liệu cho Tòa án. Trường hợp
tài liệu, chứng cứ chưa đủ đảm bảo cơ sở giải quyết vụ việc thì thẩm phán yêu cầu
đương sự giao nộp bổ sung. Nếu không giao nộp hoặc giao nộp khơng đủ khơng vì
lý do chính đáng thì Tịa án căn cứ vài chứng cứ mà đương sự đã nộp và Tòa án đã
17



×