Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ ngoài tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.01 KB, 145 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
01 ATM Máy rút tiền tự động
02 CBNV Cán bộ nhân viên
03 CNTT Công nghệ thông tin
04 CNNH Công nghệ ngân hàng
05 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
06 DTDVNTD Doanh thu dịch vụ ngoài tín dụng
07 DTHĐNH Doanh thu hoạt động ngân hàng
08 EDC Thiết bị quẹt thẻ
09 EUR Đồng tiền chung châu Âu
10 GTGT Giá trị gia tăng
11 L/C Thư tín dụng chứng từ
12 NH Ngân hàng
13 NHNN Ngân hàng nhà nước
14 NHTM Ngân hàng thương mại
15 NHTW Ngân hàng trung ương
16 NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
17 POS Thiết bị quẹt thẻ
18 SPDV Sản phẩm dịch vụ
19 TCTD Tổ chức tín dụng
20 TCKT Tổ chức kinh tế
21 TTQT Thanh toán quốc tế
22 VTC Vốn tự có
23 VND Đồng Việt Nam
24 XNK Xuất nhập khẩu
25 USD Đô la Mỹ
26 WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Ch n i t ng nghiên c u: Th nh t: khách h ng, nh ng ng i ọ đố ượ ứ ứ ấ à ữ ườ
ã, ang v có th l khách h ng s d ng d ch v c a Agribank đ đ à ể à à ử ụ ị ụ ủ


Qu ng Ninh. Chú ý: i t ng cá nhân l th nh niên. Th hai: cán ả đố ượ à à ứ
b ngân h ng, i di n cho NHNo&PTNT t nh Qu ng Ninh cung ộ à đạ ệ ỉ ả
ng các SPDV ngo i tín d ng cho khách h ng.ứ à ụ à 31
Ch n m u i u tra: Áp d ng ch n m u ng u nhiên ti n h nh l a ọ ẫ đ ề ụ ọ ẫ ẫ ế à ự
ch n các vùng, các n v i u tra. G i 500 phi u i u tra cho ọ đơ ị đ ề ử ế đ ề
khách h ng t i 03 khu v c s d ng các SPDV c a Agribank Qu ng à ạ ự ử ụ ủ ả
Ninh. M u ch n ra m b o tính i di n vùng v cho t nh Qu ng ẫ ọ đả ả đạ ệ à ỉ ả
Ninh, h i v các d ch v ngân h ng m khách h ng th ng s ỏ ề ị ụ à à à ườ ử
d ng v mong mu n c s d ng trong quá trình giao d ch v i ụ à ố đượ ử ụ ị ớ
iii
ngân h ng, m b o ánh giá khách quan m t s tiêu chí v các à đả ả đ ộ ố ề
SPDV ngo i tín d ng c a Agribank Qu ng Ninh. Phát phi u i u à ụ ủ ả ế đ ề
tra ng u nhiên cho 300/468 cán b nhân viên 3 khu v c, m c íchẫ ộ ở ự ụ đ
h i v nh ng hi u bi t v ánh giá c a khách h ng, lý do khách ỏ ề ữ ể ế ề đ ủ à
h ng l a ch n i v i SPDV c a Agribank v nh ng gi i pháp ch à ự ọ đố ớ ủ à ữ ả ủ
y u phát tri n SPDV Agribank.ế để ể 31
iv
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Ch n i t ng nghiên c u: Th nh t: khách h ng, nh ng ng i ọ đố ượ ứ ứ ấ à ữ ườ
ã, ang v có th l khách h ng s d ng d ch v c a Agribank đ đ à ể à à ử ụ ị ụ ủ
Qu ng Ninh. Chú ý: i t ng cá nhân l th nh niên. Th hai: cán ả đố ượ à à ứ
b ngân h ng, i di n cho NHNo&PTNT t nh Qu ng Ninh cung ộ à đạ ệ ỉ ả
ng các SPDV ngo i tín d ng cho khách h ng.ứ à ụ à 31
Ch n m u i u tra: Áp d ng ch n m u ng u nhiên ti n h nh l a ọ ẫ đ ề ụ ọ ẫ ẫ ế à ự
ch n các vùng, các n v i u tra. G i 500 phi u i u tra cho ọ đơ ị đ ề ử ế đ ề
khách h ng t i 03 khu v c s d ng các SPDV c a Agribank Qu ng à ạ ự ử ụ ủ ả
Ninh. M u ch n ra m b o tính i di n vùng v cho t nh Qu ng ẫ ọ đả ả đạ ệ à ỉ ả
Ninh, h i v các d ch v ngân h ng m khách h ng th ng s ỏ ề ị ụ à à à ườ ử
d ng v mong mu n c s d ng trong quá trình giao d ch v i ụ à ố đượ ử ụ ị ớ
ngân h ng, m b o ánh giá khách quan m t s tiêu chí v các à đả ả đ ộ ố ề

SPDV ngo i tín d ng c a Agribank Qu ng Ninh. Phát phi u i u à ụ ủ ả ế đ ề
tra ng u nhiên cho 300/468 cán b nhân viên 3 khu v c, m c íchẫ ộ ở ự ụ đ
h i v nh ng hi u bi t v ánh giá c a khách h ng, lý do khách ỏ ề ữ ể ế ề đ ủ à
h ng l a ch n i v i SPDV c a Agribank v nh ng gi i pháp ch à ự ọ đố ớ ủ à ữ ả ủ
y u phát tri n SPDV Agribank.ế để ể 31
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và nhà nước, nền kinh tế Việt Nam
thời gian qua đã khởi sắc và tạo nên sự biến chuyển lớn ở tất cả các lĩnh vực. Trong
đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã nhanh chóng đổi mới hoạt động, từng bước
thích ứng với môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, nhất là kể từ khi Việt
Nam chính thức được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đến nay.
Mục tiêu kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) là bảo đảm an
toàn vốn và có lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng có được là từ hoạt động đầu tư tín
dụng và cung cấp các sản phẩm dịch vụ (SPDV) ngoài tín dụng cho khách hàng.
Các ngân hàng hàng đầu thế giới đã phát triển mạnh về dịch vụ tín dụng đều nhận
định rằng hoạt động tín dụng có thể tạo ra nguồn thu ổn định tuy nhiên nguy cơ rủi
ro rất cao. Trong khi hoạt động ngoài tín dụng mang lại nguồn doanh thu lớn, chắc
chắn, ít rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng đều hy vọng rằng dịch vụ ngoài tín dụng sẽ
ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số của họ. Mặt khác, tiến bộ về
khoa học công nghệ ngày càng ứng dụng nhiều trong thực tiễn và tạo ra nhiều
SPDV ngân hàng hiện đại với nhiều tiện ích. Đặc biệt, trong bối cảnh hoạt động tín
dụng hiện nay còn nhiều khó khăn, thì việc coi trọng vai trò của phát triển dịch vụ
ngoài tín dụng và làm sao để đẩy mạnh các dịch vụ này là điều hết sức cần thiết.
Điều này không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tăng sức
cạnh tranh, tối giản rủi ro và đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững của ngân
hàng.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT)
tỉnh Quảng Ninh là đơn vị thành viên trực thuộc hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam,

hoạt động kinh doanh trên vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều
lợi thế trong việc cung cấp các SPDV ngoài tín dụng. Hiện tại SPDV cung cấp cho
khách hàng của Chi nhánh còn nhiều hạn chế về tiện ích, chưa thực sự đáp ứng tốt
nhu cầu và thu hút khách hàng. Doanh thu từ các SPDV còn chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa
có ảnh hưởng lớn trong tổng doanh thu, tốc độ tăng trưởng hàng năm thấp. Làm thế
1
nào để khắc phục những yếu kém trên và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của chi nhánh? Đây là bài toán không dễ trả lời. Thực tế có thể đưa ra nhiều
nhóm giải pháp, trong đó việc lựa chọn cách thức phát triển SPDV ngoài tín dụng để
nâng cao doanh thu dịch vụ ngoài tín dụng là một hướng đi chiến lược nhằm ổn định
kết quả kinh doanh lâu dài, phát triển bền vững theo xu hướng ngân hàng hiện đại.
Đây là một vấn đề khá lớn, phức tạp, song rất cần thiết trong bối cảnh kinh tế đất
nước cũng như hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, ngân hàng nói
riêng đang gặp nhiều khó khăn thách thức cả bên trong và từ bên ngoài.
Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn “Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
dịch vụ ngoài tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh
Quảng Ninh” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và làm rõ thực trạng hoạt động dịch vụ ngoài tín dụng, chỉ ra
nguyên nhân tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ ngoài tín dụng
tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Ninh.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu nội dung, vai trò, tính tất yếu phải phát triển dịch vụ ngoài tín
dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các SPDV ngoài tín dụng tại
NHNo&PTNT tỉnh Quảng Ninh hiện tại.
- Đề xuất được hệ thống giải pháp và kiến nghị hữu hiệu nhằm phát triển
dịch vụ ngoài tín dụng và nâng cao doanh thu dịch vụ tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng
Ninh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

+ Đối tượng nghiên cứu: Các SPDV ngoài tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh
Quảng Ninh.
+ Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu giải pháp phát triển dịch vụ
ngoài tín dụng; Đánh giá thực trạng dịch vụ ngoài tín dụng tại Chi nhánh
NHNo&PTNT tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2009 -2012; Đề xuất giải pháp và kiến nghị
2
nhằm phát triển dịch vụ ngoài tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Ninh.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn một số khía cạnh lý luận và thực tiễn về
hoạt động dịch vụ ngoài tín dụng của ngân hàng, nhất là của NHNo&PTNT.
- Đề xuất và kiến nghị các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ ngoài tín dụng
và hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng thu dịch vụ tại NHNo&PTNT Quảng Ninh
và đối với các chi nhánh khác trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Một số nội dung lý luận và thực tiễn về dịch vụ ngoài tín dụng tại
ngân hàng thương mại
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về thực trạng hoạt động dịch vụ ngoài tín
dụng tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Ninh.
Chương 4: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ ngoài
tín dụng và nâng cao doanh thu dịch vụ ngoài tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh
Quảng Ninh.
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ NỘI DUNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ
NGOÀI TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm về dịch vụ ngoài tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)

Thực tế đã có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM, song về cơ bản khái
niệm này được thống nhất như sau: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài
chính cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế, đặc biệt là dịch vụ tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ
thanh toán. Ở Việt Nam, Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 11/12/1997 quy định: “Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung
ứng các dịch vụ thanh toán” và “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức
tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có
liên quan”. Như vậy, Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng phục vụ các doanh nghiệp, các cá
nhân thông qua các dịch vụ của mình.
Nói chung, định nghĩa NHTM ở Việt Nam cũng không khác nhiều với định
nghĩa NHTM ở nhiều nước khác trên thế giới thể hiện trên các lĩnh vực hoạt động
căn bản mà chúng được phép thực hiện.
1.1.1.2. Khái niệm dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ là những hoạt động và kết quả mà một bên (người bán) có thể cung
cấp cho bên kia (người mua) và chủ yếu là vô hình không mang tính sở hữu. Dịch
vụ có thể gắn liền hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất.
Bản thân ngân hàng là một dạng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ,
thu phí của khách hàng. Trong phân tổ các ngành kinh tế của Tổng cục Thống kê
Việt Nam, Ngân hàng là ngành được phân tổ trong lĩnh vực dịch vụ. Hoạt động
4
ngân hàng không trực tiếp tạo ra sản phẩm cụ thể, nhưng với việc đáp ứng các nhu
cầu của dịch vụ về tiền tệ, về vốn, về thanh toán cho khách hàng, ngân hàng đã
gián tiếp tạo ra các SPDV trong nền kinh tế.
Đứng từ góc độ thoả mãn nhu cầu khách hàng thì có thể hiểu: “sản phẩm
dịch vụ ngân hàng là tập hợp những đặc điểm, tính năng, công dụng do ngân hàng
tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhất định của khách hàng trên thị

trường tài chính”. Luật các tổ chức tín dụng tại khoản 1 và khoản 7 điều 20 cụm từ:
“hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được bao hàm cả 3 nội dung:
nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Ở nước ta, đến nay chưa có sự minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ ngân
hàng. Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi
kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ theo chức năng của một trung gian tài
chính (cho vay, huy động tiền gửi ), chỉ những hoạt động không thuộc nội dung
nói trên mới gọi là dịch vụ ngân hàng. Hoặc: tất cả hoạt động ngân hàng phục vụ
cho doanh nghiệp và công chúng là dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động sinh lời của
ngân hàng thương mại ngoài hoạt động cho vay thì được gọi là hoạt động dịch vụ.
Quan điểm này phân định rõ hoạt động tín dụng, một hoạt động truyền thống
và chủ yếu trong thời gian qua của các NHTM Việt Nam với hoạt động dịch vụ,
một hoạt động mới bắt đầu phát triển ở nước ta. Sự phân định như vậy trong xu thế
hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính hiện nay cho phép ngân hàng thực
thi chiến lược tập trung đa dạng hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả của các hoạt
động ngoài tín dụng.
Còn quan điểm thứ hai thì cho rằng, tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một
ngân hàng thương mại đều được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là một loại
hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho khách hàng đáp ứng
nhu cầu kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản… và ngân hàng
thu chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Quan niệm này phù
hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với cách phân loại các phân ngành dịch vụ trong
cam kết tại Hiệp định WTO củaViệt Nam và Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
5
Gần đây khái niệm về dịch vụ ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế đang
trở nên phổ biến trên các diễn đàn, trong giới nghiên cứu và cơ quan lập chính sách.
Song quan niệm như thế nào đi nữa, thì yêu cầu cấp bách đặt ra cho các NHTM
Việt Nam hiện nay là phải phát triển, đa dạng và nâng cao chất lượng các nghiệp vụ
kinh doanh của mình. Thực vậy, trong hoạt động tín dụng hiện nay, các NHTM
cũng đang thực hiện đa dạng các sản phẩm tín dụng, như: tín dụng cho vay mua

nhà, cho vay mua ô tô, cho vay tiền đi du học, cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng,
tín dụng thuê mua, tín dụng chữa bệnh, tín dụng ngày cưới, tín dụng sửa chữa nhà
ở Còn các dịch vụ ngân hàng mới, như: nghiệp vụ thẻ, kinh doanh ngoại hối, đầu
tư trên thị trường tiền gửi, chiết khấu, chuyển tiền, kiều hối, tư vấn,… cũng đang
được các NHTM đầu tư cả về công nghệ, máy móc thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực,
hoạt động Marketing, quảng bá thương hiệu, gây dựng uy tín… cho phát triển đáp
ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng tăng.
Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay,
ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm,
thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ
phát triển của ngân hàng.
1.1.1.3. Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng có tính mở cao và luôn được cải tiến, đổi mới. Đặc biệt
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều loại
dịch vụ ngân hàng được ra đời cũng như nhiều dịch vụ ngân hàng trở nên lạc hậu và
được thay thế.
Dịch vụ ngân hàng dễ bị bắt chước. Nếu ngân hàng nào vừa tổ chức một loại
hình dịch vụ nào đó có hiệu quả thì lập tức các ngân hàng khác có thể thực hiện
ngay loại hình dịch vụ đó nếu muốn.
Các dịch vụ ngân hàng mang tính hỗ trợ cao, có mối liên kết chặt chẽ với
nhau. Sự ra đời và phát triển dịch vụ này là cơ sở để ra đời và phát triển dịch vụ kia
và ngược lại. Mối quan hệ chặt chẽ này tạo ra một hệ thống hỗ trợ giữa các dịch vụ
trong sự phát triển các dịch vụ ngân hàng. Nhờ khai thác mối quan hệ này mà ngân
hàng có một sự phát triển dịch vụ bền vững, phát huy mạnh mẽ tính hệ thống của
dịch vụ và có thể phục vụ trọn gói đối với khách hàng.
6
Dịch vụ ngân hàng mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua phí dịch vụ.
Có những dịch vụ làm tăng thu nhập cho ngân hàng một cách trực tiếp. Cũng có
những dịch vụ ngân hàng không thu được phí từ khách hàng nhưng thông qua đó
thu hút khách hàng, tăng sức cạnh tranh đối với các ngân hàng khác hoặc thông qua

dịch vụ đó làm tăng thu nhập từ các dịch vụ khác.
1.1.1.4. Các hoạt động dịch vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại
Theo thống kê của Ngân hàng thế giới (WB) hiện nay có khoảng 6.000 dịch
vụ ngân hàng. Tuy nhiên số lượng dịch vụ ngân hàng còn tuỳ thuộc việc phân chia
các dịch vụ ngân hàng theo tiêu thức nào. Tựu trung lại dịch vụ ngân hàng được
phân chia theo các nhóm chính sau:
* Dịch vụ huy động vốn
Nguồn vốn của các ngân hàng thu hút được theo 3 kênh chính gồm:
- Huy động tiền gửi: Các hoạt động tiền gửi dưới các hình thức cơ bản như
nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn hoặc tiền gửi tiết kiệm.
- Vay vốn trên thị trường: Ngoài nguồn tiền gửi, các ngân hàng còn chủ động
vay vốn trên thị trường, nhưng hình thức chủ yếu là vay từ Ngân hàng trung ương
(NHTW), vay từ số dư tài khoản dự trữ của ngân hàng khác tại NHTW, vay vốn
qua phát hành các hợp đồng mua lại, phát hành trái phiếu ngân hàng.
-Huy động vốn từ chủ sở hữu.
* Dịch vụ tín dụng và đầu tư
Phần lớn thu nhập của các ngân hàng có được từ các hoạt động sử dụng vốn
dưới các hình thức cho vay và đầu tư. Song, các rủi ro cơ bản mà các ngân hàng đối
mặt cũng xuất phát chính từ các hoạt động này. Vì vậy, với quan điểm thận trọng,
thông thường các ngân hàng sẽ cung cấp các dịnh vụ gắn với phân bổ quỹ vốn theo
cơ cấu ưu tiên với trật tự như sau:
Thứ nhất, ngân hàng phải sử dụng một phần quỹ tài sản tiền gửi nhằm đáp
ứng được các quy định pháp lý về dự trữ nhằm đảm bảo dự phòng cho các nhu cầu
thanh khoản và đi liền với nó là các dịch vụ liên quan đến chi tiêu tiền mặt, việc mua
các công cụ ngắn hạn, các chứng khoán có tính thanh khoản cao và rủi ro thấp nhất.
7
Thứ hai, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn trên khu vực thị trường mà họ
phục vụ bằng cách thiết lập những khoản cho vay và cho thuê sao cho phù hợp với
nhu cầu và khả năng của khách hàng.
Thứ ba, ngân hàng sẽ đầu tư vào danh mục đầu tư chứng khoán và tham gia

đầu tư vốn khác sau khi đã đáp ứng được các nhu cầu trên với mọi nguồn quỹ còn lại.
* Dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác
Cung cấp dịch vụ thanh toán là nét đặc trưng trong hoạt động của các ngân
hàng. Các ngân hàng là chủ thể chính trong hệ thống thanh toán bù trừ, chuyển tiền
và các hệ thống thanh toán dùng và không dùng tiền mặt khác.
Bên cạnh việc cung cấp dịch vụ thanh toán, các ngân hàng còn cung cấp
nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng, tài chính khác cho khách hàng như:, dịch vụ bảo
đảm, bảo lãnh, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ ngân hàng điện tử: MobileBanking,
InternetBanking, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ kế toán và kiểm
toán, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ thuê két sắt
Đối với các ngân hàng, khả năng thực hiện các dịch vụ không giống nhau,
mà tùy thuộc năng lực của ngân hàng và nhu cầu của đối tượng khách hàng mà
ngân hàng đang phục vụ, cũng như tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường kinh doanh
nơi ngân hàng đang hoạt động. Nếu như trước đây các ngân hàng thường tìm cách
làm cân bằng giữa thu nhập và chi phí từ hoạt động dịch vụ còn lợi nhuận chủ yếu
là chênh lệch lãi, thì đến nay các ngân hàng đã áp dụng một hướng hành động khác
đó chủ động mở rộng các hoạt động dịch vụ để cải thiện thu nhập và củng cố vị thế
của mình trên thị trường.
Trên thực tế không phải ngân hàng nào cũng cung cấp được tất cả các dịch
vụ ngân hàng, tài chính nhưng hầu như các ngân hàng hiện đại đều đặt mục tiêu trở
thành “bách hoá tài chính” hay “siêu thị ngân hàng”.
* Danh mục các SPDV ngoài tín dụng bao gồm:
a. Dịch vụ thanh toán
Ngày nay có thể nói dịch vụ thanh toán chiếm vị trí quan trọng trong hoạt
động của NHTM, nó tạo điều kiện cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển,
8
đồng thời nó là cơ sở để thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Nhìn
vào hệ thống thanh toán của một ngân hàng người ta có thể đánh giá được hoạt
động của ngân hàng đó có hiệu quả hay không, do vậy dịch vụ của NHTM luôn
được cải tiến và áp dụng những công nghệ mới nhất. Dịch vụ này bao gồm:

* Thanh toán chuyển tiền trong nước: Sử dụng các phương thức thanh toán
như: Thanh toán trong nội bộ ngân hàng, thanh toán giữa các chi nhánh trong nội bộ
một hệ thống, thanh toán liên ngân hàng và kho bạc trong phạm vi khu vực và quốc
gia hoặc sử dụng các cụng cụ thanh toán không dùng tiền mặt (Séc, ủy nhiệm chi,
thẻ thanh toán …)
* Thanh toán quốc tế: Những phương thức chuyển tiền thanh toán quốc tế
gồm: Thanh toán chuyển tiền bằng điện, thanh toán nhờ thu, thanh toán thư tín
dụng… hoặc các công cụ thanh toán quốc tế như (Hối phiếu, lệnh phiếu, séc …)
* Cung ứng các phương tiện thanh toán hiện đại: Phát hành và thanh toán các
loại thẻ (thẻ séc, thẻ thanh toán (Debit card), thẻ tín dụng (Credit card)…), thực
hiện rút, ứng tiền mặt, chuyển tiền và thanh toán công nợ qua máy ATM…
b. Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
Dịch vụ này càng gia tăng khi nền kinh tế phát triển, sự giao lưu hàng hoá
xuất nhập khẩu, trao đổi văn hóa, du lịch giữa các nước trên thế giới ngày càng mở
rộng và đặc biệt khi các chương trình hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia ngày
càng khăng khít.
c. Các SPDV ngoài tín dụng khác
* Bảo lãnh
Đó là sự cam kết của ngân hàng nhận bảo lãnh, chịu trách nhiệm trả tiền thay
cho nguời xin bảo lãnh, nếu người đó không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ
đã thỏa thuận với người hưởng thụ đã quy định cụ thể trong thư bảo lãnh, như: Bảo
lãnh vay vốn, Bảo lãnh dự thầu, Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh bảo đảm
chất lượng sản phẩm
* Quản lý thu chi tiền mặt
Thực chất của dịch vụ này là thực hiện các giao dịch của các dịch vụ khác
bằng tiền mặt. Đây là SPDV phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào
9
mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán của ngân hàng theo các
quy định của pháp luật cũng như các quy định của Ngân hàng trung ương.
* Thu hộ tiền thuế, tiền phí, tiền dịch vụ (tiền điện, tiền nước, cước viễn

thông, truyền hình )
Trên cơ sở các uỷ nhiệm chi, hoá đơn, hợp đồng nhờ thu hộ các cơ quan
thuế, hải quan, điện lực, nước, bưu điện, viễn thông, truyền hình,… Ngân hàng sẽ
thực hiện ghi nợ tài khoản của khách hàng và ghi có tài khoản tiền gửi cho các cơ
quan trên.
* Đầu tư - Môi giới - Tư vấn - Bảo hiểm
- Dịch vụ đầu tư: Là việc góp vốn với doanh nghiệp, TCTD thành lập mới
Quỹ đầu tư hoặc góp vốn mua cổ phần của Quỹ đầu tư đang hoạt động, góp vốn
hợp tác kinh doanh
- Dịch vụ tư vấn: Hướng dẫn các vấn đề hoạch định tài chính và kiểm soát
như: xây dựng phương án sản xuất kinh doanh; tính chi phí, định giá; đánh giá đầu
tư cơ bản, dự báo nguồn thu nhập và quản lý tài sản, thậm chí tư vấn về chiến lược
kinh doanh.
- Dịch vụ quản lý và tín thác: Thực hiện dịch vụ này, ngân hàng sẽ làm theo sự
uỷ nhiệm của khách hàng như uỷ thác đầu tư, làm người thừa hành trong một số trường
hợp cho khách hành hoặc quản lý tài sản và thanh toán cho những người thụ hưởng.
- Dịch vụ môi giới, đại lý phát hành, bảo quản chứng khoán và bảo hiểm.
Thông thường các ngân hàng cung cấp dịch vụ về chứng khoán và bảo hiểm
cho tất cả các khách hàng thông qua các công ty con hoặc thông qua các nhà môi
giới bảo hiểm của họ. Công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại sẽ thực
hiện các dịch vụ; bảo lãnh phát hàng chứng khoán; môi giới mua bán chứng khoán;
tư vấn đầu tư và bảo quản, quản lý chứng khoán để thu phí hoa hồng… Các dịch vụ
bảo hiểm mà ngân hàng có thể tham gia thực hiện cho các khách hàng là: bảo hiểm
tổn thất lợi nhuận (hoả hoạn, lũ lụt) bảo hiểm tín dụng để bảo hiểm chi những
khoản nợ khó đòi, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm của chủ hãng, bảo
hiểm trách nhiệm công cộng
10
* Sảm phẩm dịch vụ thẻ
Thẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành
để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thoả

thuận. Có hai cách phân loại thẻ:
Theo phạm vi lãnh thổ sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ nội địa và thẻ quốc tế.
Theo nguồn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ tín
dụng, thẻ trả trước, thẻ ghi nợ.
“Thẻ nội địa”: Là thẻ được ngân hàng phát hành thẻ tại Việt Nam để giao
dịch trong lãnh thổ nước Việt Nam.
“Thẻ quốc tế”: Là thẻ được ngân hàng phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành
để giao dịch trong và ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.
“Thẻ ghi nợ” (debit card): cho phép chủ thẻ sử dụng trong phạm vi số dư tài
khỏan tiền gửi thanh toán và (hoặc) hạn mức thấu chi để thanh toán hàng hóa, dịch
vụ; Rút/ ứng tiền mặt và các dịch vụ khác tại tại ATM/EDC trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam đối với thẻ ghi nợ nội địa, trên phạm vi toàn cầu đối với thẻ ghi nợ quốc
tế hiệu VISA, MASTER (hay tổ chức thẻ quốc tế khác).
“Thẻ tín dụng” (credit card): Là thẻ tín dụng mang thương hiệu VISA,
MASTER (hoặc của tổ chức phát hành thẻ quốc tế khác) do ngân hàng phát hành,
cho phép chủ thẻ sử dụng trong phạm vi hạn mức tín dụng được cấp để thanh toán
hàng hóa, dịch vụ; ứng tiền mặt và các dịch vụ khác tại ATM/EDC trên phạm vi toàn
cầu.
*Sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử E- Banking
Với nhiều tính năng vượt trội, ứng dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, mang
tới cho khách hàng những tiện ích ưu việt. Với những SPDV này, khách hàng cá
nhân và doanh nghiệp có thể quản lý tài khoản và thực hiện giao dịch mọi lúc mọi
nơi qua Internet và điện thoại di động mà không cần phải tới Ngân hàng.
- Chùm dịch vụ SMS (MobileBanking): sử dụng trên điện thoại di động
không có 3G, 4G hoặc có 3G,4G rất tiện dụng và ngày càng được phát triển: Thông
báo biến động số dư, Sao kê tài khoản, Vấn tin số dư, Chuyển khoản, Nạp thẻ điện
11
thoại, Nạp thẻ game, Thanh toán hóa đơn, Mua vé máy bay
- Dịch vụ InternetBanking ngày càng phát triển do công nghệ 3G, 4G.
Khách hàng không chỉ sử dụng máy tính cá nhân kết nối mạng mà có thể sử dụng

điện thoại, máy tính bảng và đăng ký dịch vụ với ngân hàng là có thể tuỳ ý sử dụng,
không bị hạn chế bởi không gian và thời gian.
Doanh thu dịch vụ ngoài tín dụng
Doanh thu từ các sản phẩm ngoài tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng là số tiền thu được thông qua việc ngân hàng cung cấp các sản phẩm ngoài tín
dụng cho khách hàng.
Doanh thu từ các SPDV ngoài tín dụng =
n
i i
i=1
Q ×G

Trong đó:
- Qi: Số lượng SPDV ngoài tín dụng thứ i
- Gi: Giá bán (phí) SPDV ngoài tín dụng thứ i
- i : Đi từ 1 → n
1.1.2. Vai trò và sự cần thiết của phát triển dịch vụ ngoài tín dụng tại NHTM
Trong xu hướng phát triển của ngân hàng hiện đại, để có thể tồn tại và phát
triển bền vững, bất cứ ngân hàng nào cũng phải đưa ra chiến lược phát triển các
dịch vụ ngoài tín dụng và tìm mọi giải pháp để nâng cao doanh thu từ các SPDV
ngoài tín dụng. Phát triển các SPDV ngoài tín dụng và nâng cao doanh thu từ dịch
vụ ngoài tín dụng trong hoạt động ngân hàng là một mục tiêu quan trọng nhằm ổn
định lợi nhuận.
Trong cơ cấu thu nhập hiện nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng là nguồn thu
chủ yếu của các NHTM Việt Nam nhưng ngân hàng luôn phải đối đầu với nguy cơ
rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng do
các biến cố cơ chế chính sách, ảnh hưởng kinh tế thế giới và khu vực, năng lực quản
lý sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực hiện mở rộng kinh doanh các
SPDV ngoài tín dụng, ngân hàng có cơ hội nâng cao lợi nhuận nhờ có thêm nguồn
thu ngoài tín dụng, tận dụng mọi nguồn lực vào kinh doanh và đặc biệt là giảm

12
được áp lực tăng trưởng tín dụng, giảm nguy cơ rủi ro tín dụng.
Nâng cao doanh thu từ dịch vụ ngoài tín dụng trong bối cảnh hiện nay là một
trong những định hướng cần thiết đối với các NHTM. Do môi trường cạnh tranh
giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, trước sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế,
các ngân hàng muốn thực hiện nâng cao doanh thu từ SPDV ngoài tín dụng buộc
phải phát triển các SPDV ngoài tín dụng của mình.
Sự cần thiết đó xuất phát từ những lý do cụ thể sau:
Từ nhu cầu của thị trường
Nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế ngày càng đa dạng và phong phú,
đặc biệt là nhu cầu về SPDV ngoài tín dụng ngân hàng. Các doanh nghiệp và cá
nhân không chỉ dừng lại thoả mãn sử dụng dịch vụ truyền thống mà luôn mong
muốn sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại để có thể phục vụ sản xuất, kinh
doanh, đời sống của họ một cách tốt nhất. Các SPDV ngoài tín dụng ngân hàng
ngày càng được khách hàng đón nhận là một xu hướng khẳng định tính đúng đắn
trong việc lựa chọn phát triển dịch vụ ngân hàng.
Từ nhu cầu phát triển của ngân hàng thương mại
Phát triển SPDV ngoài tín dụng làm tăng thu nhập của ngân hàng. Khi
NHTM phát triển SPDV sẽ mở rộng thị trường và tăng số lượng khách hàng, tạo
khả năng nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Với nhiều dịch vụ khác nhau, NHTM có
thể khai thác những khoảng trống trên thị trường kể cả khoảng trống nhỏ để tăng
thêm thị phần.
Phát triển các SPDV ngoài tín dụng giúp NHTM phân tán và hạn chế rủi ro.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt và phải đối mặt
với nhiều loại rủi ro khác nhau như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối
trong đó, hoạt động tín dụng chứa đựng rủi ro lớn nhất. Sau khi cấp tín dụng ngân
hàng ở vào thế bị động, việc quản lý hoạt động tín dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố
bên ngoài. Thực tế, trong thời gian qua đã có nhiều NHTM trên thế giới bị phá sản
do đầu tư vốn không thu hồi được. Với tỷ lệ nợ khó đòi ngày càng lớn đã làm cho
các NHTM không còn lợi nhuận và mất dần vốn tự có. Do vậy, các ngân hàng cần

phải đa dạng hoá các loại SPDV ngoài tín dụng nhằm phân tán rủi ro. Lợi nhuận thu
được từ các SPDV này góp phần bổ sung cho lợi nhuận ngân hàng. Khi thị trường
13
có những biến động thì ngân hàng ổn định được mức doanh thu theo dự kiến.
Trong nền kinh tế thị trường - áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng rất lớn.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đời sống của người dân ngày càng
được cải thiện đã khiến cho khách hàng yêu cầu cao hơn về SPDV của ngân hàng.
Ngân hàng không thể bán cái mình có mà phải tìm hiểu thị trường, Tìm hiểu nhu
cầu của khách hàng và SPDV, để từ đó cung cấp SPDV ngoài tín dụng tốt nhất cho
khách hàng. Trước đây khách hàng phải tìm đến ngân hàng để được cung cấp các
dịch vụ, còn hiện nay ngân hàng phải tìm mọi cách để mở rộng được thị phần và thu
hút được khách hàng đến với mình. Muốn vậy, không còn cách nào khác là phải
phát triển đa dạng các loại SPDV ngoài tín dụng, cung ứng những dịch vụ tiện ích,
hoàn hảo cho khách hàng.
Hơn nữa, rất khó có thể tạo ra được một lợi thế cạnh tranh rõ rệt thông qua các
sản phẩm truyền thống như nhận tiền gửi hay cấp tín dụng. Việc gia tăng lãi suất huy
động hoặc giảm lãi suất cho vay về mặt bản chất là cạnh tranh về giá nên chúng luôn
bị giới hạn bởi các mục tiêu lợi nhuận đã được xác định cho từng thời kỳ. Do vậy,
ngân hàng nào có SPDV ngoài tín dụng mới hơn, linh hoạt và hoàn hảo hơn đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của thị trường thì sẽ có sức thu hút khách hàng lớn hơn.
Từ đó có thể thấy rằng việc phát triển SPDV ngoài tín dụng có ý nghĩa hết sức thực
tiễn trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá thị trường tài chính hiện nay.
Phát triển các SPDV ngoài tín dụng sẽ thúc đẩy các nghiệp vụ khác cùng
phát triển. Các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng đều có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, tác động qua lại với nhau tạo thành một thể thống nhất. Việc phát triển sản
phẩm này sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển của các nghiệp vụ khác. Chẳng hạn, nếu
ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán hoàn hảo thì sẽ thu hút được khách hàng mở
tài khoản tiền gửi, từ đó có thể tận dụng các nguồn tiền nhàn rỗi trên tài khoản
thanh toán của họ làm tăng khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Hay việc phát
triển dịch vụ bảo lãnh, tư vấn, quản lý quỹ sẽ giúp khách hàng hoạt động kinh

doanh tốt hơn, từ đó đẩy mạnh cho sự phát triển và tính hiệu quả của hoạt động tín
dụng, thanh toán.
Tóm lại, để tồn tại và phát triển trong quá trình hoạt động kinh doanh, Ngân
14
hàng phải không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng SPVD. Trong xu thế hội
nhập cần chú trọng phát triển các SPDV ngoài tín dụng, nâng cao được doanh thu từ
những sản phẩm này nhằm thực hiện mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận.
Từ yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế
Hội nhập khu vực và quốc tế sẽ đem đến cho các NHTM Việt Nam nhiều cơ
hội song cũng nhiều thách thức, đặc biệt sức ép cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ
ngân hàng với các ngân hàng nước ngoài. Dịch vụ ngân hàng trong nước còn nghèo
nàn, tính tiện ích chưa cao, không tạo được sự hấp dẫn với khách hàng đã hạn chế
khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Do vậy, để có thể tự tin tham gia
vào thị trường khu vực và quốc tế, không còn cách nào khác là các NHTM Việt
Nam phải phát triển dịch vụ ngân hàng.
1.1.3. Ý nghĩa của việc phát triển dịch vụ ngoài tín dụng
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế
Dịch vụ ngân hàng là một trong những loại hình dịch vụ chất lượng cao, có ý
nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Là cơ sở hạ tầng trọng yếu ảnh
hưởng đến tổng thể các hoạt động của nền kinh tế, có liên quan đến mọi hoạt động
của các thành phần kinh tế. Có thể nói mọi thành phần kinh tế đều phải sử dụng
dịch vụ ngân hàng với các mức độ khác nhau.
Việc phát triển dịch vụ ngoài tín dụng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình lưu
chuyển tiền tệ, tăng cường tính ổn định của hệ thống tài chính, tận dụng tiềm năng
to lớn của các doanh nghiệp và cá nhân để phát triển kinh tế, hạn chế thanh toán
bằng tiền mặt. Mặt khác, nhờ vào khả năng thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ
ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tiền tệ, kiểm soát các
hành vi gian lận thương mại, tham nhũng, trốn thuế
Dịch vụ ngân hàng phát triển thúc đẩy sản xuất phát triển và hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế trong điều

kiện hội nhập: cung cấp cho nền kinh tế một kênh huy động vốn với chi phí thấp.
Mặt khác, giúp khách hàng lựa chọn các phương án đầu tư kinh doanh mang lại lợi
nhuận thông qua các dịch vụ ngân hàng như: dịch vụ môi giới tài chính, tư vấn tài
15
chính, đầu tư tài chính, thẩm định dự án
1.1.3.2. Đối với xã hội
Ngành ngân hàng sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao, đó cũng là nguồn
nhân lực cho các ngành kinh tế mũi nhọn. Chính những đòi hỏi một nguồn nhân lực
giỏi, năng động, đủ điều kiện tiếp thu kiến thức mới, đáp ứng nhu cầu hội nhập mà
các trường đại học sẽ có những chương trình phù hợp thực tế, kết hợp với các ngân
hàng để nguồn nhân lực đào tạo ngày càng tốt hơn.
Phát triển dịch vụ ngân hàng góp phần cung cấp những SPDV tiện ích hiện
đại và an toàn cho xã hội, đồng thời mang lại lợi ích lớn cho xã hội: tiết kiệm chi
phí, thời gian, nhân lực, nâng cao trình độ dân trí.
1.1.3.3. Đối với ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn, hạn chế rủi ro do
các yếu tố bên ngoài và ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Nguồn thu này sẽ
chiếm tỷ trọng càng cao nếu ngân hàng thu hút được càng nhiều khách hàng sử
dụng dịch vụ của mình. Phát triển dịch vụ khách hàng là cách thức hiệu quả nhất để
thay đổi cơ cấu doanh thu, thu nhập của ngân hàng. Nếu SPDV ngân hàng ngày
càng mở rộng sẽ giúp ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng và chiếm
lĩnh thị trường và thu hút khách hàng đến và sử dụng dịch vụ của ngân hàng ngày
càng nhiều hơn.
Phát triển dịch vụ ngân hàng góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân
hàng trong hệ thống để từ đó có thể cung cấp những sản phẩm tốt nhất, tiện ích nhất
đến người sử dụng. Đồng thời, góp phần liên kết các ngân hàng với nhau từ đó tạo
ra những tập đoàn tài chính có quy mô lớn, vững mạnh đảm bảo tính an toàn trong
hoạt động kinh doanh.
1.1.3.4 Đối với khách hàng
Việc phát triển các SPDV ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại sẽ

giúp khách hàng giảm bớt được thời gian, công sức, chi phí giao dịch cũng như đảm
bảo sự tiện lợi, an toàn, chính xác, kịp thời của giao dịch. Mặt khác, thông qua việc
sử dụng các dịch vụ ngân hàng sẽ giúp cho quá trình sản xuất, kinh doanh, lưu
thông hàng hóa được thực hiện trôi chảy, nhịp nhàng, nhanh chóng đẩy nhanh tốc
16
độ sản xuất, lưu thông hàng hóa.
1.1.4. Các yếu tố tác động đến dịch vụ ngoài tín dụng tại NHTM
1.1.4.1. Các yếu tố khách quan
Thứ nhất, môi trường kinh tế
Xét theo nhiều khía cạnh thì sự phát triển của nền kinh tế sẽ quyết định đến
sự phát triển của các SPDV ngoài tín dụng ngân hàng. Khi một đất nước có nền
kinh tế phát triển thì sẽ có điều kiện đầu tư đổi mới, nghiên cứu phát triển khoa học
công nghệ…và các ứng dụng của khoa học công nghệ sẽ kéo theo sự phát triển của
SPDV ngoài tín dụng ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng không thể phát triển trong một
điều kiện nền kinh tế có năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp còn yếu kém, thu nhập dân cư còn thấp, các khoản chi tiêu nhỏ lẻ.
Nền kinh tế phát triển vững chắc, tiền tệ ổn định là điều kiện cần thiết để phát triển
dịch vụ ngân hàng.
Thứ hai, môi trường chính trị, pháp lý, đường lối, chính sách của Nhà nước
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế chứ không
phải riêng chỉ ngành ngân hàng. Tình hình chính trị ổn định tạo ra sự yên tâm và
niềm tin cho khách hàng. Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động ngân hàng còn chịu
sự chi phối của hành lang pháp lý bao gồm thể chế cả trong và ngoài quốc gia. Môi
trường pháp lý không rõ ràng minh bạch, nhiều trở ngại cho hoạt động ngân hàng
chắc chắn sẽ gây ra khó khăn cho các NHTM trong quá trình hoạt động và tạo ra
rào cản gây khó khăn cho NHTM trong việc phát triển hoạt động của mình.
Chính phủ của mỗi quốc gia đều phải quản lý chặt chẽ hoạt động của hệ
thống ngân hàng thông qua luật pháp đồng thời mang lại điều kiện để hình thành
những sản phẩm mới vừa tạo nên những thách thức mới cho danh mục SPDV ngoài
tín dụng của ngân hàng trong tương lai.

Môi trường pháp lý sẽ đem đến cho ngân hàng nhiều cơ hội mới và cả những
thách thức mới, sự nơi lỏng trong quản lý pháp luật cũng có thể đặt các ngân hàng
trước nguy cơ cạnh tranh mới.
Thứ ba, xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập và cạnh tranh
Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới được biểu hiện rõ nhất ở sự lưu chuyển
17
xuyên quốc gia của các đồng vốn. Đó chính là toàn cầu hoá về mặt tài chính, là đặc
trưng nổi bật chi phối các quá trình tự do hoá về thương mại, dịch vụ và đầu tư. Tuy
nhiên, chính toàn cầu hoá làm cho quá trình cạnh tranh diễn ra quyết liệt hơn. Đối
thủ cạnh tranh của ngân hàng không chỉ là các ngân hàng trong nước mà còn có các
ngân hàng nước ngoài với trình độ quản lý và khoa học công nghệ hiện đại hơn,
ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động của mình. Công nghệ hiện đại và
trình độ quản lý tiên tiến cũng như nguồn lực tài chính dồi dào của các ngân hàng
nước ngoài vẫn sẽ là ưu thế cơ bản tạo ra những sức ép cạnh tranh trong ngành ngân
hàng và buộc các ngân hàng phải tăng thêm vốn và đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương
thức quản trị, hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và
năng lực cạnh tranh.
Thứ tư, sự phát triển về khoa học, công nghệ
Trong thời đại ngày nay, công nghệ là chìa khoá của thành công. Kinh doanh
của NHTM không nằm ngoài xu thế này. Theo tính toán và thống kê qua kinh
nghiệm của các NHTM nhiều nước, việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, áp
dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động có thể tiết kiệm đến 3/4 chi phí
hoạt động của ngân hàng. Việc áp dụng công nghệ trang thiết bị hiện đại sẽ cho
phép các ngân hàng cung cấp các SPDV ngoài tín dụng với giá thành hạ và tự động
hoá. Do vậy các SPDV ngoài tín dụng mới với hàm lượng công nghệ cao đòi hỏi
phải được các ngân hàng không ngừng nghiên cứu và phát triển để đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của khách hàng.
Thứ năm, môi trường xã hội
Là các yếu tố quyết định đến các tập quán sinh hoạt và thói quen sử dụng
tiền của người dân. Tuỳ theo đặc trưng văn hoá của mỗi quốc gia, người dân có tiền

nhàn rỗi sẽ quyết định lựa chọn hình thức giữ tiền ở nhà hay gửi tiền vào ngân hàng
hay đầu tư vào lĩnh vực khác.
Môi trường xã hội bao gồm: dân số, thu nhập, trình độ dân trí sẽ thể hiện
khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ của công chúng cũng như nhận được những
tiện ích mà dịch vụ ngân hàng mang lại. Đồng thời năng lực của khách hàng thể
hiện ở mức độ tham gia vào quá trình cung ứng dịch vụ cũng như mức độ diễn đạt
18
chính xác, rõ ràng, đầy đủ nhu cầu và sự mong đợi của khách hàng đối với ngân
hàng, sự am hiểu về trình tự xử lý các dịch vụ ngân hàng, sự tích cực chủ động
trong quá trình sử dụng dịch vụ ngân hàng, năng lực khởi xướng sự hợp tác trong
việc kiểm tra, đánh giá chất lượng dịch vụ.
1.1.4.2. Các yếu tố chủ quan
Thứ nhất, nguồn lực tài chính
Vốn tự có (VTC) của ngân hàng không phải là để tạo ra lợi nhuận cho ngân
hàng mà là nền tảng đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được an toàn, cụ thể là
chống đỡ rủi ro, bảo vệ người gửi tiền khi NHTM gặp khó khăn, đóng vai trò kháng
thể trong kinh doanh. Trên cơ sở VTC của mình, ngân hàng có quyết định hùn vốn
kinh doanh, mua cổ phần, cho vay cao nhất đối với một khách hàng…đồng thời dựa
trên VTC, NHTM thực hiện các nghiệp vụ như: bảo lãnh, thanh toán quốc tế, kinh
doanh ngoại tệ, mở chi nhánh văn phòng…việc phát triển các sản phẩm mới, hiện
đại đòi hỏi rất nhiều chi phí, chi mua máy móc thiết bị, bảo dưỡng, vận hành… nên
ngân hàng muốn đa dạng được sản phẩm dịch vụ của mình thì phải có nguồn vốn đủ
lớn để đầu tư vào các thiết bị công nghệ.
Thứ hai, tài sản vật chất và công nghệ
Tài sản vật chất của ngân hàng là hệ thống trụ sở, điểm giao dịch, máy móc,
thiết bị, phương tiện hoạt động thể hiện năng lực của ngân hàng có đủ điều kiện để
tiếp cận công nghệ và cung ứng các SPDVngân hàng hiện đại hay không. Tài sản
vật chất và công nghệ cung ứng dịch vụ tại các NHTM Việt Nam so với các ngân
hàng trong khu vực còn lạc hậu, vì thế không những ảnh hưởng đến khả năng quản
lý thống nhất trong toàn hệ thống mà còn ảnh hưởng nhiều đến khả năng cung ứng

dịch vụ ngoài tín dụng của các NHTM.
Thứ ba, giá cả của sản phẩm dịch vụ
Giá cả của các loại SPDV đóng vai trò quan trọng đối với các chủ thể cung
cấp dịch vụ, nếu giá cả quá cao hoặc quá thấp đều có tác động tiêu cực đến sự phát
triển dịch vụ ngân hàng. Trường hợp giá cả các dịch vụ tài chính quá cao, khách
hàng sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các loại hình dịch vụ tài chính,
ngược lại giá cả các dịch vụ quá thấp sẽ dẫn đến ngân hàng khó có thể cung cấp
dịch vụ tốt hoặc đạt được mục tiêu phát triển của mình.
19
Thứ tư, nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại
Dịch vụ ngân hàng là các dịch vụ vô hình, khó phân biệt chất lượng dịch vụ
giữa các ngân hàng khác nhau. Do đó, chính nhân lực của ngân hàng, các nhân viên
giao dịch trực tiếp với khách hàng là điểm tạo nên sự khác biệt giữa các ngân hàng,
có vai trò quan trọng việc tạo nên hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng, một
trong những yếu tố tạo nên uy tín của ngân hàng trên thị trường. Hơn nữa, chính
nhân viên ngân hàng là người trực tiếp vận hành và sử dụng các trang thiết bị hiện
đại phục vụ khách hàng, nên nếu một ngân hàng có đầu tư công nghệ thiết bị hiện
đại mà không có nguồn nhân lực chất lượng cao, có tri thức để khai thác vận hành
thiết bị này thì việc đầu tư cũng coi như không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, làm
giảm năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải có những cán
bộ nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học công nghệ tài năng, cán bộ
điều hành quản trị và đội ngũ lao động tinh thông. Việc phát triển SPDV ngoài tín
dụng phụ thuộc rất lớn vào trình độ đội ngũ cán bộ.
Thứ năm, chất lượng hoạt động Marketing của ngân hàng thương mại
Công tác Marketing nâng cao uy tín, vị thế, khả năng cạnh tranh trong hoạt
động kinh doanh là điều kiện sống còn của mỗi ngân hàng và được quán triệt tới
từng cán bộ nhân viên. Trong đó, việc thực hiện phân đoạn thị trường được xem là
vấn đề hết sức cơ bản. Nó giúp các nhà quản trị ngân hàng đánh giá đúng mức nhu
cầu để tập trung nguồn lực vào đoạn thị trường mang lại hiệu quả cao.
Mạng lưới chi nhánh là kênh phân phối đưa SPDV ngoài tín dụng ngân hàng

đến cho khách hàng, thông qua các kênh này mà SPDV ngoài tín dụng ngân hàng
thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Kênh phân phối đóng vai
trò tích cực trong việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng để chủ động trong việc cung
cấp SPDV ngoài tín dụng ngân hàng cho khách hàng. Mặt khác, còn tạo sự khác
biệt và khuếch trương hình ảnh ngân hàng trên thị trường.
Thứ sáu, mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh của NHTM bao giờ cũng tiềm ẩn rủi ro. Ngay cả các
NHTM lớn, đã có truyền thống và uy tín hoạt động trên thế giới cũng không tránh
20
khỏi rủi ro. Đối với một nhà đầu tư bất kỳ khi tiến hành đầu tư số tiền của mình đều
muốn có lợi, đó là tâm lý “ không bỏ hết trứng vào một rổ” hay phân tán rủi ro là
một xu hướng rất yếu. Người đầu tư sẽ đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình để
giảm rủi ro có thể đến với mình. Do đó trong hoạt động của ngân hàng, để giảm
được rủi ro và nâng cao khả năng an toàn thì phải tiến hành đa dạng hoá các SPDV,
mức độ rủi ro của các sản phẩm chính càng cao thì càng cần phải phát triển thêm
nhiều sản phẩm mới để hỗ trợ và bù đắp rủi ro cho nó. Thêm nữa, chất lượng SPDV
ngày càng phải được nâng cao về tiện ích gắp với sự an toàn, bảo mật. Lường trước
và có các giải pháp phòng ngừa rủi ro xảy ra và giảm thiểu rủi ro nếu nó xảy ra.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ ngoài tín dụng ở các nước phát triển
1.1.2.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Thẻ tài khoản cá nhân - Thẻ tín dụng: Lĩnh vực thẻ thanh toán đã có những
bước phát triển vượt bậc. Các tổ chức phát hành thẻ quốc tế lớn nhất trên thế giới
đều từ Mỹ. Hầu như trong cuộc sống hàng ngày người dân ít sử dụng tiền mặt và
chỉ sử dụng ở mệnh giá nhỏ. Thẻ có mặt ở bất cứ nơi đâu có sự trao đổi mua bán
hàng hoá, dịch vụ. Mỹ tiên phong trong lĩnh vực bỏ thẻ từ và chuyển sang phát triển
thẻ chíp vì độ an toàn và độ bền của nó. Thẻ và các phương tiện thanh toán dùng thẻ
có thể coi là cuộc cách mạng về công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng.
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực
hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày

nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế
hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và
ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
Quản lý tiền mặt: Merrill Lynch (Tập đoàn tài chính lớn thứ 4 tại nước Mỹ),
cho phép khách hàng mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn trong nhiều quỹ
tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời.
Dịch vụ thuê mua thiết bị: Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng
kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng
21
thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui
định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà
cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa
chữa và thuế. Từ năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia
sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều
đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người
chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng
lợi ích về thuế.
Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo
hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp
khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân
hàng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có
thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn
thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo
hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh
doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại
hành lang của ngân hàng và ngân hàng được hưởng hoa hồng. Một số bang như
Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
được quy định trên toàn quốc.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động
trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao

động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế.
Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle)
cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này
cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trong một vài trường
hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of
America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công
ty môi giới.
22

×