Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.46 KB, 20 trang )

Đề tài 10. Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế tri
thức ở nước ta hiện nay.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................1
B. NỘI DUNG ............................................................................................ 2
I. Cơ sở lý luận .................................................................................... 2
1. Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất ....................... 2
2. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tri thức ............................2
3. Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế tri
thức .............................................................................................. 5
3.1. Vai trò của nguồn lực con người ................................. 5
3.2. Vai trị của khoa học cơng nghệ .................................. 6
II. Vận dụng .........................................................................................8
1. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri
thức ở nước ta ..............................................................................8
1.1. Thực trạng đội ngũ người lao động ............................. 8
1.2. Thực trạng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ
trong sản xuất .................................................................... 10
2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh
tế tri thức ở nước ta hiện nay. ................................................... 11
C. KẾT LUẬN ......................................................................................... 17
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................18


A. MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện đại, khi mà sự chuyển đổi từ nền kinh tế dựa
vào lao động chủ yếu sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ, vai
trò của lực lượng sản xuất trở nên nền tảng và quyết định đối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức tại nước ta. Triết học Mác - Lênin, với tầm


nhìn khoa học và hiểu biết sâu sắc về quy luật phát triển xã hội, cung cấp
một khung nhìn tồn diện về vai trị của lực lượng sản xuất trong quá
trình chuyển đổi này. Tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích và thảo luận
về cách mà triết học Mác - Lênin nắm bắt và hướng dẫn chúng ta về vai
trò của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế tri thức tại nước ta
hiện nay.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, lực lượng sản xuất chính
là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong bối cảnh mơi
trường kinh doanh ngày càng phức tạp và địi hỏi sự sáng tạo, lực lượng
sản xuất không chỉ giới hạn trong việc tạo ra hàng hóa vật chất mà cịn
mở rộng ra việc sản xuất tri thức. Trong ngữ cảnh này, triết học Mác Lênin cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách quy luật phát triển kinh tế vẫn
giữ nguyên tính liên kết chặt chẽ với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tiểu luận sẽ tập trung phân tích cách mà triết học này đưa ra những
nguyên tắc hướng dẫn về quản lý, tổ chức và phát triển lực lượng sản xuất
trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang ngày càng trở nên quan trọng tại
nước ta.

1


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu
sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối
tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và
xã hội.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là
mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao
động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa "lao động sống" với

"lạo động vật hóa" tạo ra sức sản xuất, là tồn bộ những năng lực thực
tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực
lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu
sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc
biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất
theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ
bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
2. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phồ cập và
sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đổi với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức vẫn cịn nơng nghiệp, cơng nghiệp
nhưng 2 ngành này chiếm tỷ trọng thấp. Cũng như trong nền kinh tế công
nghiệp vẫn cịn nơng nghiệp nhưng nơng nghiệp nhỏ bé. Trong nền kinh
tế tri thức chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới nhất của khoa học cơng nghệ. Đó có thể lẫn ngành mới
như công nghiệp không tên (công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần
mềm) các ngành công nghiệp, dịch vụ mới đựa vào công nghệ cao, và
2


cũng có thể là ngành truyền thống (nơng nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ)
được cải tạo băng khoa học công nghệ cao.
Đặc điểm của kinh tế tri thức gồm:
Thứ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong 15 năm qua, các
nền kinh tế phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn, sâu sắc
về cơ cấu kinh tế, về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt động; đang
phát triên nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý tưởng đổi mới
và công nghệ là chìa khóa cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất
lượng cuộc sống.

Thứ hai là sản xuất cơng nghệ trở thành loại hình sản xuất quan
trọng nhất, tiên tiền nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các
ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đồi mới và phát
triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất cơng nghệ, đồng thời có nhiều
doanh nghiệp chun sản xuất cơng nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri
thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hóá, khơng cịn phân
biệt phịng thí nghiệm với cơng xưởng, những người làm việc trong đó là
cơng nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
Thứ ba là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi
lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối
với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thơng tin trở thành tài nguyên quan
trọng nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào
các kho thơng tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội
đều có tác động của cơng nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người gọi nên kinh tế tri thức là
nền kinh tế số hay kinh tế mạng.
Thứ tư là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát
triền. Trong cùng một lĩnh vực, khi một cơng ty thành cơng hơn, lớn
mạnh hơn, thì cơng ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng
khác ngay, nếu không muốn bị phá sản.
3


Thứ năm là xã hội thông tin thúc đầy sự dân chủ hóa. Mọi người
đêu dễ dàng truy cập đến các thơng tin cần thiết. Dân chủ hóa các hoạt
động và tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào
cũng có thể được thơng tin kịp thời về các quyết định của cơ quan Nhà
nước hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu
thấy khơng phù hợp.
Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát

triển. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập bất
cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Mạng thơng tin có ý nghĩa rất quan trọng cho
việc học tập suốt đời.
Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri
thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trường. Không phải như các
nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thơng tin có thể được
chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nến kinh tế tri thức do đó
là một nên kinh tê dư dật chứ không phải khan hiếm.
Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu
nhất thúc đầy sự phát triển. Công nghệ đồi mới rất nhanh, vịng đời cơng
nghệ rút ngăn: quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh
vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các
doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải ln đổi mới công
nghệ và sản phâm. Sáng tạo là linh hôn của sự đồi mới.
Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế tồn cầu hố. Thị
trường và sản phẩm mang tính tồn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ
nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Q trình
tồn cầu hóá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, tồn cầu
hóá và kinh tế tri thức thúc đầy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em
sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Thứ mười là sự thách thức đối với văn hóá. Trong nền kinh tế tri
thức - xã hội thơng tin, văn hóa có điều kiện phát triền nhanh và văn hóá
4


là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thơng tin, tri thức
bùng nỗ, trình độ văn hóa nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động
văn hóá phong phú, đa dạng. Nhu câu thưởng thức văn hóa của người dân
cũng tăng cao.
3. Vai trị của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế tri thức

3.1. Vai trò của nguồn lực con người
Theo quan điểm duy vật lịch sử, nguồn gốc của mọi sự vận động,
phát triển xã hội, lịch sử nhân loại nói chung và các lĩnh vực trong đời
sống xã hội nói riêng, suy đến cùng, đều bắt đầu từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố có ý
nghĩa quan trọng và quyết định nhất. C.Mác đã khẳng định: “Trong tất cả
những cơng cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản
thân giai cấp cách mạng”. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc phát
triển đội ngũ trí thức cả về số lượng và chất lượng, đồng thời phát huy vai
trò của đội ngũ này trên các lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, y
tế, giáo dục…) và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ trí thức
khơng chỉ trực tiếp đề xuất các luận cứ khoa học làm cơ sở cho các quyết
sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về con đường, mơ hình và bước đi
của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà cịn là lực lượng trực tiếp
đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho q
trình này.
Trí thức không phải là những cá nhân trừu tượng mà là những con
người có phẩm chất trí tuệ, thơng minh, một phần do thiên phú, nòi giống,
nhưng phần quyết định là được đào tạo, huấn luyện một cách rất cơ bản,
nghiêm túc; đồng thời có ý thức say mê, cần mẫn học tập, tìm tịi, sáng
tạo. Có thể nói, trí thức là một nhóm xã hội đặc biệt bao gồm những
5


người có trình độ học vấn, chun mơn sâu về một lĩnh vực, có đạo đức
chun mơn nghề nghiệp, ln có ý thức phấn đấu, cống hiến và sáng tạo
khơng ngừng vì cộng đồng xã hội, vì đất nước.
3.2. Vai trị của khoa học cơng nghệ

Khi bàn đến các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, ngoài việc đề
cao vai trò của hai yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động, C.Mác nhấn
mạnh vai trò của khoa học, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của xã hội lồi người
thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác nhận định: “Sự phát triển
của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển
hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Theo luận
điểm trên, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc,
thiết bị, nhà xưởng, cơng cụ sản xuất (tư bản cố định) và được người lao
động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Mác khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ thống máy
móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được
một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các mơn khoa học đều được phục
vụ tư bản, cịn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn
lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với
nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở
thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”.
Luận điểm trên của C.Mác cho thấy, khoa học tự bản thân nó khơng thể
tạo ra bất kỳ tác động nào mà phải thông qua sự ứng dụng và hoạt động
thực tiễn của con người thì khoa học mới có thể phát huy được tác dụng,
hay nói cách khác, khoa học trở thành lực lượng sản xuất với điều kiện là
khoa học phải tồn tại dưới dạng lao động được vật hóa thành máy móc.
6


Phán đoán của C.Mác về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
cần được hiểu ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, khoa học vốn là một hệ thống những tri thức được con
người vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, được vật hóa trong các

thao tác lao động và đem lại những hiệu quả nhất định. Như vậy, từ chỗ
là lực lượng sản xuất tiềm năng, khoa học đã từng bước tham gia trực tiếp
vào quá trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, khoa học có sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật và công nghệ,
trở thành cơ sở lý thuyết cho các phương tiện kỹ thuật, công nghệ mà
thông qua đó, khoa học được vật chất hóa trong các yếu tố vật thể của lực
lượng sản xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học với kỹ thuật và công
nghệ là một xu thế tất yếu của phát triển lực lượng sản xuất hiện đại bởi
khoa học muốn phát triển nhanh cần phải có sự trợ giúp của cơng nghệ
hiện đại; đồng thời, muốn sản xuất ra công nghệ mới đòi hỏi con người
phải dựa trên những phát minh khoa học mới. Điều đó cũng chứng tỏ
khoa học gắn bó chặt chẽ và là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, thời gian để lý thuyết khoa học đi vào thực tiễn sản xuất
ngày càng được rút ngắn lại. Trong những thế kỷ trước, thời gian từ
phòng thí nghiệm đến thực tế sản xuất thường rất dài. Nhưng từ cuối thế
kỷ XIX đến nay, nhờ sự phát triển khơng ngừng của khoa học hiện đại,
q trình trên đã được rút ngắn rất nhiều.
Thứ tư, khoa học thâm nhập vào tất cả các yếu tố cấu thành của lực
lượng sản xuất. Nhờ có khoa học, cơng cụ lao động ngày càng được cải
tiến, sức lao động của con người được giải phóng. Con người ngày càng
tạo ra được nhiều đối tượng lao động nhân tạo, khắc phục được hạn chế
về thời gian sử dụng và một số đặc tính khác của đối tượng lao động tự

7


nhiên. Cũng nhờ khoa học mà trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của
người lao động được nâng cao.
II. Vận dụng

1. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức
ở nước ta
1.1. Thực trạng đội ngũ người lao động
Dân số đông và tỉ lệ người trong độ tuổi lao động cao là những lợi
thế to lớn của Việt Nam để phát triển lực lượng sản xuất: Tính đến ngày
1/4/2019, tổng số dân Việt Nam được thống kê là hơn 96 triệu người, xếp
thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó, gần
88% dân số trong độ tuổi từ 25-59 tham gia lực lượng lao động; trong đó
tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động cao nhất ở nhóm tuổi 25-29
(14,3%) và giảm nhẹ ở nhóm 30-34 (14,2%). Dân số ở nhóm tuổi trẻ
(nhóm 15-19 tuổi và nhóm 20-24 tuổi) và nhóm tuổi già (từ 60 tuổi trở
lên) đều chiếm tỷ trọng tham gia lực lượng lao động thấp (dưới 10%).
Trong khi đó nhóm dân số ở độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 61,1%
vào năm 1999 lên 69,1% vào năm 2009 và ổn định ở mức 69,4% năm
2014. Việt Nam đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” hay còn gọi là
“cửa sổ cơ hội nhân khẩu học”. Điều đó đồng nghĩa rằng số người trong
độ tuổi lao động cao gấp đôi nhóm dânsố trong độ tuổi phụ thuộc. Nói
cách khác, cứ có hơn 2 người trong độ tuổi lao động thì chỉ có 1 người ở
độ tuổi phụ thuộc.
Theo số liệu thống kê năm 2015, trong tổng số 53,7 triệu người từ
15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của nước ta, có 9,99 triệu người
đã qua đào tạo, chiếm 18,6% trong tổng số lao động trên cả nước. Trong
những năm gần đây, tỉ lệ lao động có trình độ đại học của lực lượng lao
động trực tiếp không ngừng tăng lên. Năm 2012, trung bình cả nước có
4,7%, năm 2013 là 5,8%, đến năm 2014, tỷ lệ này là 6,2%. Sự tăng lên
8


khơng ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc

ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền
sản xuất theo hướng hiện đại. Tính đến năm 2019, lực lượng lao động đã
tốt nghiệp THPT trở lên chiếm 39,1%, tăng 13,5 điểm phần trăm so với
năm 2009; đã được đào tạo có bằng, chứng chỉ (từ sơ cấp trở lên) chiếm
23,1% (ở khu vực thành thị cao gấp 2,5 lần khu vực nông thôn, tương
ứng là 39,3% và 15,6%). (Theo báo cáo dân số Việt Nam 2019)
Một trong những đặc điểm nổi bật của con người Việt Nam trong
lịch sử là sự cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Đó cũng chính là ưu điểm của
người lao động nước ta hiện nay. Nhờ đó, người lao động có năng lực
trong việc sản xuất những mặt hàng địi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh
xảo cao. Cũng với tính cần cù, chăm chỉ, ngày nay số lượng lao động Việt
Nam làm việc trong các ngành công nghiệp lắp ráp công nghệ cao cũng
chiếm tỉ lệ khá lớn. Do q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong
những năm gần đây, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty, nhà máy lớn
được xây dựngdo các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Sam Sung, Toyota,
Deawoo... Các chủ đầu tư của những cơng ty đó đã nhìn thấy ưu điểm nổi
bật của nguồn lao động nước ta là sự cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó,
cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực,
giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ lao động cơng
nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Như
vậy, có thể thấy tỉ lệ lao động có trình độ ở nước ta còn thấp (dưới 50%),
đây là một hạn chế cần khắc phục.
Nhóm nghề lao động giản đơn thu hút nhiều nhân lực nhất trong
nền kinh tế với tỷ lệ 33,2%. So với 10 năm trước đây, tỷ trọng lao động
làm công việc giản đơn đã giảm mạnh (giảm 7,1 điểm phần trăm). Các
nhóm “dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng”, “thợ thủ công và các thợ
9



khác có liên quan” và “thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị” cũng là
những nhóm nghề thu hút nhiều lực lượng lao động, tương ứng là 18,3%,
14,5% và 13,2% tổng số lao động đang làm việc.
Ngoài ra, sự linh hoạt và sáng tạo của người lao động Việt Nam
cũng là một đặc điểm nổi bật. Khả năng thích ứng nhanh chóng với thay
đổi và khả năng tìm kiếm giải pháp sáng tạo là những phẩm chất quan
trọng giúp họ vươn lên trong môi trường kinh tế tri thức, nơi mà sự đổi
mới và sáng tạo là chìa khóa của sự thành cơng.
Mặc dù có những cải thiện đáng kể trong đội ngũ người lao động,
nhưng còn nhiều thách thức cần vượt qua. Tỉ lệ người lao động có trình
độ vẫn cịn thấp, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp yêu cầu kỹ năng
chuyên sâu. Việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề và tạo ra
các chính sách hỗ trợ để khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo là những
bước quan trọng để đưa nguồn nhân lực Việt Nam lên tầm cao mới.
Đội ngũ người lao động Việt Nam đang có những chuyển biến tích
cực, đồng hành cùng sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Sự cần cù,
chăm chỉ, và khả năng sáng tạo của họ là nguồn động viên quan trọng, tạo
nên tầm nhìn lạc quan cho sự nghiệp phồn thịnh của đất nước.
1.2. Thực trạng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong sản
xuất
Khoa học - công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trị quan
trọng trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những thành tựu
của khoa học, cơng nghệ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu
sản xuất, trước hết là cải biến những công cụ lao động cả trong lĩnh vực
công nghiệp và nông nghiệp.
Trong thời gian qua, với xu thế tồn cầu hóa, sự chuyển giao và hội
nhập quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát
triển mạnh mẽ. Những công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ
10



công nghiệp đã được thay thế bằng những dây chuyền máy móc thiết bị
tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người được giải phóng, lao động
chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động giản đơn dần
được thay thế bằng sự chun mơn hóa ngày càng cao. Những sự thay đổi
lớn lao của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc,
khối lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Cũng
nhờ sự phát triển của công cụ sản xuất, nền kinh tế nước ta đang có sự
chuyển dịch lớn mạnh về cơ cấukinh tế. Trong những năm gần đây, tỉ
trọng đóng góp của các ngành cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu
hướng tăng mạnh hơn so với các ngành nông nghiệp.
Theo Báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2014 của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đứng
thứ 71/143 nước, đứng thứ 4 trong số các nước thuộc khối ASEAN. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, cơng nghệ vào
sản xuất cịn nhiều hạn chế. Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa và tin học
hóa của nhiều ngành kinh tế nhìn chung cịn nhiều hạn chế.
2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
tri thức ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, phải đổi mới cơ chế quản lý, phát huy mọi khả năng sáng tạo
của người dân, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế
phát huy hết khả năng của mình đóng góp vào phát triển sản xuất. Nhà
nước quản lý bằng luật pháp, bằng cơ chế chính sách, tạo mơi trường
thuận lợi cho sự cạnh tranh lành mạnh; chăm lo phúc lợi xã hội; giáo dục,
khoa học... mà không nên can thiệp vào sản xuất kinh doanh; đề cho mỗi
doanh nghiệp, mỗi người dân phát huy hết quyền chủ động sáng tạo của
mình.

11



Vai trò của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có ý nghĩa quyết
định đối với phát triển khoa học công nghệ, hướng tới nền kinh tế tri thức.
Phải tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Phát huy tối
đa quyền chủ động sáng tạo của các đoanh nghiệp. Hiện nay trong kinh tế
thị trường chế độ trách nhiệm không rõ, mất mát thua lỗ không ai chịu
trách nhiệm. Nếu giao trách nhiệm cho một công ty tự bỏ vốn ra xây
dựng rồi khai thác để thu hồi lại vốn thì tình hình sẽ khác hẳn, khơng hiệu
quả thì họ khơng làm.
Phải thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy mọi thành phần
kinh tế như các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Hiện nay cịn nhiều vướng
mắc lúng túng trong chính sách, mà chủ yếu là do nhận thức về mối quan
hệ giữa cơ chế thị trường và sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa chưa được sáng tỏ. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát
triển lực lượng sản xuất, phải xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất sao
cho thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Mọi người ai có khả năng góp
phần vào sự phát triển sản xuất thì phải được khuyến khích, phải thực sự
khuyến khích mọi người làm giàu; Nhà nước có chính sách điều tiết thu
nhập chăm lo phúc lợi xã hội, tạo công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi
những người yếu thế
Thứ hai, là chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo
dục và tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Đây là yếu tố quyết
định nhất thúc đẩy nước ta đi nhanh vào kinh tế tri thức. Phải xây dựng
những thế hệ người Việt Nam có bản lĩnh, có lý tưởng, có khả năng sáng
tạo, làm chủ được tri thức hiện đại, quyết tâm đưa nước ta lên trình độ
phát triển sánh kịp các nước. Khoảng cách với các nước phát triển chủ
yếu là khoảng cách về tri thức. Ta có thể rút ngắn được băng xây dựng và
12



phát triển mạnh nên giáo dục tiên tiến phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại. Trong một thời gian ngắn (khoảng 5 năm) phải phổ cập giáo dục
trung học cơ sở trong toàn quốc, phổ cập trung học phổ thông trong các
thành thị, khu công nghiệp và vùng đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý,
các doanh gia. Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo và khoa học
công nghệ với nước ngoài; tuyên chọn đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến
số lượng lớn cán bộ khoa học kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu tiên chiến
lược.
Thứ ba, là tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, thực
hiện tốt các chính sách, chủ trương đã nêu trong Nghị quyết TW2 về khoa
học, công nghệ mà nhât là: Phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài;
Phát huy sức sáng tạo trong khoa học; các chính sách đãi ngộ, tạo điều
kiện cho cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng dân
chủ trong khoa học; Các chính sách khuyến khích và bắt buộc các doanh
nghiệp phải ứng dụng khoa học, đối mới công nghệ, cơ chê quản lý kinh
tê phải buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh bình đắng, phải lấy hiệu
quả làm đầu, đồng thời có chính sách khun khích; Tăng đầu tư cho
KHCN (Nhà nước và doanh nghiệp) đạt 2% GDP, tăng đầu tư đặc biệt là
cần có tổ chức có hiệu lực chỉ đạo phát triển công nghệ thông tin.
Thứ tư, là cải cách hành chính và tạo lập một khn khổ pháp lý mới có
khả năng thúc đẩy mọi khả năng sáng tạo, cho sản xuất "bung ra", đáp
ứng yêu câu phát triển nhanh các đoanh nghiệp mới, doanh nghiệp tri
thức phù hợp với xu thể tồn câu hóa mà nước ta đang trong quá trình hội
nhập. Điều này được thực hiện trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò quản
lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

13



nghĩa. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế nhưng vai trò của Nhà nước
trong việc định hướng.

Để doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với nền kinh tế tri thức cần có
những biện pháp đồng bộ về chính sách của Nhà nước (như hỗ trợ nghiên
cứu phát triển, xây dựng hệ thống thông tin, phát triển giáo dục...) và các
động thái tích cực chủ động của từng doanh nghiệp.
Đầu tư cho nhân lực. Những cá nhân xuất sắc sẽ là vồn quí cho từng
đoanh nghiệp. Với tri thức họ sẽ tạo ra thành công cho đoanh nghiệp, làm
tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm. Các doanh nghiệp nước ta nên
áp dụng mơ hình đào tạo và phát triển nhân sự theo nguyên tắc trách
nhiệm từ dưới lên. Trước hết từng nhân viên phải chịu trách nhiệm cho sự
phát triển con người của chính mình, sau đó trách nhiệm thuộc về cấp
trên trực tiếp với vai trò huấn luyện viên, tiếp theo là cấp trên gián tiếp
với vai trò người cố vần, và sau cùng vai trò người ủng hộ của lãnh đạo
hàng đầu đoanh nghiệp. Khi đó trưởng bộ phận nhân sự hoạt động như là
người xây dựng phát triển mơ hình, người điều phối và tư vấn bên canh
việc xây dựng và áp dụng mơ hình này, doanh nghiệp nên chú trọng vào
hình thức đào tạo tại nơi làm việc "(hơn là đào tạo ngoài nơi làm việc).
Như vậy đoanh nghiệp sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ lao động thơng
qua việc khuyến khích và động viên tồn thể nhân viên hướng tới học tập
suốt đời với mức chi phí hợp lý.
Đổi mới và cải tiền cơng nghệ ,áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh thích ứng
của doanh nghiệp với thị trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng năng lực cơng nghệ hiện có,
thực hiện chun giao cơng nghệ băng nhiều hình thức khác nhau như

14



mua hợp tác liên doanh, truy cập thông tin... Đồng thời chủ động áp dụng
công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh như áp dụng phần mềm
xây dựng trang web quảng cáo giới thiệu sản phẩm và cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ trực tuyến nhằm gắn kết chặt chẽ hơn với khách hàng, tạo cơ
hội tiếp cận với thị trường thế giới. Đó sẽ là bước đi đầu tiên của doanh
nghiệp hướng tới thương mại điện tử. Tuy nhiên điều quan trọng là lựa
chọn và đổi mới công nghệ không chỉ dựa trên ý muốn chủ quan của
doanh nghiệp mà còn phải xuất phát từ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Chú trọng đến quản trị tri thức trong phạm vi doanh nghiệp. Đây là một
khái niệm tương đối mới bao hàm nội dung tiếp cận tri thức và thông tin
sử dụng chia sẻ tri thức và thông tin giữa các thành viên trong doanh
nghiệp. Nhiệm vụ của quản trị gia là tạo môi trường, xác lập cơ cầu tổ
chức quản trị phù hợp để khuyến khích sự sáng tạo trong doanh nghiệp
chia sẻ thông tin, tri thức giữa các cá nhân và bộ phận. Điều này liên quan
đến việc hình thành văn hóa doanh nghiệp hệ thống thông tin trong doanh
nghiệp rõ ràng...
Doanh nghiệp là một tổ chức giáo dục Kinh tế tri thức đòi hỏi các đoanh
nghiệp phải nâng cao lực lượng trong việc hấp thụ tri thức, vận dụng tri
thức và tự mình đổi mới tri thức. Điều đó dẫn đến các hãng cũng phải trở
thành các tổ chức học hỏi. Thông tin và lao động di chuyển ngày càng
nhanh buộc các công ty phải nhậy bén hơn địi hỏi mọi người phải ln
tiếp tục học tập. Học tập bao gồm cà trao đổi các thơng tin, tri thức và kỹ
thuật có sẵn và phát hiện ra các nguyên tắc và tri thức mới. Một số
phương pháp sau:
Học tập qua công việc, học tập tại nơi làm việc: công nhân đào tạo lẫn
nhau, luân chuyến công việc trả lương căn cứ vào kỹ năng những nhóm
chính thức hoặc khơng chính thức và chế độ góp ý cải tiến.


15


Doanh nghiệp đặt ở các trường học: Đây là tổ chức "lai tạo" kết hợp học
tập và sản xuất, gọi là "đoanh nghiệp nhà trường". Các doanh nghiệp nhà
trường được sử dụng như là một bộ phận của hệ thống học nghề để cung
cấp kinh nghiệm sản xuất cho học sinh đang chờ ký hợp đồng đào tạo với
các doanh nghiệp. Nó cũng có thể được sử dụng để cung cấp sự học tập
dựa trên công việc cho những học sinh chưa được chun mơn hố về
một nghề hay ngành cụ thể. Trong các doanh nghiệp này học sinh sản
xuất hàng hoá và dịch vụ cho người khác với tư cách là một bộ phận của
việc học tập của các em tại trường. Thậm chí có những doanh nghiệp tự
gọi mình là "một nhà máy dạy học" về một số mặt, những doanh nghiệp
này được tổ chức như công ty chứ không phải là một nhà trường với một
chế độ làm việc, trả lương như một doanh nghiệp thực thụ. Một số doanh
nghiệp đi xa hơn bằng cách lập ra trường hợp riêng của doanh nghiệp.
Cộng tác với các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu: Sự nương
tựa này một nhiều vào những tiến bộ trong kiến thức và khoa học, công
nghệ sẽ tận dụng những cơ hội trợ cho các doanh nghiệp thành công.
Muốn vậy, các công ty phải cộng tác với các trường đại học và các trung
tâm nghiên cứu. Sự hợp tác giữa các trường đại học và giới kinh doanh
được nhiều tầng lớp ủng hộ. Cho nên chi phí cho đào tạo, GD rất cao.

16


C. KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển
nền kinh tế tri thức ở nước ta dưới góc nhìn của triết học Mác - Lênin,
chúng ta có thể rõ ràng nhận thức về sự quyết định và không thể phủ nhận

của lực lượng sản xuất trong quá trình này. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định rằng, sự tiến bộ và phồn thịnh của xã hội khơng thể đạt được
mà khơng có sự đổi mới và phát triển của lực lượng sản xuất. Qua đó,
triết học này giúp chúng ta nhìn nhận rõ ràng về vai trị khơng chỉ giữa
mặt vật chất mà còn trong sản xuất và quản lý tri thức.
Trong thời kỳ mà nền kinh tế tri thức ngày càng chiếm ưu thế, triết
học Mác - Lênin cung cấp một cơ sở lý luận vững chắc để hiểu rõ và khai
thác tiềm năng của lực lượng sản xuất trong sản xuất tri thức. Bằng cách
nhìn nhận sự tương tác đơi chiều giữa sự phát triển của xã hội và lực
lượng sản xuất, triết học này khơng chỉ định hình chiến lược phát triển mà
còn là nguồn động viên mạnh mẽ để đối mặt với thách thức của thế giới
hiện đại. Đồng thời, nó mở ra những cơ hội mới để nước ta khơng chỉ
thịnh vượng về mặt kinh tế mà cịn là một cường quốc tri thức, tiên tiến
và bền vững.

17


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác- Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Chính trị Quốc gia
Sự thật, 2021.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000.
3. Tạp Chí Cộng sản.
4. Tạp chí Khoa học xã hội.
5. Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 48/2001.

18




×