Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận - Vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.83 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN

Tên đề tài:
VẤN ĐỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG

INTERNET Ở VIỆT NAM

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUYỀN TÁC GIẢ VÀ KHUNG PHÁP LUẬT ĐỂ BẢO HỘ
QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG INTERNET..............................2
1. Khái niệm về quyền tác giả...........................................................................2
2. Khung pháp luật để bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet............2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC XÂM PHẠM
QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG INTERNET TẠI VIỆT NAM..6
1. Thực trạng về việc xâm lược quyền tác giả trong môi trường Internet tại
Việt Nam...........................................................................................................6
2. Những thách thức đối với việc bảo hộ quyền tác giả trên Internet...............7
3. Giải pháp.....................................................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................19

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Quyền tác giả là một trong những nội dung quan trọng của Quyền Sở
hữu trí tuệ, là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo
ra hoặc sở hữu, do đó tác giả, chủ sở hữu được độc quyền khai thác tác phẩm,
chống lại các hành vi xâm phạm.
Với sự phát triển của công nghệ số hiện nay, Internet trở thành một


khơng gian mang lại nhiều lợi ích cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và
người sử dụng. Tuy nhiên, môi trường Internet cũng tạo điều kiện cho các
hành vi xâm phạm quyền tác giả được thực hiện một cách dễ dàng với mức độ
thiệt hại rất cao và đặt ra rất nhiều thách thức đối với việc bảo hộ quyền tác
giả, trong đó có nhiều thách thức về mặt pháp lý. Trên thực tế, có hàng trăm
các trang web tại Việt Nam sử dụng những nội dung trái phép, trong đó có cả
video, phim, hay nhạc,… điều đó cho thấy số lượng tác phẩm vi phạm quyền
tác giả là vô cùng lớn. Việc sao chép, đăng tải các bài viết một cách trái phép
trên các báo điện tử hay website ở Việt Nam còn rất phổ biến và tạo nên
những khó khăn trong việc bảo hộ quyền tác giả trên không gian này.
Với những lý do trên, em chọn đề tài “Vấn đề bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường Internet ở Việt Nam” là đề tài viết tiểu luận của mình.

1

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUYỀN TÁC GIẢ VÀ KHUNG PHÁP LUẬT ĐỂ
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG INTERNET

1. Khái niệm về quyền tác giả
Quyền tác giả được hiểu là quyền tinh thần và quyền độc quyền về kinh
tế được pháp luật trao cho người sáng tạo ra tác phẩm và những tổ chức, cá
nhân thực hiện các hoạt động sáng tạo với sự hỗ trợ của kỹ thuật và công
nghệ, để chuyển tải tác phẩm thuộc quyền tác giả đến công chúng. Quyền tác
giả là quyền riêng tư và thiêng liêng của tổ chức, cá nhân bằng lao động trí
tuệ của mình, sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được
pháp luật bảo hộ. Những tổ chức cá nhân có quyền tác giả phải tự quản lý
quyền của mình, khai thác nó để thu lại các khoản tài chính đã đầu tư, đồng
thời đầu tư sáng tạo tiếp. Như vậy quyền tác giả là các quy định pháp luật liên

quan đến sáng tạo, đến các quyền và thực thi quyền tác giả.

Các cơ quan nhà nước, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức liên
quan khác cũng được pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ trong việc
quản lý, thực thi pháp luật, đảm bảo cho quyền tác giả được thực thi trong
thực tế. Trong đó, tổ chức quản lý tập t hể là mơ hình đặc thù, có sứ mệnh
nhận ủy thác quyền của tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ
chức phát sóng; thực hiện việc quản lý, cấp phép, thu và phân phối tiền cho tổ
chức, cá nhân đã ủy thác. Yêu cầu về sự công khai, minh bạch và nguyên tắc
về tổ chức và hoạt động của tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả.

2. Khung pháp luật để bảo hộ quyền tác giả trong môi trường
Internet

Theo pháp luật Việt Nam, bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đến
quyền tác giả (sau đây gọi chung là quyền tác giả) nói riêng, quyền sở hữu trí
tuệ nói chung được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật,
bao gồm:

- Bộ luật dân sự năm số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005;

2

- Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm
2009 (Luật SHTT);

- Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21/9/2006
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật
Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;


- Nghị định số 85/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/9/2011
sửa đổi, bổ sung Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006;

- Nghị định 131/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16/10/2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan;

- Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
31/12/2008 về việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả vả
quyền liên quan.

- Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày
19/6/2012 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trung gian trong việc bảo
hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng
viễn thông.

- Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL ngày 13/12/2012 hướng dẫn hoạt
động giám định quyền tác giả, quyền liên quan.

- Thông tư liên tịch số 01/2008 ngày 29/02/2008 hướng dẫn việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

- Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999, được
sửa đổi bổ sung bởi Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009.

- Luật Xuất bản số 19/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012
- Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006, được sửa
đổi bổ sung bởi Luật số 31/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009

3


- Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006
Ngoài các quy định của pháp luật Việt Nam, việc bảo hộ quyền tác giả
tại Việt Nam cịn có thể được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế đa phương,
song phương quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên trong lĩnh vực này
như:
- Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1886 (có
hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004)
- Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm,
ghi hình và các tổ chức phát sóng (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày
01/3/2007)
- Công ước Geneve về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc
sao chép trái phép bản ghi âm của họ (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày
06/7/2005)
- Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang
chương trình được truyền qua vệ tinh (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày
12/01/2006)
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 11/01/2007)
- Hiệp định giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả ngày 27/6/1997
- Hiệp định giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Liên
bang Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ ngày 07/7/1999.
Về nguyên tắc, các quy định trong pháp luật Việt Nam được áp dụng
chung cho các loại hình tác phẩm được liệt kê trong Điều 14 Luật SHTT và
đối với quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi

4


hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệtinh mang chương trình được mã hóa
trong mơi trường truyền thống và trong môi trường số. Tuy nhiên, xuất phát
từ đặc thù của việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số, bên cạnh các
quy định chung đó, pháp luật Việt Nam có một số quy định điều chỉnh riêng
vấn đề này.

5

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC XÂM
PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG INTERNET TẠI
VIỆT NAM

1. Thực trạng về việc xâm lược quyền tác giả trong môi trường
Internet tại Việt Nam

Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ bản đã đáp ứng được các
yêu cầu về bảo hộ quyền tác giả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên cũng như yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, nhưng trên thực tế tình
trạng xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet tại Việt Nam hiện
nay vẫn còn ở mức độ rất phổ biến. Hành vi xâm phạm quyền tác giả nói
chung, trên mơi trường Internet nói riêng diễn ra đối với tất cả các loại hình
tác phẩm, từ tác phẩm văn học, khoa học đến tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, sân
khấu, chương trình máy tính… Các hành vi xâm phạm quyền cũng rất đa
dạng, từ xâm phạm quyền tài sản như quyền sao chép, quyền truyền đạt, phân
phối tác phẩm đến quyền nhân thân như quyền công bố tác phẩm, quyền bảo
vệ sự vẹn toàn của tác phẩm… Các hành vi xâm phạm ngày càng tinh vi hơn
với việc khai thác sự phát triển của công nghệ (Pear to Pear: P2P, Bit Torrent,
Cyberlockers…).

Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg về

việc tăng cường quản lý thực thi và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan
(quyền tác giả) của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL), trong
năm 2009, lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã
thu giữ 649.324 băng đĩa các loại và 3885 bản sách. Tổng số tiền xử phạt vi
phạm hành chính là 11,500,510,000 VNĐ. Trong hai năm 2010 – 2011, thanh
tra Bộ VHTTDL đã xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 227,000,000
VNĐ đối với các cơng ty có các website lưu trữ, cung cấp và phổ biến đến
công chúng số lượng lớn các bản ghi âm không được sự cho phép của chủ sở
hữu quyền. Trong năm 2013, thanh tra Bộ VHTTDL đã tiến hành xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương

6

trình máy tính với số tiền 2,033,000,000 VNĐ và u cầu ba website tháo gỡ
hàng nghìn bộ phim vi phạm bản quyền của sáu hãng phim lớn của Mỹ.

Tuy nhiên, đây không phải là tình trạng cá biệt ở Việt Nam mà cịn là
tình trạng chung tại rất nhiều quốc gia.. Ví dụ tại Hàn Quốc, trong năm 2011,
có khoảng 2,7 tỉ nội dung các loại hình sao chép lậu (online và truyền thống),
thất thoát khoảng 2,400 tỉ won. Trong năm 2013, chỉ riêng việc sao chép lậu
online đã chiếm khoảng 4000 tỉ won. Tại Liên bang Nga, ước tính mỗi năm
ngành cơng nghiệp điện ảnh Nga tổn thất hơn 4 tỷ USD do những hành vi vi
phạm bản quyền cũng như phổ biến trái phép các bộ phim trên internet.

Có rất nhiều lý do giải thích cho tình trạng trên. Đầu tiên phải kể đến
là sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các thiết bị cho phép truy cập mạng
Internet đã khiến cho việc truyền tải, sao chép các tác phẩm trở nên rất dễ
dàng. Sau đó là thói quen “sài chùa” và ý thức khơng tơn trọng pháp luật sở
hữu trí tuệ của đại bộ phận người dân. Năng lực chuyên môn và sự thiếu hụt
về nhân lực, về cơ sở vật chất và điều kiện kỹ thuật trong các cơ quan thực thi

quyền sở hữu trí tuệ cũng là một trong những yếu tố làm cho việc thực thi
quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam nói chung cịn
nhiều hạn chế. Các chủ thể quyền chưa có ý thức bảo vệ quyền của mình.
Ngồi ra, trong nhiều trường hợp pháp luật chưa thực sự bắt kịp được với sự
phát triển của công nghệ, chưa thực sự bảo hộ hiệu quả quyền tác giả trong
môi trường Internet.

2. Những thách thức đối với việc bảo hộ quyền tác giả trên Internet
Internet đã mang lại rất nhiều lợi ích cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả và người sử dụng. Tuy nhiên, môi trường Internet cũng tạo điều kiện cho
các hành vi xâm phạm quyền tác giả được thực hiện một cách dễ dàng với
mức độ thiệt hại rất cao và đặt ra rất nhiều thách thức đối với việc bảo hộ
quyền tác giả, trong đó có nhiều thách thức về mặt pháp lý.

7

Về mặt nguyên tắc, các quy định của pháp luật về quyền nhân thân và
quyền tài sản của tác giả được áp dụng cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học nói chung, khơng phân biệt hình thức định dạng (tác phẩm in
truyền thống hay định dạng là tác phẩm số hoặc các tác phẩm được số hóa).
Tuy nhiên, đặc thù của việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số địi hỏi
cần phải có sự giải thích rõ ràng đối với một số quyền tài sản của chủ sở hữu
quyền tác giả để làm cơ sở cho việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả
và rộng hơn là cho việc bảo hộ hiệu quả quyền tác giả trong môi trường số.
Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả khơng có tham vọng nghiên cứu tất cả
các vấn đề pháp lý phát sinh trong bảo hộ quyền tác giả trong môi trường
Internet mà chỉ giới hạn nghiên cứu một số vấn đề nhất định.

Quyền sao chép là một trong những quyền tài sản quan trọng nhất của
chủ sở hữu quyền tác giả và cũng là quyền thường bị xâm phạm nhiều nhất

trong môi trường truyền thống (tác phẩm in, bản ghi âm, ghi hình) cũng như
trong mơi trường số. Trên mơi trường Internet, việc sao chép và lưu trữ tác
phẩm được tiến hành một cách dễ dàng, nhanh chóng với số lượng rất lớn các
bản sao nhưng chi phí rất thấp và chất lượng tuyệt hảo. Việc sao chụp truyền
thống thường cho chất lượng không thực sự tốt, đặc biệt nếu sao chụp tác
phẩm từ các bản copy. Nhưng trên môi trường Internet, có thể sao nhiều lần
từ bản copy mà chất lượng đảm bảo như bản gốc. Vì vậy, chỉ cần đưa một bản
copy tác phẩm lên Internet là có thể đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu
người. Việc sao chép trên Internet cũng dễ dàng, nhanh chóng, thuận lợi hơn
việc sao chụp trong môi trường truyền thống rất nhiều. Chỉ cần một chiếc máy
tính cá nhân hay máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh, với một cái nhấp
chuột là có thể sao chép được tác phẩm một cách dễ dàng. Các tác phẩm được
sao chép có thể được lưu trữ dễ dàng với một dung lượng lớn các thông tin số
hóa, và giới hạn dung lượng này được mở rộng hàng năm, đủ đáp ứng nhu
cầu của thực tế với cơng nghệ ngày càng hiện đại hơn. Có thể vào bất cứ
website có lưu trữ các tác phẩm nghe nhìn, người sử dụng Internet có thể

8

nghe, xem trực tuyến thậm chí là download tác phẩm từ kho lưu trữ với hàng
trăm nghìn tác phẩm âm nhạc, tác phẩm điện ảnh. Điều này là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền sao chép bị xâm phạm nghiêm
trọng trong môi trường Internet.

Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ sở
hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện
bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà cơng chúng có thể tiếp
cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc
hoặc bản sao tác phẩm. Đối với tác phẩm tạo hình, tác phẩm nhiếp ảnh thì
quyền phân phối cịn bao gồm cả việc trưng bày, triển lãm trước công chúng.

Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác là
quyền độc quyền thực hiện của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc cho phép người
khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến cơng chúng mà
cơng chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa
chọn.

Việc truyền đạt và phân phối tác phẩm trên mạng Internet được tiến hành
một cách nhanh chóng và dễ dàng trên phạm vi rộng hơn rất nhiều so với các
phương thức truyền thống. Mạng Internet cho phép từ một máy chủ có thể
truyền tải tới số lượng người không giới hạn và cho phép người sử dụng tiếp
cận nguồn thông tin vào bất cứ thời gian, địa điểm nào mà họ mong muốn.
Với công nghệ P2P, việc truyền đạt tác phẩm giữa các máy tính cá nhân được
tiến hành dễ dàng hơn mà không cần thông qua máy chủ. Đặc biệt, mỗi người
sử dụng Internet đều có thể thực hiện hành vi truyền tải tác phẩm tới những
người khác, không giới hạn ở bất cứ yếu tố nào. Do đó nếu một tác phẩm
được công bố trên Internet mà không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền
tác giả thì thiệt hại sẽ là rất lớn. Trong trường hợp hợp này, các tác phẩm
được công bố trái phép sẽ dẫn đến việc truyền tải, sao chép và thậm chí là

9

phân phối một cách dễ dàng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền của tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Trường hợp tác phẩm điện ảnh “Cánh đồng bất
tận” là một ví dụ điển hình tại Việt Nam. Mặc dù bộ phim chưa có kế hoạch
giới thiệu dưới dạng DVD tại thị trường Việt Nam nhưng trên một số website
đã xuát hiện đường dẫn chia sẻ bộ phim miễn phí. Trên thị trường băng đĩa
cũng lập tức xuất hiện các bản phim “Cánh đồng bất tận” dưới dạng DVD lậu.
Mặc dù tồn bộ hình ảnh của trong phim đều là sơ dựng, chưa qua xử lý hậu
kỳ như khẳng định của nhà sản xuất nhưng vẫn được thị trường chấp nhận,

gây thiệt hại rất lớn cho chủ sở hữu.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận, việc có thể cơng bố, phổ biến và phân
phối, lưu trữ tác phẩm trên Internet một cách dễ dàng, nhanh chóng với quy
mơ tồn cầu có tác động cả ở khía cạnh tích cực và tiêu cực đến việc bảo hộ
quyền tác giả. Ở khía cạnh tích cực, Internet giúp cho tác giả, các chủ sở hữu
quyền tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đơng đảo khán giả một
cách thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với phương thức truyền thống trước
đây. Internet cũng giúp thương mại hóa các sản phẩm này một cách dễ dàng
hơn với chi phí thấp hơn nhiều so với thương mại truyền thống. Ví dụ, một
Album nhạc khi được tải lên các website thì người sử dụng ở bất cứ nơi nào
trên tồn thế giới có thể kết nối Internet đều có thể vào nghe và sao chép mà
chủ sở hữu bản quyền tác phẩm không phải tốn tiền chi phí cho sản xuất,
đóng gói, phân phối và marketting những chiếc đĩa CD/DVD tới những địa
chỉ nhận trên thực tế. Việc phân phối cũng khơng gặp khó khăn từ các thủ tục
hải quan hay các thủ tục xin phép phức tạp khác. Mặt khác, Internet cũng tạo
điều kiện cho người sử dụng có thể truy cập, sử dụng thậm chí kinh doanh trái
phép các tác phẩm này mà khơng trả tiền sử dụng, gây thiệt hại cho chủ sở
hữu quyền tác giả. Với hàng triệu triệu người sử dụng Internet và hàng triệu
Website như hiện nay, việc kiểm soát tất cả nội dung đăng tải trên tất cả các
website để đảm bảo cho việc bảo hộ quyền tác giả là điều gần như không thể.

10

Trên thực tế, việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với các
tác phẩm trên môi trường Internet là không đơn giản. Đôi khi, việc sử dụng
tác phẩm trong môi trường truyền thống được xem là không xâm phạm quyền
tác giả nhưng trong mơi trường số vấn đề có thể được nhìn nhận ở góc độ
khác đi. Ví dụ, trong các thư viện truyền thống hiện nay, trong kho tác phẩm
của thư viện bao gồm các nguồn sách do thư viện đặt mua, các nguồn sách do

được tặng cho từ tổ chức, cá nhân có thể là chủ sở hữu quyền tác giả, có thể
khơng phải chủ sở hữu quyền tác giả, các sách được nộp lưu chiểu. Các tác
phẩm này được lưu giữ có thể chỉ là một bản duy nhất, có thể nhiều bản. Các
độc giả đến thư viện đều được quyền tự do đọc tại chỗ, thậm chí một số
trường hợp, nếu có nhiều đầu sách trên một tác phẩm, độc giả có thể mượn
mang về nhà mà khơng bị tính phí. Thực chất trong trường hợp này, hành vi
này cũng cần xem xét dưới góc độ pháp luật quyền tác giả. Tuy nhiên, trên
thực tế hiện nay, đây được xem như một hoạt động bình thường của thư viện
truyền thống nhằm thực hiện chức năng của mình mà khơng có bất cứ một sự
phản đối nào từ phía chủ sở hữu quyền tác giả hay từ cá nhân, tổ chức khác.
Nếu thư viện số hóa các nguồn sách này, lưu trữ và cho phép truy cập hoặc
phân phối trên Internet thì đây là hành vi xâm phạm quyền. Tuy nhiên, câu
hỏi đặt ra, nếu vẫn từ các nguồn sách đó, thư viện số hóa và lưu trữ trên máy
chủ một bản sao tác phẩm, cho phép người đọc truy cập chỉ trong mạng nội
bộ của thư viện chứ khơng phải trên mạng Internet, khơng thu phí truy cập,
khơng cho phép download thì thư viện có xâm phạm quyền sao chép và quyền
truyền đạt tác phẩm tới công chúng không? Nếu hiểu theo các quy định hiện
hành của pháp luật, trong trường hợp này thư viện đã vi phạm quyền sao chép
và quyền truyền đạt tác phẩm tới cơng chúng. Cịn nếu thư viện thu tiền khi
người sử dụng truy cập nguồn dữ liệu này thì thư viện đã vi phạm cả quyền
phân phối tác phẩm. Tuy nhiên, thư viện có chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di
sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng
chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin

11

phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp
nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng trong hoạt động của mình, thư viện

có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về quyền tác giả. Thiết nghĩ, pháp luật cần có
quy định cụ thể về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thư viện, giải quyết
được sự mâu thuẫn trong việc bảo hộ quyền tác giả trong các thư viện số với
chức năng, nhiệm vụ của thư viện.

Ngoài ra, khi các hành vi xâm phạm quyền tác giả được thực hiện với sự
hỗ trợ của công nghệ mới thì việc xác định càng khó khăn hơn. Trong nhiều
trường hợp, pháp luật đã không theo kịp được sự phát triển của công nghệ,
không điều chỉnh kịp thời những hành vi xâm phạm quyền xảy ra trên thực tế.
Đặc biệt, trong trường hợp người vi phạm cố tình khai thác các tính năng của
cơng nghệ mới để thực hiện các hành vi xâm phạm quyền tác giả ở mức độ
tinh vi. Ví dụ, các website khơng trực tiếp lưu trữ kho tác phẩm hoặc không
cho phép người sử dụng trực tiếp nghe nhạc, xem phim trực tuyến hay
download tác phẩm mà chỉ đơn giản là cung cấp các đường link để người sử
dụng có thể truy cập vào các kho dữ liệu này. Không phải trong mọi trường
hợp, việc cung cấp các đường Link chia sẻ dữ liệu đều là sự vi pham bản
quyền vì nhiều Website cho phép truy cập miễn phí. Việc xác định hành vi
xâm phạm quyền trong trường hợp này là không đơn giản. Hoặc với mạng
đồng đẳng (Pear to Pear) các máy tính hồn tồn có thể chia sẻ các dữ liệu với
nhau, trong trường hợp này không dễ để xác định được hành vi xâm phạm và
quy trách nhiệm đối với hành vi vi phạm bản quyền.

Việc xác định mức thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ln là vấn đề
gặp nhiều khó khăn trên thực tế, và việc xác định thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền tác giả trong mơi trường Internet cịn khó khăn hơn rất nhiều.
Đơn cử như trường hợp một tác phẩm điện ảnh được lưu trữ và cho phép truy

12

cập trái phép trên mạng Internet, có thể sử dụng công cụ kỹ thuật để đếm

được bao nhiêu lượt người truy cập để xem và/hoặc download tác phẩm đó
một cách trái phép trên một website cụ thể. Trong trường hợp này, nếu giả
định việc xem trực tuyến và/hoặc tải tác phẩm đó đã được định sẵn cho mỗi
lần truy cập thì có thể tính được sơ bộ thiệt hại mà chủ sở hữu quyền tác giả
bị mất trên thực tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nhiều trường hợp tác phẩm
được sao chép trái phép từ một website, sau đó tiếp tục được đưa lên các
Website khác hoặc được các cá nhân chia sẻ với nhau. Rất khó kiểm soát
được số lượng người truy cập trái phép trong trường hợp trên. Ngoài ra, cơ sở
để đánh giá mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh
doanh đối với lĩnh vực quyền tác giả cũng đặc biệt khó khăn. Vì việc sử dụng
tác phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tâm lý của công chúng, khả năng
thẩm thấu nghệ thuật… Ví dụ, trường hợp tác phẩm điện ảnh “Cánh đồng bất
tận”, “Bụi đời chợ lớn” bị công bố trái phép trên mạng Internet, sau đó được
truyền tải rộng rãi trên mạng cũng như được phân phối dưới hình thức DVD
lậu, khó mà xác định được chính xác mức thiệt hại. Bởi lẽ, khơng ai biết được
tác phẩm này, nếu được trình chiếu ngồi rạp chiếu phim, sẽ có bao nhiêu
lượt vé được bán, chiếu được trong bao lâu? Doanh thu là bao nhiêu?

Đối với thiệt hại tinh thần, trong lĩnh vực quyền tác giả, đôi khi tổn thất
về tinh thần còn nặng nề hơn tổn thất vật chất, nhưng khó mà chứng minh
được các tổn thất về tinh thần, Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần tối đa
cũng chỉ 50,000,000 VND là quá ít.

Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi xâm phạm
quyền tác giả trên Internet là vấn đề không đơn giản. Trong nhiều trường hợp,
chủ website dấu danh tính thật của mình. Nhiều trường hợp khác, khó xác
định chủ thể xâm phạm quyền. Trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả trên môi trường Internet và
mạng viễn thông đối với các hành vi vi phạm quyền tác giả do người sử dụng


13

đưa lên các trang mạng xã hội cũng là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi tại
nhiều nước với cách thức giải quyết rất khác nhau. Tại Việt Nam, theo Thông
tư Liên tịch 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012 quy định
trách nhiệm của doanh nghiệp trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông (Thông tư
liên tịch 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL), doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian (ISPs) có quyền thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát, xử lý các
thông tin được đưa vào, lưu trữ, truyền đi trên mạng Internet, mạng viễn
thông nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan,
cũng như quyền đơn phương từ chối cung cấp dịch vụ trái quy định của pháp
luật về quyền tác giả, quyền liên quan (quyền tác giả). Bên cạnh đó, ISPs có
trách nhiệm gỡ bỏ và xóa nội dung thông tin số vi phạm quyền tác giả, quyền
liên quan, cắt, ngừng và tạm ngừng đường truyền Internet, đường truyền viễn
thông sau khi nhận được yêu cầu bằng văn bản của thanh tra Bộ Thông tin
Truyền thông hoặc thanh tra Bộ VHTTDL hoặc các cơ quan có thẩm quyền
khác. Đồng thời, ISPs phải chịu trách nhiệm trực tiếp bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của pháp luật về sở hữu
trí tuệ và pháp luật khác có liên quan trong các trường hợp sau:

a) Là nguồn khởi đầu đăng tải, truyền đưa hoặc cung cấp nội dung thông
tin số qua mạng viễn thông và Internet mà không được phép của chủ thể
quyền;

b) Sửa chữa, cắt xén, sao chép nội dung thơng tin số dưới bất kỳ hình
thức nào mà không được phép của chủ thể quyền;

c) Cố tình huỷ bỏ hoặc làm vơ hiệu hoá các biện pháp kỹ thuật do chủ
thể quyền thực hiện để bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan;


d) Hoạt động như nguồn phân phối thứ cấp các nội dung thông tin số do
vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan mà có.

14

Nhiều ý kiến cho rằng việc quy trách nhiệm bồi thường của ISPs trong
các trường hợp trên là quá nghiêm khắc. Chỉ nên áp dụng các biện pháp này
trong trường hợp chủ sở hữu website không gỡ bỏ nội dung số vi phạm bản
quyền sau khi đã có kết luận của thanh tra mà khơng thực hiện u cầu đó.
Pháp luật một số quốc gia cũng không quy trách nhiệm bồi thường cho ISPs.

Việc khởi kiện ra tòa án yêu cầu bảo vệ quyền tác giả khi hành vi xâm
phạm quyền tác giả xảy ra tại một nước nhưng host của website lại được đặt
tại một quốc gia khác cũng là vấn đề phức tạp. Tại nhiều quốc gia, tịa án
khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm phạm quyền
tác giả trong môi trường Internet, nếu chủ sở hữu website đạt tại nước ngồi
và khơng có chi nhánh, văn phịng đại diện hay tài sản ở quốc gia sở tại.
Trong trường hợp này, cần khởi kiện tại tịa án nước ngồi. Đơn cử, trường
hợp vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm “Gặp nhau cuối năm – Táo quân
2014” trên Internet. Tác phẩm này đã bị một số đơn vị kinh doanh mạng phát
tán trái phép trên Internet, trong đó có những tên tuổi lớn như YouTube. Điều
đáng nói, cơng ty đầu tư và phát triển an ninh công nghệ cao (CNC) đơn vị
được Đài truyền hình Việt Nam – chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm trên ủy
quyền khai thác tác phẩm, đã gửi văn bản đến hơn 100 đơn vị kinh doanh
mạng thông báo về vấn đề bản quyền của chương trình. Khi phát hiện chương
trình được đưa trái phép lên YouTube, CNC đã có nhiều hành động nhằm bảo
vệ quyền tác giả của tác phẩm, trong đó có ý định khởi kiện ra tòa án. Tuy
nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu chủ sở hữu quyền tác giả (đài truyền hình Việt
Nam) khởi kiện tại Tồ án Việt Nam thì tịa án có thẩm quyền xét xử hay

khơng và nếu có thì phán quyết buộc YouTube (Mỹ) bồi thường cho CNC sẽ
được giải quyết như thế nào? Câu hỏi tưởng chừng “phi thực tế” vì chủ thể bị
xâm phạm quyền là pháp nhân Việt Nam, hành vi đưa tác phẩm lên mạng xảy
ra từ Việt Nam, tác phẩm được sáng tạo tại Việt Nam và được bảo hộ bởi
pháp luật Việt Nam và pháp luật của Mỹ trên cơ sở các điều ước quốc tế như
Công ước Berne, hiệp đinh bản quyền giữa Việt Nam và Mỹ, Hiệp định

15

thương mại giữa Việt Nam và Mỹ…tại sao đặt vấn đề tịa án Việt Nam có
thẩm quyền hay khơng? Nhưng có thể khẳng định khá chắc chắn là nếu khởi
kiện tại tòa án Việt Nam, tòa án sẽ từ chối thụ lý vì bị đơn khơng có trụ sở
hay chi nhánh tại Việt Nam, khơng có tài sản tại Việt Nam. Nếu phán quyết
của tòa án Việt Nam tuyên buộc YouTube Mỹ bồi thường thiệt hại cho chủ
thể quyền thì khả năng thực thi tại Mỹ lại càng thấp hơn. Vì muốn thực thi,
bên thắng kiện phải thực hiện thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành phán
quyết của tòa án Việt Nam tại Mỹ và khả năng để được công nhận và cho thi
hành là hầu như khơng vì pháp luật Mỹ đã có án lệ về vấn đề này. Nếu chủ
thể quyền tác giả tiến hành các thủ tục khởi kiện YouTube trên đất Mỹ, chi
phí sẽ rất tốn kém và khả năng thắng là rất ít vì như đã đề cập ở trên, đã từng
có phán quyết mang tính tiền lệ về vấn đề này và YouTube đã giành phần
thắng.

3. Giải pháp
Việc phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và sự đa dạng của các
thiết bị có khả năng truy cập Internet, sự gia tăng sử dụng Internet đã đặt ra
rất nhiều vấn đề pháp lý phức tạp trong bảo hộ quyền SHTT, đặc biệt là
quyền tác giả. Mặc dù chính phủ các nước đã rất nỗ lực trong việc thiết lập
khung pháp luật quốc tế cung như hoàn thiện pháp luật trong nước cho việc
bảo hộ các quyền này trong môi trường số, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong

thực thi quyền nhưng rõ ràng là việc đảm bảo thực thi hiệu quả các quyền này
trong môi trường số không phải là vấn đề đơn giản.

Giải pháp tốt nhất cho việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường
Internet là sử dụng kết hợp giữa các giải pháp pháp lý và giải pháp công nghệ.
Một khung pháp lý đầy đủ và hiệu quả sẽ là cơ sở quan trọng cho việc bảo vệ
quyền tác giả. Nhưng giải pháp cơng nghệ đóng vai trị khơng kém phần quan
trọng so với giải pháp pháp lý. Nếu có thể sử dụng cơng nghệ để xâm phạm
quyền tác giả thì ngược lại, cần sử dụng cơng nghệ để ngăn chặn hành vi xâm

16

phạm quyền và bảo vệ quyền. Có nhiều giải pháp công nghệ đã được triển
khai như ICOP (Illegal content obstruction program – Hệ thống quản lý sao
chép lậu). Hệ thống này cho phép, bằng biện pháp kỹ thuật nhận ra những
điểm đặc biệt và tìm kiếm tự động, có thể giám sát tự động các nội dung bị
sao chép trên Internet và tự động yêu cầu làm giám đoạn quá trình sao chép.
Một cách thức khác là sử dụng P2P, hình thức đặc biệt của Online service
Provide để quản lý, báo cáo nhận dạng và lưu trữ các nội dung download.
Ngồi ra, gần đây cơng nghệ điện tốn đám mây cũng một trong những lựa
chọn tốt góp phần bảo vệ các tác phẩm trên Internet một cách an toàn hơn.
Trước đây, phần lớn chỉ các doanh nghiệp lớn mới có đủ ngân sách để đầu tư
hạ tầng và giải pháp triển khai giải pháp CNTT bảo vệ bản quyền nội dung số.
Ngày nay, với cơng nghệ điện tốn đám mây, doanh nghiệp có thuê hạ tầng
và các phần mềm hệ thống để triển khai giải pháp bảo vệ bản quyền nội dung
số với chi phí đầu tư và cơng nghệ tốt hơn, hiệu quả hơn.

Bên cạnh các giải pháp pháp lý và công nghệ, cần tiếp tục nâng cao năng
lực cho các cơ quan thực thi và tuyên truyền rộng rãi đến người sử dụng các
quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ để nâng cao ý thức bảo vệ quyền từ phía

người sử dụng. Các chủ thể quyền cần áp dụng các biện pháp cơng nghệ để
bảo vệ quyền của mình và chủ động trong việc yêu cầu xử lý xâm phạm khi
có hành vi xâm phạm quyền của mình.

17

KẾT LUẬN

Quyền tác giả nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung được sinh ra
nhằm bảo vệ các tác phẩm, chất xám của tác giả tạo ra ở nhiều lĩnh vực. Sự
phát triển của công nghệ số, hay nói cách khác là Internet đã giúp những tác
phẩm của họ có khả năng đến gần hơn với cơng chúng, giúp họ có thể tiếp tục
phát triển khả năng sáng tạo thêm những tác phẩm mới, và những kiến thức,
tác phẩm mới đó lại thúc đẩy phát triển của kinh tế, khoa học, xã họio của đất
nước và toàn thể thế giới.

Nhưng đi cùng với đó là việc thực tế hiện nay, Internet lại trở thành con
dao hai lưỡi, khi làm ảnh hưởng trực tiếp tới việc bảo hộ quyền tác giả, có rất
nhiều những điều luật, những phương án được đề ra nhằm giúp các tác giả
bảo vệ tác phẩm của mình nhưng đứng trước rất nhiều những khó khăn và
thách thức về mặt pháp lý.

Cách tốt nhất để bảo hộ quyền tác giả trên mơi trường Internet hiện nay
có lẽ là việc sử dụng kết hợp giữa các giải pháp pháp lý và các giải pháp cơng
nghệ. Từ đó ngăn chặn việc xâm phạm tác phẩm một cách trái phép, giúp cho
quyền tác giả phát huy tối đa vai trị của mình, từ đó tác giả có thể yên tâm
phát triển năng lực sáng tạo của mình. Bên cạnh đó là việc tiếp tục nâng cao
năng lực cho các cơ quan thực thi và tuyên truyền rộng rãi đến người sử dụng
các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ để nâng cao ý thức bảo vệ quyền từ
phía người sử dụng, để Internet sẽ khơng cịn là mối lo về vấn đề bảo hộ

quyền tác giả.

18


×