Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Dư luận xã hội và công tác tư tưởng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.4 KB, 125 trang )

Đề tài

DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC

PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
Chương 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC QUAN ĐIỂM, QUAN NIỆM VỀ
DƯ LUẬN XÃ HỘI...........................................................................................................1
1.1. Quan niệm trước Mác về dư luận xã hội...................................................................1
1.2. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta về dư
luận xã hội.............................................................................................................................7
1.3. Quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay về dư luận xã hội..........................10
Chương 2 BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA DƯ
LUẬN XÃ HỘI ............................................................................................................16
2.1. Bản chất của dư luận xã hội......................................................................................16
2.2. Chức năng cơ bản của dư luận xã hội......................................................................24
2.3. Tin đồn và mối quan hệ của nó vơi dư luận xã hội................................................28
2.4. Dư luận xã hội và chuẩn mực xã hội.......................................................................35
Chương 3 SỰ HÌNH THÀNH DƯ LUẬN XÃ HỘI.................................................39
3.1. Các nhân tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội........................................39
3.2. Các giai đoạn hình thành dư luận xã hội.................................................................45
PHẦN II
NGHIÊN CỨU, ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRONG CÔNG TÁC TƯ
TƯỞN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chương 4 CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI............52
4.1. Các phương pháp nghiên cứu định tính trong nghiên cứu dư luận xã hội..........52
4.2. Các phương pháp nghiên cứu định lượng...............................................................71


Chương 5 SỬ DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, NẮM BẮT DƯ LUẬN XÃ
HỘI TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG...................................................................88
5.1. Sử dụng kết quả nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội trong quản lý xã
hội ........................................................................................................................................88
5.2. Sử dụng kết quả nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội trong công tác tư
tưởng ...................................................................................................................................94
Chương 6 ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI......................................................100
6.1. Khái niệm, mục đích, nội dung và cấp độ định hướng dư luận xã hội..............100
6.2. Một số phương pháp chủ yếu định hướng dư luận xã hội...................................106
6.3. Nâng cao hiệu quả định hướng dư luận xã hội................................................112
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................119


PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
DƯ LUẬN XÃ HỘI


CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC QUAN ĐIỂM, QUAN
NIỆM VỀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
1.1. Quan niệm trước Mác về dư luận xã hội
Trước khi thuật ngữ dư luận xã hội xuất hiện, quan niệm về DLXH
được các nhà tư tưởng, các nhà khoa học xem xét gắn liền với vai trò của
quần chúng nhân dân. Trong một xã hội mà con người được đề cao thì ý kiến
của họ thường được coi trọng và vai trò của DLXH được phát huy. Ngược lại,
nếu vị thế người dân thấp kém, bị coi thường thì ý kiến của họ dễ bị bỏ qua,
DLXH bị xem nhẹ.
Trong quan điểm của các tác gia cổ đại phương Tây, khái niệm về
DLXH không được đề cập một cách trực tiếp mà chủ yếu được thể hiện thơng

qua quan niệm về vai trị của nhân dân. Chẳng hạn, theo quan điểm của
Aristotle, quyền lực của nhà nước phải phục vụ toàn xã hội, phải đáp ứng
những nhu cầu và đòi hỏi của xã hội. Còn Polilus cho rằng, nguyên nhân của
đạo đức và sự công bằng là sự đồng tình và khơng đồng tình của các nhóm xã
hội về hiện thực xã hội và các vấn đề xã hội. Trong khi Thomas d’ Aquin lại
cho rằng quyền lực chính trị cao nhất thuộc về Chúa, tuy nhiên Chúa có thể
ủy quyền lãnh đạo thơng qua nhân dân, quyền lực của nhà nước cũng được
thông qua nhân dân và nằm dưới sự lãnh đạo của nhà thờ. Marciglio là người
đầu tiên bảo vệ hai quan điểm về chính trị hiện đại. Đó là khái niệm chủ
quyền của nhân dân, chính quyền đại diện cho dân và khái niệm tách chính
quyền ra khỏi thẩm quyền. Ơng nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân trong
việc tổ chức và duy trì nhà nước.
Giống như trong triết học phương Tây cổ đại, trong triết học phương
Đông cổ đại, khái niệm DLXH cũng chưa được định hình. Tuy nhiên, trong
Khổng giáo hay Phật giáo, các học giả cũng đã nói đến những hiện tượng như
“lòng dân”, “ý dân”, “dân là gốc”… Quan điểm về DLXH thời kỳ này cũng có
1


thể được đánh giá thông qua quan điểm về vai trị của người dân trong đời sống
chính trị - xã hội. Chẳng hạn, trong sách Thượng Thư có viết: “Dân vi bang
bản”; Mạnh Tử nói: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; Tuân Tử thì
cho rằng: “Mối quan hệ giữa vua và tôi là mối quan hệ giữa thuyền và nước,
nước có thể nâng thuyền cũng có thể lật thuyền”… Có thể thấy rằng, trong
quan điểm của Khổng giáo và ít nhiều trong thực tiễn xã hội Việt Nam thời
phong kiến, quyền lực của nhà nước nằm trong tay nhà vua, nhưng quyền đó
được củng cố hay suy giảm là do sự đồng tình, đồng thuận hay phản đối, bất
bình của người dân. Nguyễn Trãi đã nói: đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng
là dân. Khi thốt lên câu nói: “Lưỡi thế gian nhọn hơn giáo mác” thì chính là
lúc Nguyễn Trãi cảm nhận thấy sức mạnh to lớn của DLXH.

Trong lịch sử nhân loại, cuộc tranh luận xung quanh khái niệm DLXH
diễn ra khá sôi động vào thời kỳ mà các cuộc cách mạng tư sản đang diễn ra,
khi mà những quan điểm và hành động của con người ảnh hưởng sâu sắc đến
tiến trình các cuộc cách mạng tư sản và trở thành nhân tố góp phần quyết định
đến thắng lợi của giai cấp tư sản trẻ tuổi đối với giai cấp phong kiến.
Các nhà Khai sáng, khi bàn về bản chất của DLXH, cho rằng:
- Đặc trưng của DLXH là sự đánh giá xã hội.
- Sự đánh giá của xã hội được tiến hành đối với những vấn đề có sự
quan tâm chung.
Rútxơ, một đại biểu của các nhà Khai sáng Pháp cho rằng DLXH là sự
đánh giá của xã hội về hoạt động của nghị viện hoặc của chính phủ. Trong tác
phẩm “Công ước xã hội”, ông viết: các luật lệ của nhà nước cần phải phù hợp
với ý chí của nhân dân. Quyền lực của nhà nước phải được thể hiện phù hợp
với các phán xét của nhân dân. Mọi hội nghị của nhân dân nên đặt đặt ra hai
vấn đề:
- Việc duy trì hình thức lãnh đạo hiện đang tồn tại có cịn có lợi cho
nhân dân hay khơng?
- Chính quyền của nhà nước có cịn nằm trong tay những người đang
2


cầm quyền hay không?
Theo Rútxô, trong các điều kiện như vậy chính phủ ln nằm dưới sự
đe dọa bị bãi miễn và phải tuân theo những mệnh lệnh của hội nghị nhân dân.
 Hêghen, nhà triết học duy tâm cổ điển Đức, cho rằng về bản chất
DLXH là sự đánh giá của xã hội với hoạt động nghị viện của chính phủ.
Như vậy, theo Hêghen DLXH trước hết dành sự quan tâm đánh giá đối với
các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống chính trị. Ơng cịn cho rằng
cơ sở của việc hình thành DLXH là sự thảo luận. Nhờ thảo luận, tranh luận,
trao đổi mà những cái chung có trong các ý kiến riêng được tập hợp lại trở

thành ý kiến chung, tỷ trọng cái chung trong các ý kiến do đó tăng lên gắn
liền với cái đối lập của nó là các ý kiến có sắc thái “riêng và đặc thù của
mọi người”. “Các nguyên tắc về sự cơng bằng, nội dung và kết quả của
tồn bộ hệ thống nhà nước, hệ thống pháp luật và nội dung của tồn bộ tình
trạng các cơng việc – được phản ánh trong dư luận xã hội dưới dạng các tư
tưởng nhân văn, thông thái”.
Tuy nhiên, Hêghen lại cho rằng cái đặc thù và cái riêng trong ý kiến
của mọi người bao gồm trong nó tồn bộ tính ngẫu nhiên của dư luận, sự dốt
nát, sự xuyên tạc, sự giả dối, sự lừa phỉnh của nó.
Theo ơng, các ngun tắc cốt lõi tạo ra cơ sở đạo đức của mọi dư luận
là các thành kiến. Với các luận điểm trên đây, Hêghen muốn khẳng định luận
điểm của mình về bản chất mâu thuẫn của DLXH, rằng “cơ sở đạo đức” của
dư luận không chỉ là “các thành kiến”, “các sai lầm” mà cịn là cái chân lý.
Tuy nhiên, ơng lại khẳng định rằng cái cốt lõi, cái chân lý trong DLXH
“không thể nhận thức từ sự biểu hiện của DLXH”. Với quan niệm này, chính
Hêghen đã xa rời phương pháp biện chứng của mình. Ơng đã tách nội dung ra
khỏi hình thức, đối lập, phủ nhận khả năng nhận thức về nội dung bên trong
của DLXH. Từ đó ơng đi đến khẳng định: về mặt nội dung, DLXH mang tính
chủ quan, nó đối lập với kiến thức và khoa học. Cịn thái độ của ơng đối với
DLXH là “DLXH đáng được kính trọng và khinh bỉ như nhau”. Đáng khinh
3


bỉ nếu xem xét từ góc độ nền tảng bản chất của nó, cái nền tảng chỉ thâm nhập
vào cái cụ thể bằng các tia sáng bị vẩn đục hoặc nhiều hoặc ít của mình”.
Các quan điểm của Hêghen về DLXH trên đây đã để lại dấu ấn sâu sắc
trong xã hội học tư sản và các học giả tư sản về DLXH. Đặc biệt là quan điểm
coi DLXH như là sự tập hợp các thành kiến và các sai lầm, cũng như thái độ
coi thường của ông đối với biểu hiện trực tiếp của DLXH, đã trở thành những
giáo điều trong hàng loạt học thuyết tư sản về DLXH.

Dưới chủ nghĩa tư bản các học giả tư sản đã sớm đưa ra lý thuyết, xây
dựng tổ chức nghiên cứu thăm dị DLXH để phục vụ cho mục đích thống trị
của giai cấp tư sản. Chẳng hạn như ở Anh, W. Tempe (1618-1699) là một
trong những người đầu tiên đưa ra đề cương lý thuyết về nguồn gốc và bản
chất của DLXH, coi nó “như một trong những nguồn lực của quyền lực chính
trị’. Theo hướng đó, Daniel Defoe (1660 – 1731) đã dựng lên cả mạng lưới
những người làm cộng tác viên thông tin ở cơ sở để nắm bắt tình hình DLXH
của cơng chúng.
Trong xã hội tư sản, việc nghiên cứu DLXH, khơng phải để phục vụ lợi
ích của quần chúng nhân dân mà trước hết và chủ yếu phục vụ lợi ích của các
tập đồn tư bản và lợi ích của giai cấp tư sản thống trị. Chủ nghĩa tư bản đã
biết sử dụng kết quả nghiên cứu DLXH để nắm bắt thực trạng tình hình tư
tưởng, hiện trạng xã hội và khuynh hướng vận động của xã hội. Kết quả đó
giúp cho các tập đồn chính trị, các chính khách tư sản biết được thái độ
chính trị, tâm trạng và phản ứng của từng tầng lớp xã hội đối với các sự kiện
chính trị - xã hội đã và đang xảy ra. Từ đó họ có thêm căn cứ để hoach định
chủ trương, chính sách, cương lĩnh hay xây dựng chương trình hoạt động của
mình, tranh thủ tìm kiếm sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân và tác
động lên ý thức quần chúng nhằm thao túng DLXH theo hướng có lợi cho
giai cấp tư sản và cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Trong xã hội tư bản, việc nghiên cứu và sử dụng DLXH nhằm đạt tới
những mục đích sau đây:
4


Một là, DLXH được sử dụng như một phương tiện trinh sát tư tưởng,
chính trị, xã hội để giành và giữ quyền lãnh đạo cho các cá nhân hay các đảng
phái chính trị tư sản.
Hai là, DLXH góp phần duy trì trật tự, ổn định hệ thống chính trị trong
các nước tư bản.

Ba là, DLXH là điều kiện quan trọng giúp cho các tập đoàn tư bản phát
triển sản xuất, mở rộng kinh doanh và thu lợi nhuận.
Những năm 30 của thế kỷ XIX được coi là thời điểm ra đời của khoa học
xã hội và của xã hội học. Tuy nhiên, những người sáng lập ra xã hội học trong
thời kỳ đầu chưa dành nhiều sự quan tâm nghiên cứu về DLXH. A.Comte bước
đầu đã có nghiên cứu một số vấn đề như chủ thể của DLXH, các cách thức thể
hiện và vai trò của DLXH. Nghiên cứu thực nghiệm mang tính khoa học đầu
tiên về DLXH bắt đầu vào năm 1824 và đến năm 1883, tờ Boston Globe và
một số tờ báo khác đã tiến hành trưng cầu ý kiến để thử dự đoán kết quả của
các cuộc bầu cử. Năm 1910, M.Weber xây dựng chương trình nghiên cứu xã
hội học về báo chí, trong đó ơng đã lưu tâm nghiên cứu đặc điểm của DLXH
và thái độ của công chúng đối với thông tin. Thời kỳ này bùng phát các nghiên
cứu thực nghiệm với rất nhiều cuộc trưng cầu ý kiến do tổ chức và cá nhân tiến
hành với nhiều chủ đề khác nhau.
Năm 1922 đánh dấu sự ra đời của xã hội học DLXH với tư cách là một
chuyên ngành độc lập. Sự kiện này được ghi nhận bằng việc công bố hai tác
phẩm: Phê phán về dư luận xã hội của Ferdinand Tonnies và Dư luận xã hội
của nhà báo, nhà xã hội học Mỹ Walter Lippmann.
Ferdinand Tonnies quan sát quá trình chuyển đổi từ một xã hội đồng
thuận sang một xã hội đô thị cơng nghiệp mâu thuẫn và tìm kiếm những
phương tiện để hiểu, để điều chỉnh, định hướng những biến đổi xã hội. Q
trình tìm kiếm đã đưa ơng đến quan điểm cho rằng DLXH là cơ chế quan
trọng của quá trình này. Tonnies chia DLXH thành 3 dạng: rắn chắc; lỏng và
khí, bong bóng. Theo ơng, ý kiến được phát biểu trong công chúng không
5


phải DLXH, hay những ý kiến trong điều tra DLXH mà thể hiện thái độ của
nhiều nhóm cơng chúng khác nhau cũng không phải DLXH chung. DLXH
phải là ý kiến được xác định bởi bản chất đồng thuận của nó. DLXH “rắn

chắc” là sự nhận thức phổ biến và không thể đảo ngược của công chúng, được
đặc trưng bởi các giá trị và các nguyên tắc rộng lớn, hơn là những sự kiện
đang diễn ra. Dạng DLXH “lỏng” cũng là những ý kiến thống nhất xung
quanh một chủ đề nào đó, nhưng cường độ ý kiến khơng mạnh bằng nhóm
trên. DLXH dạng “khí” là dạng DLXH khơng có khơng gian và thời gian cụ
thể. Nó lan tỏa giống như sương mù, dễ biến đổi và gắn với những hành động
cụ thể của cá nhân hay một nhóm người và thậm chí là chính phủ. Dạng
DLXH này rất dễ bị ảnh hưởng bởi thông tin được truyền tải hàng ngày trên
các phương tiện thơng tin đại chúng. Ơng cũng cho rằng DLXH khác với tập
tục và tơn giáo bởi vì tập tục và tôn giáo là sản phẩm của cộng đồng còn
DLXH là sản phẩm của xã hội.
Tác phẩm Dư luận xã hội của Water Lippmann đã gây được sự chú ý
của giới nghiên cứu và hiện nay vẫn được sử dụng khá phổ biến trong các
trường đại học của Mỹ. Lippmann đề cấp đến nhiều vấn đề: cơ chế sàng lọc
mang tính định hướng của các phương tiện TTĐC nhằm mục đích tạo ra
DLXH phù hợp với quan điểm truyền thơng. Ơng cũng ít nhiều bị ảnh hưởng
quan điểm của Hê-ghen và khơng đề cao vai trị của DLXH trong xã hội. Ơng
coi cơng chúng của TTĐC như các đám đơng thụ động mà khơng thể tự mình
thâu tóm được những đa dạng của đời sống xã hội. Vì vậy, công chúng phải
chấp nhận những định kiến của nhà truyền thơng. Ơng cịn cho rằng, DLXH
được lan tỏa thơng qua các khuôn mẫu tư duy.
Bên cạnh hai nghiên cứu kinh điển này, một số tác giả khác cũng
nghiên cứu nhiều vấn đề cơ bản của DLXH. Chẳng hạn: Wilson (1937) đã
phân tích về cách tiếp cận lý thuyết đối với DLXH trong đó đề cập đến vai trị
khơng thể thiếu của DLXH trong xã hội dân chủ; vấn đề bản chất của DLXH,
chủ thể của DLXH…
6


Tại Mỹ có nhiều nghiên cứu gây được sự chú ý hơn cả tác phẩm kinh

điển của F. Tonnies, trong đó đáng chú ý nhất là nghiên cứu của Floyd
Allport. F.Allport đề cập đến những nhầm lẫn trong nhận thức về DLXH,
như: trong sự phổ biến của DLXH, sự cá nhân hóa cơng chúng, sai lầm trong
việc sử dụng thuật ngữ công chúng, nhầm lẫn giữa DLXH và ý kiến được
trình bày trước cơng chúng. Nhờ đó ơng đã đi đến những hiểu biết chính xác
hơn về DLXH.
Vào thời kỳ này, nghiên cứu thực nghiệm về DLXH phát triển đa dạng.
Các cuộc điều tra về bẩu cử ngày càng phổ biến. Sự xuất hiện của hãng
Gallup đánh dấu một bước chuyển quan trọng của nghiên cứu DLXH nhằm
mục đích ứng dụng.
1.2. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh
và Đảng ta về dư luận xã hội
Mác và Ăngghen không có những tác phẩm hay chuyên khảo về DLXH
nhưng các ông cũng đã bàn đến DLXH và ý kiến của các ông là những cơ sở
để sau này những người quan tâm tiếp tục bàn luận về vấn đề DLXH.
Dưới chủ nghĩa xã hội, DLXH được quyết định bởi bản chất của chế độ
xã hội mới, bởi tính chất của các mối quan hệ xã hội, kinh tế và tư tưởng. Tất
cả mọi hoạt động trong lĩnh vực này nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển xã hội
và hành động phù hợp với lợi ích của nhân dân, phục vụ cho lợi ích của tuyệt
đại đa số quần chúng nhân dân.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác –
Lênin đã chỉ ra vai trò to lớn của DLXH xuất phát từ vai trò to lớn của các yếu
tố tinh thần, tư tưởng, ý thức, trong đó có DLXH đối với hoạt động sống của
con người. Sức mạnh, vai trò to lớn của DLXH còn xuất phát từ vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Đề cập đến vấn đề chủ thể của DLXH, C.Mác nhiều lần gọi DLXH là dư
luận của nhân dân. Mác cũng cho rằng: các đại biểu thường xuyên kêu gọi sự
ủng hộ của dư luận nhân dân, sẽ mang lại cho nhân dân quyền phát ngôn ý kiến
7



thực sự của mình. Theo quan điểm Mác-xít, DLXH ln đóng vai trị là
phương tiện và yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng như hành vi của con
người. Điều này được thể hiện không chỉ ở những xã hội có giai cấp mà cả ở
những xã hội khơng có giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành
vi con người của DLXH được thể hiện cùng pháp luật. Nói cách khác vai trị
điều chỉnh, điều tiết hành vi con người khơng chỉ là của pháp luật mà cịn của
DLXH. Các nhà kinh điển Mác-xít đã cho thấy rằng gốc rễ của sự biến đổi xã
hội là sự biến đổi trong ý thức của quần chúng nhân dân. Ph.Ăngghen đã viết:
“để có thể chí ít nghĩ đến việc hồn thành được cuộc cải tạo đó, thì trước hết
phải diễn ra sự tiến bộ lớn lao trong DLXH”. Kế thừa tư tưởng của
Ph.Ăngghen, V.I. Lênin cũng đã từng khẳng định rằng để chiến thắng, cách
mạng phải dựa vào sức mạnh vật chất và tinh thần của DLXH. Sau Cách mạng
Tháng Mười Nga, V.I.Lênin tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng sức
mạnh của DLXH để củng cố kỷ luật lao động, đấu tranh với các tàn dư của xã
hội cũ, giáo dục ý thức cộng sản chủ nghĩa, tiến hành sinh hoạt chính trị rộng
rãi trong xã hội…
Những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lê nin về vai trị của
quần chúng nhân dân trong lịch sử nói chung và về DLXH nói riêng được kế
thừa và phát triển mạnh mẽ trong một thời gian khá dài tại Liên Xô và thực sự
phát triển mạnh từ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Những luận
điểm chính của cách tiếp cận Mác xít về DLXH là:
1. DLXH là một trạng thái của ý thức xã hội
2. DLXH thuộc thượng tầng kiến trúc, do đó nó bị chi phối bởi những
đặc điểm và tính chất của hạ tầng cơ sở trong xã hội đó. Nó có tính độc lập
tương đối so với hạ tầng cơ sở của xã hội, do đó nó cũng có thể là động lực tạo
ra những chuyển biến của xã hội.
3. DLXH có vai trị to lớn đối với tiến trình lịch sử. Sức mạnh mang tính
vật chất của DLXH xuất phát và thong qua vai trò quyết định của các tầng lớp

8


quần chúng nhân dân trong lịch sử.
4. DLXH có tính giai cấp. Nó có những chức năng nhất định trong đời
sống xã hội. DLXH phản ánh, bảo vệ cho những lợi ích của chủ thể.
Hồ Chí Minh rất coi trọng ý kiến của nhân dân. Trong kho tàng tư
tưởng của Người, chúng ta dễ dàng tìm thấy nhiều quan điểm, luận điểm về
vai trò của quần chúng nhân dân trong tiến tình cách mạng. Người cho rằng
quần chúng có vai trò to lớn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Quan
điểm này được Người nhắc đến trong rất nhiều tác phẩm của mình. Người
viết: “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” hay
“Dân chúng đồng lịng việc gì cũng làm được, dân chúng khơng đồng lịng
làm việc gì cũng khơng nên”. Hồ Chí Minh ln qn triệt tư tưởng vì dân,
trọng dân, thân dân trong công tác lãnh đạo và quản lý, thường xuyên lắng
nghe ý kiến của nhân dân và giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân
dân ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và xuyên suốt quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy Đảng ta hết sức chú ý đến dư
luận của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách mới của Đảng và luật pháp
của Nhà nước, kể cả văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc và Hiến pháp
đều được đưa ra để nhân dân thảo luận, bàn bạc, đóng góp ý kiến. Thơng qua
các kỳ Đại hội, quan điểm của Đảng về vai trò của quần chúng nhân dân, về
nguyên tắc dân chủ… càng được nhấn mạnh và thể hiện cụ thể, sinh động.
Qua các quan điểm của Đảng về vai trò của quần chúng nhân dân có thể nhận
thức quan niệm của Đảng về vai trò của DLXH như sau:
- Một là, DLXH là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người
với con người và giáo dục con người hoàn thiện nhân cách xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, DLXH là điều kiện để quần chúng nhân dân phát huy quyền
làm chủ và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

- Ba là, DLXH là phương tiện để tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
9


- Bốn là, DLXH góp phần hồn thiện cơng tác lãnh đạo, công tác quản
lý xã hội của Đảng và Nhà nước trên cơ sở khoa học.
- Năm là, trong công tác tư tưởng cần đặc biệt coi trọng việc điều tra,
nắm bắt, định hướng dư luận xã hội và tình hình tư tưởng. DLXH, tình hình
tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân là một trong những
căn cứ của việc xác định, điều chỉnh, bổ sung, hồn thiện các chủ trương, biện
pháp cơng tác tư tưởng.
1.3. Quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay về dư luận xã hội
1.3.1. Trên thế giới
* Quan điểm của J.Habermas
Habermas là người phát triển khái niệm lĩnh vực công cộng (public
spheres). Theo ông, lĩnh vực công cộng là “một vũ đài, là nơi thoải mái để các
công dân tranh luận, cân nhắc thiệt hơn, thỏa thuận thống nhất và hành động”.
Tại đây, mọi người có thể chia sẻ quan điểm của mình một cách tự do với
nhau. Habermas hy vọng tạo lập ra sự đối thoại bên ngồi vịng kiểm sốt của
chính phủ và kinh tế. Tuy nhiên, mơ hình lĩnh vực cơng cộng “lại ngăn cản sự
phóng đãng mang tính hỗn loạn của thời hậu hiện đại bằng việc khôi phục lại
những giá trị của lý trí và sự tự do của thời kỳ khai sáng ở trong những bản
thuyết trình hiện đại vốn nhằm đến những mục đích thực dụng” 1. Trong lĩnh
vực cơng cộng, thảo luận trở thành hoạt động dân chủ thông qua việc xây
dựng sự đồng thuận và tự nguyện thống nhất, trong đó những người tham gia
phải vượt qua những cách nhìn thiên lệch chủ quan ban đầu để đi đến những
thỏa thuận hợp lý.
Theo Habermas, chủ thể của DLXH không phải là tồn bộ cơng chúng
mà được hình thành từ những người có thể tập hợp tại cuộc hội họp, cuộc mít

tinh, biểu tình. Họ là những người có học vấn, có tài sản và có khả năng tập
hợp được. Khái niệm DLXH có liên quan trực tiếp đến khái niệm chính trị và
pháp luật. Theo ơng, nếu như DLXH là sự phán xét mang tính chất đánh giá
1

Nguyễn Quý Thanh (2006), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb Đại học quốc gia, H, tr.87

10


của cơng chúng thì trước hết nó cần phải bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư
sản, bào chữa cho pháp luật và chính trị của giai cấp tư sản cũng như bảo
vệ cho sự tồn tại của giai cấp tư sản. Bằng cách cho phép tất cả mọi người
cùng một cơ hội như nhau để thuyết trình, Habermas hy vọng xóa bỏ được
những định kiến vốn giới hạn các nhóm bên lề xã hội trong việc giành lấy
những quyền của họ trong nền dân chủ. Như vậy, lĩnh vực cơng cộng tạo ra
một khơng gian chính trị tơn trọng các quyền của cá nhân và tăng cường
cộng đồng.
* Quan điểm của Luhmann
Luhmann bác bỏ mọi chủ thể của DLXH. Không giống như Habermas,
Luhmann cho rằng, mọi người đều bình đẳng trước DLXH, tức là ý kiến của
cá nhân, nhóm xã hội đều có ý nghĩa như nhau. Trong hoạt động DLXH vấn
đề quan trọng là các chủ đề của DLXH hay những vấn đề mà DLXH đề cập
đến. Trong một thời điểm có rất nhiều vấn đề xã hội khác nhau có thể cùng
tồn tại, nhưng xã hội không thể quan tâm, thảo luận kỹ lưỡng về tất cả các vấn
đề trong cùng một thời điểm. Như vậy, chủ đề nào được chú ý nhiều hơn sẽ
trở thành nội dung của DLXH. Đối với Luhmann, quan trọng ở chỗ là phải có
sự chú ý đối với vấn đề. Nếu khơng có sự chú ý, vấn đề sẽ bị bỏ qua. Tuy
nhiên điều đó là chưa đủ để hình thành DLXH. Ơng cho rằng các chủ đề của
DLXH có đời sống riêng và sự phổ biến của chúng tuân thủ những quy luật

đặc thù của mình vì DLXH khơng thuộc về các cá nhân, cũng như khơng
thuộc về nhóm tinh tú như quan điểm của Habermas. Luhmann cũng đặc biệt
tập trung lý giải mối quan hệ giữa DLXH với pháp luật. Ơng cho rằng tính
pháp lý của DLXH phụ thuộc vào quyết định được đưa ra, trong khi đó, quyết
định này lại căn cứ vào sự chú ý của xã hội đối với chủ đề.
* Quan điểm thống kê - tâm lý của Noelle - Neumann
Trong cuốn “Vòng xoắn im lặng: dư luận xã hội – làn da của chúng
ta”, Elizabeth Noelle - Neumann trình bày những quan điểm chủ yếu của
mình. Lý thuyết vịng xoắn im lặng của bà được giới thiệu lần đầu năm 1984.
11


Trong cuốn sách này, thông qua một hiện tượng xảy ra trong thực tế bà đã
phân tích đặc tính tâm lý trong dư luận xã hội. Trước một chính sách được
ban hành, những người ủng hộ cảm thấy ý kiến của mình được tất cả chia sẻ,
do đó phát biểu công khai ý kiến một cách tự tin và mạnh mẽ. Ngược lại,
những người có quan điểm phản đối cảm thấy họ là thiểu số, cảm thấy bị cô
lập, do đó họ thu mình lại và giữ im lặng. Khi quan sát xung quanh, những
người ủng hộ càng tiếp tục phát biểu mạnh hơn và ngày càng cảm thấy nhóm
họ đông và mạnh hơn, cho dù trên thực tế những người ủng hộ đích thực là
rất ít. Cịn những người phản đối cảm thấy yếu thế hơn sức mạnh thực tế của
họ và càng ít phát biểu, càng ngày càng tiếp tục thu mình lại. Lý thuyết vịng
xốy im lặng là một mơ hình dùng để lý giải tại sao các cá nhân không sẵn
sàng công khai ý kiến của họ khi cảm thấy ý kiến, cách nghĩ của họ thuộc
nhóm thiểu số. Hiện tượng này khá phổ biến trong các cơ quan, tổ chức mà
theo tác giả Nguyễn Quý Thanh thì phụ thuộc vào hai yếu tố: phong cách lãnh
đạo thiếu dân chủ tại cơ quan, tổ chức đó và chủ nghĩa cơ hội hay là “nỗi sợ
hãi bị cô lập xã hội”. Lý thuyết này giúp nghiên cứu và đánh giá về DLXH
đích thực. Tuy vậy, dù lấy cơ sở nghiên cứu từ xã hội Đức nhưng nó lại
khơng lý giải được tại sao nhóm phát xít đứng đầu là Hitler lại giành được

quyền lực ở Tây Đức trước, trong khi lúc ban đầu, những quan điểm của phe
phát xít gây ra cú sốc thực sự chứ khơng phải “sự đồng tình trong im lặng”.
* Trường phái Hovland và những nghiên cứu về tuyên truyền
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, các nhà khoa học Mỹ đã phải tập
trung vào việc soạn thảo công cụ tuyên truyền và phản tuyên truyền để định
hướng DLXH. Thí dụ, trường phái Yale và khuynh hướng tâm lý học xã hội
nhấn mạnh đến các yếu tố trung gian; những nghiên cứu của Hovland và
Weiss năm 1951 đã tập trung vào ảnh hưởng của yếu tố uy tín của nguồn tin
đến sự thay đổi quan điểm. Kết quả nghiên cứu cho thấy những tác động ngắn
hạn nhưng không bền vững theo thời gian. Sau đó, xuất hiện nhiều thí nghiệm
về mối liên hệ giữa sự sợ hãi với sự thay đổi thái độ. Và qua việc nghiên cứu
12


mối liên hệ này, nhiều kết luận đã được đưa ra. Năm 1953, Hovland và nhóm
của ơng đã tiến hành nghiên cứu tác động của truyền thông hai chiều và
truyền thơng một chiều. Theo đó, truyền thơng hai chiều có hiệu quả thuyết
phục cao hơn ở nhóm có trình độ học vấn cao.
Bên cạnh đó, thời kỳ này lý thuyết về cơ cấu chức năng cũng là lý
thuyết nổi bật, từ đó giải thích về DLXH, có thể thấy rằng với tư cách
như một thiết chế xã hội DLXH sẽ góp phần vào sự điều phối các thành
phần trong hệ thống xã hội. Cũng trong thời kỳ này, nhiều lý thuyết quan
trọng về hoạt động của DLXH cũng được khám phá, thí dụ lý thuyết “thủ
lĩnh dư luận”.
Như vậy, trong giai đoạn này, các nghiên cứu về DLXH được tiến hành
trên hai bình diện lý thuyết và thực nghiệm. H.Hyman đã cố gắng xây dựng
một lý thuyết về DLXH. Theo ông, ở giai đoạn này và trước mắt cần phải
thống nhất giữa lý luận và nghiên cứu thực nghiệm để xây dựng một lý thuyết
ở cấp độ trung bình trong khi tìm kiếm một sự thống nhất tất cả các quan
điểm và lý thuyết về DLXH. Đây thực chất là nhiệm vụ lâu dài và yêu cầu của

mọi ngành khoa học trong mọi giai đoạn.
1.3.2. Trong nước
Ở nước ta công tác DLXH được quan tâm từ rất sớm. Năm 1982, Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã ra quyết định thành lập Viện Nghiên cứu Dư
luận xã hội. Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh bài học “dân là
gốc” và coi đây là yếu tố quan trọng trong chính sách của Đảng. Tuyển tập
một số bài dịch về DLXH của Trung tâm nghiên cứu DLXH vào năm 1989
có thể coi là những tài liệu bằng tiếng Việt đầu tiên về lĩnh vực này, đến
năm 1999, tài liệu đã được tái bản và bổ sung thêm một số kết quả điều tra.
Cho đến nay, DLXH đã được các nhà khoa học xem xét nghiên cứu ở nhiều
góc độ khác nhau, tiêu biểu như các tác giả: Lương Khắc Hiếu, Lưu Minh
Trị, Phạm Chiến Khu, Mai Quỳnh Nam, Nguyễn Văn Dững, Đỗ Chí Nghĩa,
Nguyễn Quí Thanh …
13


Trong cuốn “Một số vấn đề về công tác tư tưởng và nghiên cứu dư luận
xã hội” do Lưu Minh Trị chủ biên, các tác giả đã xem việc nghiên cứu, nắm
bắt và định hướng DLXH là một bộ phận, một nhiệm vụ quan trọng của công
tác tư tưởng và cũng là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Các tác giả của
cuốn sách này xác định: DLXH cùng với diễn biến tư tưởng là một lực lượng
to lớn mà công tác lãnh đạo và quản lý không thể khơng tính đến. Cơng trình
nghiên cứu này cịn khẳng định nghiên cứu về DLXH với cơng tác tư tưởng
sẽ góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo
của các cấp bộ Đảng, hiệu quả quản lý xã hội của chính quyền và hoạt động
của các đoàn thể nhân dân.
“Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới” do Lương Khắc Hiếu chủ
biên, xuất bản năm 1999 là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam viết
về DLXH. Trong cuốn sách này, các tác giả đã bàn về bản chất và chức năng
của DLXH, vai trò của DLXH trong xã hội hiện đại. Việc phân biệt DLXH

với tin đồn được phân tích khá rõ, trong đó các tác giả nêu ra 04 điểm khác
nhau giữa DLXH và tin đồn và coi đó là 04 tiêu chí, 04 dấu hiệu để phân biệt
DLXH với tin đồn. Quá trình hình thành DLXH và các nhân tố tác động đến
q trình đó được các tác giả nghiên cứu khá công phu. Lần đầu tiên các tác
giả của cuốn tài liệu này nêu ra 06 giải pháp phát huy vai trị của DLXH ở
nước ta, đó là:
- Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện tốt cơ chế
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Nâng cao vai trò của báo chí trong việc phát huy sức mạnh của DLXH.
- Nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho nhân dân – với tư cách là chủ
thể của DLXH.
- Sử dụng các kết quả nghiên cứu DLXH trong lãnh đạo và quản lý xã
hội.
- Tạo lập bầu khơng khí tâm lý - xã hội lành mạnh.
Tác giả Nguyễn Văn Dững, Đỗ Chí Nghĩa lại tiếp cận DLXH trong mối
quan hệ với báo chí. Trong lý luận về báo chí học, xã hội học và thực tiễn báo
chí, mối quan hệ của báo chí và DLXH là một trong những vấn đề có vị trí

14


nền tảng. Bằng việc cắt nghĩa bản chất của từng hoạt động và chỉ ra vai trò tác
động lẫn nhau của chúng, PGS.TS Nguyễn Văn Dững - tác giả cuốn sách Báo
chí và dư luận xã hội đã làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng chặt chẽ trên cả
hai bình diện lý luận và thực tiễn hoạt động, DLXH là đối tác của báo chí và
ngược lại. Các luồng ý kiến, phán xét của DLXH là nội dung quan trọng hàng
ngày mà báo chí - truyền thơng đăng tải; và từ dư luận xã hội lại nảy sinh ra
sự kiện – tin tức báo chí. Báo chí lại là phương tiện chuyển tải các sự kiện, ý
kiến, phán xét… của DLXH; báo chí vừa có thể phản ánh và biểu đạt DLXH,
vừa có thể định hướng DLXH, mà sự định hướng này lại có thể dẫn đến

những luồng dư luận mới được sản sinh từ trong thực tế cuộc sống. Từ góc
nhìn đó, tác giả đặt ra cả vấn đề yêu cầu đối với nhà báo trước dư luận xã hội
nhằm hướng đến một nền báo chí chính luận hiệu quả.
Phạm Chiến Khu là tác giả viết khá nhiều và sâu sắc về các vấn đề lý
luận, thực tiễn của DLXH. Các cơng trình nghiên cứu của tác giả Phạm Chiến
Khu tập trung phân tích bản chất của DLXH, chức năng, đặc điểm, tính chất
của DLXH; cơ sở nhận thức, cơ sở lợi ích của DLXH; cơ sở tâm lý xã hội,
tâm lý cá nhân tác động đến quá trình hình thành DLXH đã được tác giả phân
tích rất cơng phu qua nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu. Việc sử dụng
các kết quả điều tra DLXH trong công tác lãnh đạo, quản lý và trong công tác
tư tưởng cũng được tác giả nghiên cứu khá hệ thống và sâu sắc.
Nguyễn Quí Thanh là người nghiên cứu khá tồn diện về DLXH từ góc
độ xã hội học. Trong cuốn sách xã hội học về dư luận xã hội, tác giả trình bày
hệ thống các vấn đề bản chất, chức năng, qui luật của DLXH, quá trình hình
thành và biến đổi của DLXH, mối quan hệ giữa truyền thông và DLXH, qui
trình tổ chức điều tra và các phương pháp điều tra DLXH. Các quan điểm lý
thuyết về DLXH đặc biệt là quan điểm của các nhà nghiên cứu Mỹ được tác
giả hệ thống hóa khá đầy đủ trong tác phẩm này.
Những nghiên cứu trên đây tuy chưa nhiều, chưa hồn tồn đầy đủ
nhưng là những cơng trình nghiên cứu có ý nghĩa rất cơ bản và là những nỗ
lực của các nhà nghiên cứu Việt Nam trên con đường tìm tịi, nghiên cứu lý
15


thuyết về DLXH.

16


CHƯƠNG 2

BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA
DƯ LUẬN XÃ HỘI
2.1. Bản chất của dư luận xã hội
2.1.1. Khái niệm dư luận xã hội và một số khái niệm có liên quan
2.1.1.1. Khái niệm Dư luận xã hội
Thuật ngữ DLXH được nhà văn, nhà hoạt động nhà nước người Anh
J.Solsbery sử dụng lần đầu vào năm 1159. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng RútXô mới được coi là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ DLXH vào
năm 1744 theo nghĩa hiện đại khi ông là Bộ trưởng Bộ ngoại giao Pháp.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ DLXH còn được gọi theo những cách khác bằng
những thuật ngữ tương đương là công luận, dư luận công chúng, ý kiến công
luận, ý kiến quần chúng. Thuật ngữ này được dùng nhiều trong đời sống xã
hội, trên các phương tiện TTĐC và trong một số ngành khoa học như chính trị
học, triết học, xã hội học, tâm lý học xã hội, báo chí học và gần đây là khoa
học công tác tư tưởng… Về mặt khoa học, thuật ngữ DLXH du nhập vào Việt
Nam theo nhiều nguồn. Thí dụ, nó có thể dịch từ thuật ngữ tiếng Nga
“obschextvennoe mnhenhie”, hoặc được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “public
opinion” hoặc từ tiếng Pháp hay tiếng Trung Quốc. Cho tới nay, chưa có tài
liệu nào xác định ai là người Việt Nam đầu tiên sử dụng thuật ngữ DLXH
bằng tiếng Việt.
Là một hiện tượng xã hội đặc biệt xuất hiện khá sớm trong lịch sử xã
hội loài người, nhưng nhận thức về DLXH lại rất khác nhau. Hiện tượng này
có hai nguyên nhân:
Một là, DLXH là một hiện tượng xã hội phức tạp, đa diện
Hai là, DLXH là khách thể nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, các
nhà khoa học lại nghiên cứu dư luận theo các quan điểm khách nhau, trên cơ
sở thế giới quan khác nhau.
17




×