Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Tài liệu học tập môn giáo dục quốc phòng an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 192 trang )

TRƯỜNG SĨ QUAN KỸ THUẬT QUÂN SỰ

TÀI LIỆU HỌC TẬP
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG - AN NINH

Tp. Hồ Chí Minh năm 2020
0


HỌC PHẦN I.
ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BÀI 1.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MƠN HỌC
Mơn Giáo dục Quốc phịng và An ninh là mơn học chính khóa nằm trong
chương trình dạy học của các Trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học. Tầm quan trọng của môn học này là ở chỗ góp phần
giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với mục tiêu giáo dục phổ thông là: Giúp học
sinh, sinh viên phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân; chuẩn bị cho học sinh, sinh viên tiếp tục học lên hoặc đi lên vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của môn học bao gồm đường lối quân sự của Đảng, công
tác quốc phòng, an ninh, quân sự và kỹ năng quân sự cần thiết.
A. NGHIÊN CỨU VỀ ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính chất lý luận của đảng về đường lối


quân sự, bao gồm: Những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến tranh, Quân đội và bảo vệ Tổ quốc; Quan điểm của Đảng về xây dựng
nền quốc phịng tồn dân; Chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc; Xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân; Phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh; Một số nội dung cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời kỳ.
2. Tại sao phải nghiên cứu
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo
vệ tổ quốc mang tính cách mạng và xã hội sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận để Đảng ta đề
ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ, vùng trời vùng biển, hải đảo mà còn phải bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ
nền văn hoá của dân tộc.
Các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh nhân dân đều có tính kế thừa và phát
1


triển những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc “cả nước một lịng chung sức
đánh giặc”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ chống lớn”. Đó cũng chính là đặc trưng
nghệ thuật quân sự Việt Nam đã chiến thắng những kẻ thù hung hãn nhất.
Nghiên cứu đường lối quân sự của đảng góp phần hình thành niềm tin khoa
học, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và lí tưởng cho sinh viên.
B. NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nhiệm vụ nội dung công tác Quốc phòng
và An ninh của đảng hiện nay, bao gồm: Phịng, chống chiến lược “diễn biến hịa
bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; Xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên cơng nghiệp
quốc phịng; Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình

hình mới; Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống các
thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam;
Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
Những vấn đề cơ bản về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; Xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; An ninh phi truyền thống và đấu
tranh phòng chống các đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam.
2. Tại sao phải nghiên cứu
Nhà nước quy định nhiệm vụ về quốc phòng, quân sự, an ninh cho các bộ,
ngành, cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị cơ sở. Do vậy, nghiên cứu về
cơng tác Quốc phịng và An ninh thực chất là nghiên cứu hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của nhà nước về bảo vệ tổ quốc, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội và an
ninh chính trị. Mọi cơng dân đều có trách nhiệm tham gia cơng tác quốc phịng,
luyện tập qn sự, giữ gìn bảo vệ an ninh, trật tự an tồn xã hội. Tăng cường tiềm
lực quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, phịng chống có hiệu quả chiến lược
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt
Nam, kể cả việc phòng chống chiến tranh công nghệ cao trong tương lai. Nghiên
cứu và thực hiện tốt cơng tác Quốc phịng và An ninh để xây dựng lòng tin chiến
thắng trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam.
C. NGHIÊN CỨU VỀ QUÂN SỰ CHUNG, CHIẾN THUẬT, KỸ THUẬT
BẮN SÚNG NGẮN VÀ SỬ DỤNG LỰU ĐẠN; HIỂU BIẾT CHUNG VỀ QUÂN,
BINH CHỦNG
1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu các kiến thức, kĩ năng chiến thuật, kĩ thuật quân sự cần thiết
như: Đội ngũ đơn vị (trung đội); Sử dụng bản đồ địa hình qn sự; Phịng chống
địch tiến cơng bằng vũ khí cơng nghệ cao; Ba mơn qn sự phối hợp; Trung đội
bộ binh tiến công; Trung đội bộ binh phòng ngự; Kỹ thuật bắn súng ngắn; Thực
hành sử dụng một số loại lựu đạn Việt Nam; Giới thiệu chung về tổ chức lực
lượng các quân, binh chủng (theo 4 nhóm ngành); Lịch sử, truyền thống quân,
binh chủng (theo 4 nhóm ngành).
2



2. Tại sao phải nghiên cứu
Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên
cần quan tâm nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng… hiểu rõ bản chất các nội
dung kĩ thuật, chiến thuật bộ binh; về khả năng sát thương, với các phương pháp
phòng tránh đơn giản, hiệu quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu thực hành các bài tập sát
với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ thuật, chiến thuật trong chiến đấu. Đồng thời
có thể ứng dụng các kĩ thuật này khi tham gia dân quân, tự vệ theo quy định của
pháp luật.
II. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh đòi hỏi phải nắm
vững cơ sở phương pháp luận, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối
tượng, phạm vi và tính chất đa dạng của nội dung môn học này.
A. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu Giáo dục Quốc
phòng và An ninh là học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh, quân đội, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về xây dựng nền quốc
phịng tồn dân… là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu, vận
dụng đường lối quân sự của Đảng và những vấn đề cơ bản khác của Giáo dục
Quốc phòng và An ninh.
2. Các quan điểm tiếp cận khoa học
Việc xác định học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương
pháp luận, địi hỏi q trình nghiên cứu, phát triển Giáo dục Quốc phòng và An ninh
phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các quan điểm tiếp cận khoa học sau đây:
- Quan điểm hệ thống: Đặt ra yêu cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung của
Giáo dục Quốc phòng và An ninh một cách toàn diện, tổng thể, trong mối quan hệ
phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn học.
- Quan điểm lịch sử, lôgic: Trong nghiên cứu Giáo dục Quốc phịng và An ninh

địi hỏi phải nhìn thấy sự phát triển của đối tượng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian,
không gian với những điều kiện lịch sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát
nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc của hoạt động quốc phòng, an ninh.
- Quan điểm thực tiễn: Chỉ ra phương hướng cho việc nghiên cứu Giáo dục
Quốc phòng và An ninh là phải bám sát thực tiễn xây dựng quân đội và cơng an
nhân dân, xây dựng nền quốc phịng toàn dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
B. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu xây dựng, phát triển nội dung Giáo dục Quốc phòng và An
ninh với tư cách là một bộ môn khoa học cần chú ý sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học.
3


- Các phương pháp lí thuyết: Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hố, mơ
hình hố, giả thiết nhằm thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn
bản, tài liệu về Quốc phòng và An ninh để rút ra các kết luận khoa học cần thiết,
không ngừng bổ sung phát triển làm phong phú nội dung Giáo dục Quốc phòng và
An ninh.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát thực tế,
nghiên cứu các sản phẩm quốc phòng, an ninh, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm,
thực nghiệm… nhằm tác động trực tiếp vào đối tượng trong thực tiễn, từ đó khái
quát bản chất, quy luật của các hoạt động quốc phòng, an ninh; bổ sung làm phong
phú nội dung cũng như kiểm định tính xác thực, tính đúng đắn của các kiến thức
Giáo dục Quốc phòng và An ninh.
- Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học lí thuyết và thực hành nhằm bảo
đảm cho người học vừa có nhận thức sâu sắc về đường lối, nghệ thuật quân sự, nắm
chắc lí thuyết kĩ thuật và chiến thuật, vừa rèn luyện phát triển được các kĩ năng công
tác quốc phòng, thuần thục các thao tác, hành động quân sự.
Đổi mới phương pháp dạy học Giáo dục Quốc phòng và An ninh theo hướng

tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử dụng các
phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại. Trong quá trình học tập, nghiên cứu các vấn
đề, các nội dung Giáo dục Quốc phòng và An ninh cần chú ý sử dụng các phương
pháp tạo tình huống, nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận, thực tập sát với thực tế
chiến đấu, cơng tác quốc phịng; tăng cường tham quan thực tế, viết thu hoạch, tiểu
luận; tăng cường sử dụng các phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự hiện đại phục
vụ các nội dung học tập; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ
thông tin nhằm nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc
phịng và An ninh.
III. GIỚI THIỆU MƠN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
A. ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN, CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ THIẾT BỊ HỌC TẬP
1. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh các trường đại học, cao
đẳng, các Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên được tổ chức trên cơ sở Nghị
định của Chính phủ về Giáo dục Quốc phịng và An ninh và Nghị định của Chính
phủ về biệt phái sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Giảng viên sĩ quan từ các
quân khu, các học viện, nhà trường quân đội được luân phiên làm công tác quản lí
và giảng dạy. Các trường chưa có giảng viên là sĩ quan biệt phái được biên chế
giảng viên cơ hữu hoặc hợp đồng, thỉnh giảng giảng viên ở các học viện các nhà
trường quân đội. Hệ thống Trung tâm Giáo dục quốc phịng sinh viên do Chính phủ
quy định, được phát triển trên phạm vi cả nước đang thu hút phần lớn sinh viên vào
học tập, rèn luyện trong mơi trường văn hóa - qn sự.
2. Cơ sở vật chất và thiết bị học tập
Để đáp ứng yêu cầu học tập, rèn luyện của sinh viên, Nhà nước đã và đang đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất cho các Trung tâm Giáo dục quốc phòng. Tổ chức dạy,
4


học mơn Giáo dục Quốc phịng và An ninh phải bảo đảm đủ cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học được quy định trong danh mục và tiêu chuẩn bộ mẫu thiết bị dạy học tối

thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Khi học thực hành các kĩ năng quân sự
phải có sân tập, bãi tập, thao trường. Giáo trình Giáo dục Quốc phịng và An ninh
dùng cho các trường đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là tài
liệu giảng dạy và nghiên cứu chính thức của giảng viên, sinh viên. Ngồi ra, sinh
viên tìm đọc thêm tài liệu tham khảo đã được giới thiệu trong giáo trình để nâng cao
kiến thức và sự hiểu biết về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
B. ĐẶC ĐIỂM MƠN HỌC
Là mơn học được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng được thể
chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước nhằm giúp sinh viên
thực hiện mục tiêu “hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Luật giáo
dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện Chương trình Huấn luyện qn sự
phổ thơng (1961), Giáo dục quốc phòng (1991), trong những năm qua, để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp với quy chế giáo dục đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chương trình tiếp tục được đổi mới, bổ sung; đến
năm 2007 triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về Giáo dục Quốc phịng và
An ninh, mơn học Giáo dục quốc phịng được lồng ghép nội dung an ninh thành môn
học Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Như vậy, trong từng giai đoạn cách mạng,
chương trình mơn học Giáo dục Quốc phịng và An ninh đều có những đổi mới phục
vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và công tác Quốc phịng và An ninh trong từng
thời kì, gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục - đào tạo với Quốc phòng - An ninh.
Giáo dục Quốc phòng và An ninh là môn học bao gồm: Kiến thức khoa học xã
hội nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học qn sự và thuộc nhóm các mơn học chung,
có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 70% chương trình mơn học. Nội dung bao gồm kiến thức
cơ bản về đường lối quốc phịng, qn sự của Đảng, cơng tác quản lý Nhà nước về
quốc phòng, an ninh; về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc; về
nghệ thuật quân sự Việt Nam; về chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam và kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết
đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân.
Giáo dục Quốc phịng và An ninh góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức

kỉ luật, tác phong khoa học ngay sau khi sinh viên đang học tập trong nhà trường và
khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có chất lượng mơn học Giáo dục Quốc phịng
và An ninh là góp phấn đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật,
cán bộ quản lí, chun mơn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực
hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi
cương vị cơng tác.
C. CHƯƠNG TRÌNH MƠN HỌC
Mơn học Giáo dục Quốc phịng và An ninh trình độ đại học, cao đẳng ban hành
theo Quyết định số 81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
5


dục và Đào tạo. Chương trình được xây dung trên cơ sở phát triển trình độ các cấp
học dưới, bảo đảm liên thơng, lơgíc; mỗi học phần là những khối kiến thức tương
đối độc lập, tiện cho sinh viên tích lũy trong quá trình học tập. Kết cấu chương trình
gồm ba phần chính:
- Phần 1: Mục tiêu, thời gian, địa điểm thực hiện.
- Phần 2: Tóm tắt nội dung các học phần và chương trình.
Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam,
30 tiết.
Học phần II: Cơng tác quốc phịng và an ninh, 30 tiết.
Học phần III: Quân sự chung, chiến thuật, kỹ thuật bắn súng ngắn và sử dụng
lựu đạn, 85 tiết.
Học phần IV: Hiểu biết chung về quân, binh chủng, 20 tiết.
- Phần 3: Tổ chức thực hiện chương trình; phương pháp dạy, học và đánh giá
kết quả học tập.
D. TỔ CHỨC DẠY HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
1. Hình thức tổ chức dạy học
Đánh giá kết quả học tập mơn học Giáo dục Quốc phịng và An ninh trong các
trường trung cấp sư phạm và cơ sở giáo dục đại học được thực hiện theo Thông tư

liên tịch số 18/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 08 tháng 9 năm 2015 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập mơn học Giáo dục Quốc
phịng và An ninh trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học.
2. Một số quy định về học tập đối với sinh viên
Khi học Giáo dục Quốc phòng và An ninh sinh viên phải ăn mặc gọn gàng,
thống nhất theo hướng dẫn của giảng viên. Tuyệt đối chấp hành các quy định, quy
tắc bảo đảm an toàn về người, vũ khí, trang thiết bị.
3. Điều kiện dự thi và phương pháp thi
Sinh viên có đủ số lần kiểm tra cho mỗi học phần; mỗi lần kiểm tra đạt từ 5 điểm
trở lên và có đủ 80% thời gian có mặt trên lớp sẽ được dự thi kết thúc học phần lần thứ
nhất. Mỗi sinh viên phải dự thi đủ các học phần quy định trong chương trình.
Học phần có từ 2 đến 3 đơn vị học trình kiểm tra ít nhất 1 lần; học phần có 4
đơn vị học trình trở lên kiểm tra ít nhất 2 lần. Số lần cụ thể do hiệu trưởng các
trường quy định.
4. Cấp chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh
Chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh cấp cho sinh viên để xác nhận kết
quả học tập môn Giáo dục Quốc phịng và An ninh. Sinh viên đạt điểm trung bình
mơn học từ 5 và không bị kỉ luật từ cảnh cáo trở lên được cấp Chứng chỉ Giáo dục
Quốc phòng và An ninh và được ghi kết quả xếp loại trong Chứng chỉ. Chứng chỉ
6


Giáo dục Quốc phòng và An ninh là một trong những điều kiện để xét tốt nghiệp
cao đẳng, đại học.
5. Đối tượng miễn giảm, tạm hỗn mơn học
- Đối tượng miễn:
+ Sinh viên có giấy chứng nhận sĩ quan dự bị.
+ Có chứng chỉ Giáo dục Quốc phịng và An ninh.
+ Là người nước ngoài.

- Đối tượng được miễn các nội dung thực hành:
+ Là người khuyết tật.
+ Không đủ sức khỏe (từ 81% trở lên) về thể lực hoặc bệnh miễn dịch thuộc
diện miễn quân sự theo quy định hiện hành.
+ Đã hồn thành nghĩa vụ qn sự, cơng an.
- Đối tượng tạm hoãn:
+ Sinh viên do sức khỏe phải dừng học lâu dài, có xác nhận bệnh viện.
+ Sinh viên là phụ nữ mang thai hoặc trong thời gian thai sản.
Mơn học giáo dục Quốc phịng và An ninh có vai trị, ý nghĩa rất to lớn trong
việc giáo dục nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi sinh viên
trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước hội nhập và phát triển
hiện nay, việc nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiểu biết về kiến thức Quốc phòng và
An ninh là một nhiệm vụ thiết thực hơn bao giờ hết. Vì vậy, bồi dưỡng và nâng cao
kiến thức về giáo dục Quốc phòng và An ninh là một nhiệm vụ quan trọng và rất có
ý nghĩa, giúp sinh viên ý thức đồn kết dân tộc và khơng ngừng phấn đấu học tập
vươn lên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày đối tượng nghiên cứu của môn học Giáo dục Quốc phịng và An
ninh?
2. Trình bày phương pháp nghiên cứu mơn học Giáo dục Quốc phịng và An
ninh? Trách nhiệm của bản thân đối với môn học?

7


BÀI 2.
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Khi đánh giá về tình hình thế giới hiện nay, Đảng ta nhận định: “Tình hình
chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường;
tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh
mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực”1. Do, đó, việc chuẩn bị mọi mặt
cho đất nước để đối phó thắng lợi với chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là yêu cầu cơ bản lâu dài và nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội góp phần làm
rõ cơ sở lý luận của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội ta theo hướng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, khẳng định các chân lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, quân đội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CHIẾN TRANH
A. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHIẾN TRANH
1. Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội
- Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp. Trong lịch sử đã có
nhiều cách quan niệm khác nhau về hiện tượng chiến tranh. Một trong những
nhà tư tưởng quân sự được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá
cao là C.Ph.Claudơvít (1780 - 1831). Ơng quan niệm chiến tranh là một hành vi
bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình, là hoạt động mà
mỗi bên tham chiến huy động sức mạnh không hạn độ, đến tột cùng để giành
thắng lợi.
Với quan điểm này, C.Ph.Claudơvít đã bàn đến hành vi có tính đặc trưng của
chiến tranh là bạo lực và bạo lực đó kế tục chính trị. Tuy nhiên, C.Ph.Claudơvít
chưa luận giải được đúng đắn bản chất chính trị của chiến tranh.
- Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa tư tưởng trên và đi đến
khẳng định: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã - hội có tính lịch sử, đó là cuộc
đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các
nhà nước) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định.

+ Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội nghĩa là không phải là hiện
tượng tự nhiên bên ngồi xã hội, mà nó là hiện tượng chính trị xã hội, nó gắn với
giai cấp, Nhà nước, đảng phái.
1

8

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 71


+ Trong chiến tranh đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản, lực lượng
vũ trang là công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh.
+ Chiến tranh bao giờ cũng nhằm thực hiện mục đích chính trị của Nhà nước,
của giai cấp nhất định.
+ Chiến tranh có tính lịch sử nghĩa là nó chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch
sử nhất định, nó khơng tồn tại vĩnh viễn.
Đây là 4 đặc trưng của chiến tranh chúng có quan hệ biện chứng với nhau,
một hiện tượng được gọi là chiến tranh phải có đủ 4 đặc trưng trên nếu thiếu bất cứ
đặc trưng nào thì nó khơng phải là chiến tranh.
2. Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh
Nguồn gốc của chiến tranh là vấn đề cơ bản của mọi quan điểm khi giải thích
hiện tượng chiến tranh. Trong lịch sử cũng có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
gốc chiến tranh.
- Những quan điểm duy tâm tôn giáo tìm nguồn gốc chiến tranh từ lực lượng
siêu nhiên. Theo họ chiến tranh là do thượng đế, chúa trời và là sự trừng phạt của
thượng đế đối với lồi người.
Ơ.Guyt Xtanh nhà thần học phương Tây cho rằng, xã hội loài người là cuộc
đấu tranh giữa hai xứ sở đối lập, xứ sở của trời và xứ sở của người. Xứ sở của người
đầy tội lỗi, trái với ý trời và trời trừng phạt con người bằng chiến tranh.
- Các học giả theo chủ nghĩa Đác Uyn xã hội tìm nguồn gốc chiến tranh từ đấu

tranh sinh tồn của con người, có tính bản năng, sinh vật.
- Thuyết Man Tt lại tìm nguồn gốc chiến tranh từ nhân khẩu thừa. Quan
điểm này giải thích sản xuất vật chất tăng theo cấp số cộng, còn dân số tăng theo cấp
số nhân và đến một lúc nào đó sẽ tạo nhân khẩu thừa, để giải quyết tất yếu phải nổ
ra chiến tranh. Họ hơ hào về những cái mồm thừa cịn nguy hiểm hơn cả bom
nguyên tử để biện hộ cho hành động chiến tranh của chúng.
Những cách giải thích nguồn gốc chiến tranh trên không xuất phát từ
những những mâu thuẫn của hiện thực xã hội, mà từ lực lượng siêu nhiên, từ
bản năng sinh học hoặc từ chủ quan của con người. Với các cách giải thích này
thì chiến tranh khơng tránh khỏi đối với lồi người và khơng loại trừ được ra
khỏi đời sống xã hội.
- Trái với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin tìm nguồn gốc chiến
tranh từ hiện thực xã hội, từ những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, nguồn gốc chiến tranh từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
và đối kháng giai cấp khơng thể điều hồ. Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất thì xuất hiện giai cấp, đối kháng giai cấp là tất yếu. Trước sự bóc lột của giai
cấp thống trị, giai cấp bị trị không ngừng đấu tranh, lúc ngấm ngầm, lúc công khai,
nhưng xu thế chung là ngày càng quyết liệt. Trước sức mạnh và sự phản kháng của
giai cấp bị trị, giai cấp thống trị cũng dùng các thủ đoạn, phương thức khác nhau và
phương thức cuối cùng là dùng sức mạnh quân sự, sức mạnh bạo lực để đàn áp. Giai
9


cấp bị trị chỉ có thể đánh đổ giai cấp thống trị về mặt nhà nước khi có lực lượng tiên
tiến lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh bạo lực cách mạng và
tiến hành chiến tranh cách mạng giành chính quyền.
Trong giai đoạn thống trị xã hội, giai cấp thống trị không thoả mãn với lợi ích
từ bóc lột nhân dân lao động ở nước mình, mà cịn mở rộng phạm vi bóc lột ra nước
ngồi. Việc mở rộng lợi ích ra nước ngồi, giai cấp thống trị cũng dùng nhiều thủ
đoạn như mua chuộc, dụ dỗ... và khi các phương thức đó khơng đạt mục đích thì

chúng phát động chiến tranh và chiến tranh nổ ra. Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, đối kháng giai cấp tồn tại thì chiến tranh là tất yếu của lịch sử.
Thực tiễn lịch sử chứng minh, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ
cơng hữu về tư liệu sản xuất, khơng có đối kháng giai cấp, chiến tranh không xuất
hiện. Những cuộc xung đột có tính bạo lực trong xã hội này chỉ là tranh giành không
gian sinh sống, không mang nội dung chính trị, cho nên khơng phải là chiến tranh.
Ph.Ăngghen chỉ rõ: Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi
chưa có chế độ tư hữu, chưa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là
một hiện tượng chính trị xã hội cũng chưa xuất hiện. Mặc dù ở thời kỳ này đã xuất
hiện những cuộc xung đột vũ trang. Nhưng đó khơng phải là một cuộc chiến tranh
mà chỉ là một dạng lao động thời cổ.
Khi chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời với sự tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và đối kháng giai cấp thì chiến tranh cũng xuất hiện như một tất yếu lịch sử.
Từ đó đến nay, những xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối
kháng giai cấp đã nối tiếp nhau kéo theo chiến tranh diễn ra liên miên. Thực tế
cho thấy, từ khi chế độ Chiếm hữu nơ lệ ra đời đến nay, lồi người khơng có lúc
nào ngừng tiếng súng, khơng ở nơi này thì nơi khác. Có thể nói rằng, chừng nào
cịn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp thì chiến tranh
khơng thể tránh khỏi. Ph.Ăngghen khẳng định, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp
bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại như một tất yếu khách quan. Chế độ
áp bức bóc lột càng hồn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở
thành “bạn đường” của mọi chế độ tư hữu.
Chiến tranh sẽ mất đi khi tiền đề kinh tế, chính trị cho nó xuất hiện khơng cịn.
Chiến tranh cũng chỉ là hiện tượng có tính lịch sử, khơng phải vĩnh viễn đối với lồi
người. Muốn loại bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội thì xố bỏ chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, xoá bỏ đối kháng giai cấp, xây dựng thành công chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất và xã hội không giai cấp - chế độ cộng sản chủ nghĩa.
3. Bản chất của chiến tranh
Bản chất chiến tranh là vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong lịch sử,

cũng như hiện nay. Chiến tranh nổ ra với tính chất, quy mơ và với khơng gian,
thời gian khác nhau, vì vậy nhận thức bản chất chiến tranh thường gặp khó khăn
đối với mọi người. Trong lịch sử đã có nhiều nhà tư tưởng, nhà quân sự khái quát
về bản chất chiến tranh. Thời Cổ đại, Arixtốt (384 - 322 TCN) đã khái quát,
chiến tranh là nghệ thuật chính trị. G.Hêghen (1770 -1830), nhà triết học duy tâm
10


cổ điển Đức quan niệm, chiến tranh là công cụ thực hiện mục đích chính trị.
C.Ph.Claudơvít (1780 -1831) nhà quân sự tư sản Phổ cho rằng: “Chiến tranh của
một cộng đồng tiến hành bao giờ cũng là một hành vi chính trị, một sự kế tục của
các quan hệ chính trị, một sự thực hiện các quan hệ chính trị bằng các biện pháp
khác (thủ đoạn bạo lực)”1.
Các quan điểm trên có sự khác nhau, nhưng thống nhất với nhau ở nội dung
chính trị, ở hành động bạo lực của chiến tranh. Những quan điểm này đã có bước
tiến nhất định so với những quan điểm duy tâm tôn giáo về bản chất chiến tranh,
nhưng cũng không tránh khỏi sai lầm, phản động. Những hạn chế, sai lầm của
những quan điểm trên là hiểu về chính trị chưa khoa học. Chính trị theo quan điểm
các nhà tư tưởng trên khơng phải của quan hệ giai cấp, dân tộc và nếu có thì chỉ đơn
thuần ở đường lối đối ngoại, khơng đề cập đến đối nội.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao quan điểm của các nhà
tư tưởng trên, đã kế thừa, phát triển và vạch ra bản chất chiến tranh. V.I.Lênin đã
dùng khái quát của C.Ph.Claudơvít và khẳng định: “Chiến tranh là sự tiếp tục của
chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)”2. Về hình thức khái
qt của C.Ph.Claudơvít và V.I.Lênin không khác nhau, nhưng bản chất khác nhau
căn bản. Đối với C.Ph.Claudơvít, chính trị chỉ đơn thuần là quan hệ đối ngoại. Ơng
khơng đề cập đến chính trị từ quan hệ đối nội, trong khi đó quan hệ đối nội còn
quyết định quan hệ đối ngoại.
Bản chất chiến tranh trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trên
hai mặt cơ bản:

- Trước hết chiến tranh là một hiện tượng chính trị xã hội. Chiến tranh thuộc
phạm trù xã hội, đồng thời là phạm trù chính trị. Chiến tranh không phải là mọi hiện
tượng xã hội, mọi hiện tượng chính trị, nhưng đã là chiến tranh phải thuộc phạm trù
xã hội, chính trị.
- Thứ hai, chiến tranh khơng đồng nhất với chính trị, nó chỉ là kế tục chính trị
bằng thủ đoạn đặc thù, thủ đoạn bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, là nội dung
của chiến tranh, còn chiến tranh chỉ là một trong những phương thức tiến hành, thực
hiện mục đích chính trị. Trong các phương thức tiến hành, thực hiện mục đích chính
trị, chiến tranh là phương thức cuối cùng và cao nhất. Trước khi chiến tranh nổ ra,
các phương thức phi chiến tranh đã được vận dụng, tiến hành khơng có hiệu lực thì
phương thức cuối cùng là chiến tranh được thực hiện.
Tiếp cận bản chất chất chiến tranh trong sự thống nhất giữa hai mặt của chiến
tranh. Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang không tách rời. Như vậy, những xung
đột vũ trang trong xã hội cộng sản ngun thuỷ khơng có nội dung chính trị và
những phương thức thực hiện chính trị khơng sử dụng bạo lực vũ trang không phải
là chiến tranh.
Trong lịch sử, các thế lực tiến hành chiến tranh xâm lược, phản động thường
tìm cách che đậy nội dung chính trị để xuyên tạc bản chất chiến tranh. Những quan
1
2

C.Ph.Claudơvít, Bàn về chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 55
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 26, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 397

11


điểm cho tiến hành chiến tranh là thực hiện ý nguyện của chúa, giương ngọn cờ tơn
giáo… là tìm cách che đậy nội dung chính trị, xuyên tạc bản chất chiến tranh. Hiện
nay, các thế lực phản động, đặc biệt là đế quốc Mỹ cũng đưa ra lý do lật đổ một chế

độ độc tài, gia đình trị hoặc bảo vệ thế giới tự do… đều tìm cách che đậy nội dung
chính trị trong tiến hành chiến tranh xâm lược.
B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH
1. Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật, tác động
của chiến tranh đến đời sống xã hội
Nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, của bọn đế quốc thực dân, Hồ Chí
Minh thấy rằng: Ở đâu dù chính quốc hay thuộc địa thì giai cấp tư sản với mọi âm
mưu thủ đoạn xảo trá, chúng bóc lột, hà hiếp quần chúng nhân dân lao động nhằm
vơ vét cho lợi ích của chúng. Một mặt, chúng bóc lột nhân dân lao động ở chính
quốc, mặt khác chúng ra sức khai thác, vơ vét của cải ở thuộc địa.
Chính sự phát hiện này, Hồ Chí Minh đã ví: “Chủ nghĩa đế quốc như con
đỉa có hai cái vịi, một cái vịi bám vào giai cấp cơng nhân ở chính quốc, một
vịi bám vào thuộc địa, muốn giết con vật này phải đồng thời cắt cả hai cái vòi
của nó”1. Rõ ràng sự ăn bám này đã dẫn đến giai cấp vô sản, quần chúng nhân
dân lao động ngày càng bần cùng, cuộc sống khổ sở, bị chúng trà đạp lên phẩm
giá con người.
Với bản chất của chúng như vậy, Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Ngày nào cịn
bọn đế quốc thì nguy cơ chiến tranh vẫn cịn”2. Khi phân tích và luận giải, Hồ Chí
Minh đã vạch trần bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa. Người phê phán,
vạch mặt cái gọi là khai hoá văn minh của thực dân Pháp, thực chất là sự bóc lột,
đầu độc, dùng chính sách ngu dân, Người viết: “Họ coi người An Nam như những
súc vật phải điều khiển bằng roi vọt”3. Điều đó thấy rõ bản chất cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Pháp, ở đây thực ra là sự áp đặt chế độ thống trị bóc lột của
chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa mà thơi.
Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định:
“Ta chỉ giữ gìn non sơng, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và
độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp nước ta, bắt
dân ta làm nơ lệ”4.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành
ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh của nhân dân ta

chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền
và thống nhất đất nước.
2. Hồ Chí Minh xác định tính chất xã hội của chiến tranh
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Người đã xác định tính chất xã
hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 298
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 20
3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 364
4 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 150

1

2

12


là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính
nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách
mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo
lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có được, phải dùng bạo lực cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”1.
Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của
tồn dân, bằng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
3. Hồ Chí Minh khẳng định: Chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong

chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của
sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân
dân là một trong những di sản quý báu của Người.
Tư tưởng này được Người trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng sinh động
và sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh
toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Tư tưởng của Người được thể hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng,
ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng
phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”2. Qua đó thể hiện rõ mọi lực lượng
tham gia không phân biệt tầng lớp, giai cấp, tôn giáo nào. Với tất cả các loại vũ khí
trang bị có thể có được, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người với vũ khí
trang bị; cho dù gươm giáo, cuốc thuổng, gậy gộc nhưng có ý chí quyết tâm và
tinh thần yêu nước thì sẽ bảo vệ được nền độc lập tự do của Tổ quốc, điều này
càng làm phong phú và sâu sắc thêm tư tưởng chiến tranh của chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện cụ thể.
Để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Ba mươi mốt
triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là ba mươi mốt triệu
chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng” 3.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh tồn dân, trong đó
phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng cốt. Kháng chiến tồn dân phải đi đơi
với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên
tất cả các mặt trận: quân sự; chính trị; kinh tế; văn hố… Người chỉ rõ: “Nhưng
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 304
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 480
3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 232

1


2

13


chiến tranh ngày nay, không những riêng về mặt quân sự mà bao gồm cả chính trị,
kinh tế, ngoại giao”1.
Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong thời đại mới và là một sự phát triển đỉnh cao tư tưởng vũ trang toàn dân của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luận mác xít về
chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI
A. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ QUÂN ĐỘI
1. Khái niệm Quân đội
Theo Ph.Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do
nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh
phòng ngự”2.
Như vậy theo Ph.Ăngghen, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà
nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng cốt để
nhà nước, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền
(chủ nghĩa đế quốc), V.I.Lênin nhấn mạnh: Chức năng cơ bản của quân đội đế quốc
là phương tiện quân sự chủ yếu để đạt mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành
chiến tranh xâm lược và duy trì quyền thống trị của bọn bóc lột đối với nhân dân lao
động trong nước.
2. Nguồn gốc ra đời của Quân đội
Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có khơng ít nhà lí luận đề cập đến
nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có

chủ nghĩa Mác - Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị
xã hội đặc thù này.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời
của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định: Quân đội là một
hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người,
khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội.
Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc
lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng nhân dân lao
động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực làm công cụ
bạo lực của nhà nước.
Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai
cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, cịn
chế độ áp bức bóc lột thì qn đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp,
nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.
1
2

14

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 250
Ph.Ăngghen: Tuyển tập Luận văn quân sự, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, tr. 9.


3. Bản chất giai cấp của Quân đội
Bản chất của quân đội được xác định bởi quân đội đó do giai cấp nào tổ chức
ra, cơng cụ bạo lực đó nằm trong tay ai và nó phục vụ trước hết cho lợi ích của giai
cấp nào trong xã hội. Từ cách tiếp cận khoa học trên, các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định:
- Bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước
nhất định nhằm phục vụ cho giai cấp và nhà nước tổ chức, ni dưỡng nó. Ở

phương diện này, quân đội của các giai cấp và nhà nước thống trị, bóc lột trong lịch
sử bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang để tiến hành chiến tranh và đàn áp nhân
dân lao động. V.I.Lênin chỉ rõ: “Khơng phải chỉ dưới chính thể qn chủ, qn đội
mới là cơng cụ đàn áp. Nó vẫn là cơng cụ đàn áp trong tất cả các chính thể cộng hồ
tư sản, kể cả những chính thể cộng hồ dân chủ nhất”1.
Bản chất của quân đội tương đối ổn định, song khơng phải là cái cố định, bất
biến, mà có sự vận động, biến đổi. Sự vận động, biến đổi đó tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố và theo hai chiều hướng hoặc tăng cường, hoặc là suy giảm. Quân đội là một tổ
chức, một lực lượng chính trị - xã hội của nhà nước, một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng nên sự tác động của các điều kiện kinh tế,
chính trị, giai cấp, môi trường xã hội tất yếu ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của
quân đội. Trong các yếu tố ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của quân đội, yếu tố
giai cấp luôn tác động trực tiếp, mạnh mẽ và quyết định nhất. Quân đội nào cũng do
nhà nước tổ chức ra và chịu sự chi phối bởi đường lối chính trị của một giai cấp. Bài
học xương máu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho thấy, khi
Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, sự biến chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
không tránh khỏi và hậu quả tất yếu của nó là làm cho qn đội mất phương hướng
chính trị. V.I.Lênin từng chỉ rõ, giai cấp vô sản muốn là giai cấp thống trị, thì nó
phải tỏ rõ điều đó bằng tổ chức quân sự của mình.
Hiện nay, các học giả tư sản đang ra sức tuyên truyền cho quan điểm “siêu
giai cấp của quân đội và cho rằng, quân đội là cơng cụ của tồn xã hội, sự tồn
tại của nó là cần thiết để đảm bảo hoạt động “bình thường” của bất cứ hệ thống
xã hội nào. Do vậy, quân đội là tổ chức đứng ngoài xã hội và khơng có bản chất
giai cấp; là lực lượng “trung lập về chính trị”. Thực chất của quan điểm trên là
che đậy bản chất phản động vốn có của quân đội tư sản đế quốc; thực hiện mưu
đồ “vô hiệu hố” qn đội của các nước có chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ
nghĩa còn lại, làm cho quân đội xã hội chủ nghĩa dao động về tư tưởng, mất
phương hướng chính trị; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; tước bỏ quyền
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Cần thấy rằng, đây là một thủ
đoạn hết sức nham hiểm trong chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ

và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc hiện nay để thực
hiện mục tiêu lật đổ và xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bởi vậy, cần đấ u
tranh vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của các luận điểm trên và
khẳng định vấn đề có tính ngun tắc do V.I.Lênin chỉ ra là, hiện nay cũng như
1

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 610

15


trước kia và sau này quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được. Nghĩa là,
khơng có qn đội nào ra đời và tồn tại lại thoát ly khỏi các quan hệ chính trị,
giai cấp hiện thực; tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản với quân đội xã hội chủ nghĩa là vấn đề tất yếu đặt
ra. Mặt khác, cần chủ động đấu tranh ngăn chặn, khắc phục các tác động tiêu
cực làm ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân của quân đội xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
4. Sức mạnh chiến đấu của Quân đội
- Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sức mạnh chiến đấu của quân
đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Con người, điều kiện kinh tế, chính trị, văn
hố, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự, trong xây dựng sức mạnh chiến đấu
của quân đội các ông chú trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận
xét tài năng của các tướng lĩnh quân sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội
ngũ này.
- Bảo vệ và phát triển tư tưởng trên V.I.Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của
quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố quân số, tổ chức, cơ cấu biên chế;
yếu tố chính trị - tinh thần và kỉ luật; số lượng, chất lượng vũ khí trang bị kĩ thuật;
trình độ huấn luyện và thể lực; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh
lãnh đạo, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp. Giữa các yếu tố trên có mối

quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, vị trí, vai trị của từng yếu tố là khơng
ngang bằng nhau, trong những điều kiện xác định, yếu tố chính trị tinh thần giữ vai
trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội (Đây là một yếu tố cơ bản, có
vai trị quyết định trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Quân đội có tinh thần
cao, nhất là tinh thần chiến đấu cao mới tích cực, chủ động, mưu trí, sáng tạo trong
chiến đấu, vượt qua được những khó khăn, gian khổ, ác liệt, những thử thách đối với
khả năng chịu đựng của con người, nhất là trong điều kiện chiến tranh hiện đại).
V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ
thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1.
5. Nguyên tắc xây dựng Quân đội kiểu mới của Lênin
V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ, phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về
quân đội và sự vận dụng thành công trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp
vô sản.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, các thế lực thù địch
điên cuồng chống phá nước Nga Xô viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.I.
Lênin yêu cầu phải giải tán quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới (Hồng quân)
của giai cấp vô sản. V.I. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
quân đội kiểu mới:
- Đảng Cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân.
- Đồn kết thống nhất qn đội với nhân dân.
- Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
1

16

V.I.Lênin: Tồn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 147


- Xây dựng chính quy.
- Khơng ngừng hồn thiện cơ cấu tổ chức.

- Phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng.
- Sẵn sàng chiến đấu.
Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết
định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân.
Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của
V.I.Lênin vẫn giữ nguyên giá trị; là cơ sở lí luận khoa học cho các Đảng Cộng sản
xác định phương hướng tổ chức xây dựng quân đội của mình.
B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QN ĐỘI
1. Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn
đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam
Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với
sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Người viết: “Dân tộc Việt
Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân
sự, có tổ chức”1.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của
quân đội ta hiện nay ra đời. Sự thành lập của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tính tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng
để giành và giữ chính quyền. Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao
gồm hai lực lượng là: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu
tranh chính trị, đấu tranh quân sự, và kết hợp chặt chẽ hai lực lượng, hai hình thức
đó. Theo Người: tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc
nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nịng cốt. Vì vậy ngay từ đầu Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định phải “tổ chức quân đội công nông” chuẩn bị lực lượng cho
tổng khởi nghĩa. Xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động của dân tộc Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tổ chức lực lượng nhân dân Việt Nam - Quân đội nhân dân theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh phải trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. Về tổ chức, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương: Phải lựa chọn cán bộ, chiến sỹ từ các đội du kích, các
đội tự vệ để xây dựng quân đội chính quy. Khi xây dựng qn đội chính quy, vẫn

duy trì dân qn du kích và lực lượng vũ trang địa phương. Đó chính là hình thức tổ
cức lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân du kích. Bộ đội chủ lực, bồ đội địa phương hợp thành quân đội nhân dân.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân
Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp cơng nhân cho qn
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 71-72

17


đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành
chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong xây dựng bản chất
giai cấp công nhân cho quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo
dục, ni dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sở, nền
tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho
các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 22/12/1958, Người vừa biểu
dương, vừa căn dặn: “Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao
cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân,
chiến đấu anh dũng, cơng tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản
dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn
hồn thành nhiệm vụ”1. Lời căn dặn của Người là sự khái quát các phẩm chất, tiêu
chí của bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi
chiêu đãi mừng quân đội ta tròn hai mươi tuổi ngày 22/12/1964, một lần nữa Chủ
tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định, bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực
vũ trang của giai cấp, nhà nước. Người viết : “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

đánh thắng”2.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ
chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu thương, đùm bọc,
đồng thời được kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng ngàn
năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nước gắn liền với giữ nước oanh liệt. Do đó,
ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển, quân đội ta luôn thực sự là một
quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có
tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
3. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu
Đây là một trong những cống hiến của Hồ Chí Minh trong phát triển lý luận về
quân đội. Người lập luận, bản chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân của qn đội
ta là một thể thống nhất, xem đó như là biểu hiện tính quy luật của q trình hình
thành, phát triển qn đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Trong bài Tình
đồn kết qn dân ngày càng thêm bền chặt 3/3/1952, Người viết: “Quân đội ta là
quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân, đánh giặc để giành lại
độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngồi lợi
ích của nhân nhân, qn đội khơng có lợi ích nào khác”3.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân và vì dân theo quan điểm Hồ
Chí Minh cịn thể hiện rất rõ ở thái độ cũng như tinh thần phục vụ nhân dân. Tôn
trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân là yêu cầu
quan trọng xây dựng Quân đội ta. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Quân đội là quân đội nhân
dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến dấu, yêu nước, yêu dân cho nên hy sinh kham
khổ”. Quá trình giáo dục, rèn luyện Quân đội ta, người thường nhắc nhở: “Mình
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 247
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 349 - 350
3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 426-427

1
2


18


đánh giặc là vì dân, nhưng mình khơng phải “cứu tinh” của nhân dân mà mình có
trách nhiệm phụng sự nhân dân”1. Người căn dặn: “Dù ở cương vị nào, chúng ta
đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân
dân”. Người yêu cầu bộ đội phải làm sao được dân yêu, dân tin, dân phục để từ đó
dân hết sức giúp đỡ mình thì nhất định thắng lợi trong chiến đấu, công tác và lao
động sản xuất…
4. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội
Bắt nguồn từ nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới
của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt
quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lượng nịng cốt trong
đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh.
Để phát huy nhân tố con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo
đến đời sống vật chất tinh thần của bộ đội, khuyên răn, động viên, và biểu dương
kịp thời những gương “người tốt, việc tốt”. Người nói: “Tướng là kẻ giúp nước,
tướng giỏi thì nước mạnh, tướng xồng thì nước hèn” do đó, phải chăm lo xây dựng
cán bộ có đủ đức, đủ tài, Người địi hỏi mỗi cán bộ phải có đủ tư cách: Trí, dũng,
nhân, tín, liêm, trung.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân
đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân
của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân
đội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln dành sự chăm lo đặc
biệt đối với quân đội. Điều này được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo: Tuyệt
đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ cơng tác
đảng, cơng tác chính trị. Nhờ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành một quân
đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Thành tựu to lớn
trong tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội ta là, Đảng đã đào tạo
nên những thế hệ “Bộ đội cụ Hồ”, một mẫu hình mới của con người xã hội chủ

nghĩa trong qn đội kiểu mới. Như vậy, khơng có một Đảng Cộng sản chân chính,
khơng có một giai cấp công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trường xã hội
chủ nghĩa, thì quân đội nhân dân Việt Nam không thể giữ vững được bản chất giai
cấp công nhân, mục tiêu lí tưởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: Qn đội ta có sức mạnh vơ địch vì nó là một Qn đội nhân dân do Đảng ta xây
dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.
5. Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của Quân đội
Mục tiêu lí tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tưởng các
mạng của Đảng, của giai cấp cơng nhân và của tồn dân tộc: Gắn giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng
một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham
gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”2.
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 207
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 143

19



×