Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận triết học vấn đề con người trong triết học mác lênin, phát triển nguồn nhân lực ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.44 KB, 34 trang )

TIỂU LUẬN

MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN

TÊN ĐỀ TÀI
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................3
I. KHÁI LƯỢC MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT
HỌC TRƯỚC MÁC.........................................................................................3
1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông...........................3
2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây..............................4
II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON
NGƯỜI.............................................................................................................6
1. Triết học Mác – LêNin tiếp cận con người trong lịch sử sản xuất vật chất. 6
2. Quan điểm của triết học Mác – LêNin về bản chất con người................8
3. Quan điểm của triết học Mác – LêNin về vai trò của con người..........14
III. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.........................................................................................16
1. Đặc điểm hình thành con người Việt Nam trong lịch sử.......................16
2. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay..........................17
III. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY..........................................................25
1. Thực trạng nguồn nhân lực trong quân đội hiện nay...............................25
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển nguồn nhân lực chất


lượng cao trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
.........................................................................................................................26
C. KẾT LUẬN...............................................................................................31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................32

1

A. MỞ ĐẦU

Phát triển con người luôn là mục tiêu cao nhất của toàn nhân loại và
vấn đề con người từ xưa đến nay vẫn luôn được coi là trung tâm của mọi xã
hội, là đối tượng nghiên cứu của tất cả các lĩnh vực khoa học. Trong lịch sử tư
tưởng triết học phương Đông cũng như phương Tây trước Mác cũng đều đã
đề cập, nghiên cứu về con người nhưng tựu chung cịn mang tính chất duy vật
siêu hình hoặc duy tâm thần bí. Trong bối cảnh tình hình hiện nay trước sự
tan rã của hệ thống chủ nghĩa xã hội (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu, phong
trào cộng sản lâm vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản (CNTB) có những sự điều
chỉnh để thích nghi kéo dài sự tồn tại của mình, chúng liên tục xun tạc cơng
kích bơi nhọ chủ nghĩa Mác LêNin về tính nhân văn, khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác, chúng rêu rao rằng Chủ nghĩa Mác-LêNin chỉ chú trọng
vào vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp mà quên đi yếu tố con người. Song
nếu như ta nghiên cứu và nhìn nhận một cách khách quan khoa học về sự tồn
tại và phát triển của chủ nghĩa Mác – LêNin ở nước ta nói riêng và ở các nước
XHCN nói chung thì khơng ai có thể phủ nhận triết học Mác-LêNin rất đề cao
con người, bản chất con người và phát triển con người. Triết học Mác đã kế
thừa và khắc phục những mặt hạn chế của các tư tưởng về con người trước
đây và vận dụng những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, khoa và các
khoa học đương thời, đã xây dựng nên học thuyết của mình về vấn đề con
người, bản chất con người một cách khoa học và cách mạng. Con người trong
triết học Mác là con người thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội và tư duy, con

người vừa là sản phẩm của xã hội lịch sử đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự
nhiên, xã hội và bản thân mình.

Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định mục tiêu tổng quát là: "Nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện; củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ

2

nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy
ý chí và sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Đại hội cũng xác định “Phát huy tối đa
nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và
mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.

Nhận thức được tầm quan trọng nhân tố con người trong chủ nghĩa
Mác – LêNin và đặc biệt là vấn đề phát huy nhân tố con người trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Đây chính là lý do tôi chọn chủ đề tiểu luận:
“Vấn đề con người trong triết học Mác-LêNin, phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay”.

3

B. NỘI DUNG
I. KHÁI LƯỢC MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT

HỌC TRƯỚC MÁC
1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Phương Đông cổ đại là vùng đất rộng lớn, một trong những cái nôi của
nền văn minh nhân loại có nhiều trung tâm triết học lớn, các quan niệm về
con người xuất hiện rất sớm trong đó điển hình là triết học Phật giáo và Nho
giáo. Đã bàn về những nội dung hết sức đa dạng những vấn đề thuộc nguồn
gốc, bản tính của con người, đạo làm người và mẫu hình con người lý tưởng.
a) Quan niệm về con người trong triết học Phật giáo
Khi bàn tới nguồn gốc con người: Phật giáo phủ nhận quan điểm của
kinh Vêda, Upanisad cho rằng con người là sản phẩm của đấng sáng tạo và
con người là ngun nhân của chính mình, con người q khứ là nguyên nhân
của con người hiện tại, con người hiện tại là nguyên nhân của con người
tương lai.
Phật giáo cho rằng con người có hai thành phần: phần sinh lý và phần
tâm lý, phần hình chất và tâm thần. Con người là sự hội tụ bởi sắc và danh,
hai thành phần trên được tạo nên từ ngũ uẩn, do nhân duyên hợp thành, mà
thế giới bản chất của nó là vơ thường nên sự hội tụ của sắc và danh cũng chỉ
diễn ra trong thời gian nhất định, vì vậy khơng có cái tôi vĩnh hằng. Đời sống
trên trần gian chỉ là hư ảo, chỉ có cõi niết bàn, thiên đường mới là vĩnh viễn.
Trong mỗi người, người nào cũng có trần tục tính và Phật tính. Trần tục
tính là tính tham, sân, si; là vơ minh, ái dục. Phật tính là tính giác ngộ về cõi
niết bàn, về cõi chân như. Qua đây Phật giáo thừa nhận bản tính con người
vừa thiện vừa ác.
b) Quan niệm về con người trong Nho giáo
Nho giáo cho rằng muôn vật do trời đất sinh ra thì con người cũng do
trời đất sinh ra. Sinh ra người cũng như sinh ra mn vật, đó là đức của trời
đất. Nho giáo cho rằng con người sinh ra thì con người cùng với đất hợp

4


thành ba ngôi tiêu biểu cho sự vật trong thế giới vật chất và tinh thần. Kinh
dịch chỉ rõ: Trời, đất, người là tam tài. Nho giáo cho rằng trời là gốc của
người, trời với người là một, do đó chủ trương thiên nhân hợp nhất.

Nho giáo coi tu than và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn
bản nhất, ln được đặt vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Mục tiêu xây
dựng con người của Nho giáo là xác định được năm mối quan hệ và làm tròn
trách nhiệm trong năm mối quan hệ đó. Con đường để đạt tới mục tiêu đó là
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đồng thời Nho giáo cũng rất coi trọng
năm đức (ngũ thường) thường xuyên phải trau dồi là nhân, nghĩa, lễ, trí. Tín.

Nhìn chung quan điểm triết học về con người thể hiện trong các học
thuyết triết học phương Đông thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng cịn
mang nặng tính duy tâm. Tất cả những tư tưởng đó đều tồn tại lâu dài trong
lịch sử, ln giữ vai trị nền tảng trong suốt xã hội trung cổ. Đây là cơ sở để
các triết gia Phương đơng sau này củng cố và hồn thiện, phát triển.

2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện phong
phú theo dòng chảy của lịch sử từ thời cổ đại đến nay. Mỗi thời đại lịch sử cụ
thể những tư tưởng về con người mang những nội dung khác nhau.
a) Triết học phương Tây cổ đại
Cả triết học duy vật và triết học duy tâm đều có quan niệm khác nhau
về con người. Với các triết gia theo chủ nghĩa duy vật, họ giải thích nguồn
gốc, bản chất con người theo quan điểm duy vật chất phác, mộc mạc. Phái
ngun tử luận, tiêu biểu là Đêmơcrít cho rằng mọi sinh vật đều cấu tạo từ
nguyên tử.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm, họ coi con người có hai phần thể
xác và linh hồn, trong đó linh hồn là bất tử. Aritxtốt cho rằng, con người là
một động vật chính trị, qua đó ơng đã đặt vấn đề nghiên cứu cả mặt tự nhiên

và mặt xã hội của con người từ rất sớm.

5

b) Triết học phương Tây thời kỳ trung cổ
Quan niệm con người bị chi phối bởi quan diểm duy tâm của tôn giáo.
Theo Kito giáo con người do Chúa sáng tạo ra, con người có thể xác và linh
hồn, thể xác mất đi, linh hồn sẽ còn lại. Họ cho rằng Chúa trời là lực lượng
siêu nhiên, định đoạt mọi số phận của con người, ban phước hoặc trừng phạt
con người. Mọi mặt cuộc sống con người, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của
con người đều do thượng đế sắp đặt. Mọi sự vật là do chúa trời sắp đạt chính
vì vậy con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống, nhưng đành bằng lòng, an
phận với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thiên
đường. Đây là quan niệm duy tâm về bản chất con người nó kìm hãm, triệt
tiêu ý chí đấu tranh vươn lên của con người.
c) Triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng - cận đại
Ở giai đoạn này nhận thức về nguồn gốc và bản chất con người đã có
một bước tiến đáng kể, triết học duy vật và duy tâm đều phản ánh những vấn
đề mới mẻ do thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, chưa có một trường phái nào nhận
thức đầy đủ cả về mặt sinh học và mặt xã hội, thống nhất trong con người. Họ
chỉ nhấn mạnh mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội của con người.
d) Trong triết học cổ điển Đức
Hai đại biểu xuất sắc nhất là Hêghen và Phoiơbắc quan niệm về con
người đã phát triển mạnh mẽ ở cả hai khuynh hướng duy tâm và duy vật.
Hêghen tuyệt đối hố con người lý tính, cho rằng ý niệm tuyệt đối tha hoá
thành tự nhiên, xã hội và con người. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc trong lúc phê phán chủ nghĩa duy tâm, đã khẳng định ý thức là sản
phẩm của bộ óc, tinh thần là sản phẩm của vật chất và tuyệt đối hoá con người
tự nhiên, sinh vật, không thấy được bản chất xã hội - lịch sử của con người;
khơng thấy vai trị hoạt động thực tiễn của con người. do vậy cả hai ông đều

chưa giải quyết đúng đắn vấn đề con người.
Như vậy, các quan điểm triết học trước Mác về con người chưa thốt
khỏi tính chất duy vật siêu hình hoặc duy tâm thần bí. Tuy nhiên lịch sử triết

6

học đã để lại những quan niệm, nguồn gốc, bản chất quý giá về con người,
làm cơ sở, tiền đề, điều kiện cho triết học Mác – LêNin kế thừa, phát triển đưa
ra quan điểm khoa học về con người.

II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON
NGƯỜI

1. Triết học Mác – LêNin tiếp cận con người trong lịch sử sản xuất vật
chất

a) Khái niệm con người
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, triết học Mác - LêNin cho
chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong mỗi con
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu
sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người và đến
lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau tạo thành con người tự
nhiên - xã hội.
Nói chung, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm
của xã hội. Vì vậy con người chính là một thực thể sinh học - xã hội gọi là
thực thể sinh học vì nó là một cơ thể sống, gọi là một thực thể xã hội vì nó
mang bản chất xã hội. Tự nhiên và xã hội trong con người có mối quan hệ
biện chứng với nhau. C.Mác cho rằng “con người không phải là một tồn tại

trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngồi thế giới” 1. Đó là những con người sống trong
một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định.
b) Triết học Mác-LêNin tiếp cận con người trong lịch sử sản xuất vật
chất
Từ quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội, các nhà kinh điển
đã tiếp cận sự hình thành, phát triển con người từ trong lịch sử sản xuất vật
chất. Từ đó, khẳng định: lao động là điều kin ch yu quyt nh s hỡnh

1 C.Mác và Ph.ăngghen, tuyển tập, tập I. NXB Sự thật Hà Nội- 1981, trang 13,14.

7

thành, phát triển của con người, sự hình thành con người có cơ sở trực tiếp và
gắn với môi trường tự nhiên – xã hội.

Lao động-điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành, phát triển con
người.

Trong lao động, thông qua lao động con người biến đổi điều kiện tự
nhiên bên ngoài; đồng thời làm biến đổi bản chất tự nhiên, cải tạo bản năng
sinh học của mình và hình thành, phát triển những phẩm chất xã hội.

Con người có trình độ cải tạo bản năng sinh học, phát triển phẩm chất
xã hội của con người là biểu hiện tập trung ở sự hình thành đặc tính sáng tạo.
Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào tự nhiên, còn
con người phải bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra của cải
vật chất, thoả mãn nhu cầu bản thân.

Qua lao động, con người đảm bảo phương thức quan hệ giữa con người
với tự nhiên. Lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo tự

nhiên phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.

Sự hình thành con người có cơ sở trực tiếp và gắn với môi trường tự
nhiên - xã hội.

Hoàn cảnh tự nhiên – xã hội được thu hút vào quá trình đời sống xã
hội. Triết học Mác - LêNin khẳng định, thông qua lịch sử sản xuất vật chất và
nhờ lao động mà một loài sinh vật mới ra đời. Lao động đã biến đổi bản chất
tự nhiên của tổ tiên loài người. C.Mác khẳng định: “trong con người, ý thức
thay thế bản năng hoặc bản năng con người là bản năng đã được ý thức”2 .
Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành phát triển phẩm chất
xã hội của con người. Trong lao động tất yếu hình thành quan hệ xã hội,
thông qua hoạt động giao tiếp hình thành ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm, ý chí
và cả phương pháp tư duy của con người… Chính vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng
định: “trên ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động sáng tạo ra bản thân
con người”. Con người trực tiếp tồn tại trong môi trường xã hi, thụng qua xó

2 C.Mác và Ph.ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 641

8

hội mà thích nghi với tự nhiên. Bởi vì, xã hội là một bộ phận của giới tự
nhiên, một kết cấu vật chất đặc thù của giới tự nhiên. C.Mác khẳng định:
“Chừng nào loài người cịn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy
định lẫn nhau”3. Thông qua lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên,
vừa hoà nhập với tự nhiên trở thành một thực thể sáng tạo.

2. Quan điểm của triết học Mác – LêNin về bản chất con người
C.Mác viết trong Luận cương về PhoiơBach (1845): “PhoiơBach hồ
tan bản chất tơn giáo và bản chất con người. Nhưng bản chất con người không

phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hợp những quan hệ xã hội.”4 như vậy
thông qua luận cương này là tiền đề quan trọng chỉ đạo quá trình xem xét
nghiên cứu con người. Cụ thể bản chất con người được thể hiện trên những
nội dung:
a) Con người – một thực thể thống nhất của cái sinh vật và cái xã
hội
Kế thừa quan niệm đúng đắn về con người trong lịch sử triết học, với
quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C. Mác đã phân biệt
rõ hai mặt sinh vật và xã hội thống nhất trong con người hiện thực.
Mặt sinh học, đó là một cá thể xét trên góc độ sinh học con người tồn
tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong các hiện tượng sinh lý, di truyền, thần
kinh, điện - hoá và các quá trình khác của cơ thể. Về mặt này, con người phục
tùng các quy luật của tự nhiên, sinh học. nhưng cấu tạo cơ thể có những đặc
biệt khác xa động vật đặc biệt là bộ não
Mặt xã hội, con người tham gia vào các quan hệ xã hội tạo nên các giá
trị xã hội - nhân cách, biểu hiện trong những quá trình ý thức, tính cách, tính
khí…là chủ thể các quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp, tinh thần…Về mặt
này, con người phục tùng các quy luật xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hóa lâu di

3 C.Mác và Ph.ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr. 25
4 C.Mác và Ph.ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, t. 3, tr. 11

9

của giới tự nhiên. Sinh giới phát triển thông qua nhiều giai đoạn, nhiều quá
trình khác nhau, từ vật chất sống ban đầu là hạt Coaxecva đến sinh vật đơn
bào, đến sinh vật đa bào, đến thực vật, đến động vật và sự phát triển cao nhất
là con người. Con người mang bản tính sinh vật, “Bản thân cái sự kiện là con

người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người khơng bao
giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Chẳng hạn đó
là con người thì ai cũng phải trải qua các giai đoạn sinh trưởng, tử vong; ai
cũng phải có nhu cầu ăn, mặc, ở, sinh hoạt văn hóa, tình cảm, hiểu biết,…
Song con người không phải là động vật thuần túy, mà là động vật có tính chất
xã hội. Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi được thỏa mãn các nhu cầu
sinh học, nhưng những vật phẩm để thỏa mãn các nhu cầu đó khơng có sẵn
trong giới tự nhiên. Cho nên để duy trì sự tồn tại của mình, con người phải lao
động. Chính lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của
con người.

Con người là một bộ phận của tự nhiên. Con người khơng thể tồn tại
mà thốt ly khỏi q trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi. Trải qua
hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó được
chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của Đacuyn. Những thuộc tính,
những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác
nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.

Mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con
người . Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới lồi vật là
mặt xã hội. Thơng qua hoạt động lao động sản xuất con người sản xuất ra của
cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển
ngơn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình thành nhân
cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. “Người là giống vật duy nhất có thể
bằng lao động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” 5.

5 C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 673.

10


Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành
và phát triển của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác
nhau nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống
nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã
hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về
sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở,
nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu
hưởng thụ các giá trị tinh thần.

Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với loài vật.
Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên- xã hội hay
một thực thể song trùng. Mặt xã hội là bản chất nhất quyết định sự phát triển
của con người.

Tóm lại, để phân biệt giữa con người và con vật con người khác con vật
một số điểm: có lao động, có ý thức và tham gia vào các quan hệ xã hội. Cả ba
điểm này đều mang tính xã hội hoặc xuất phát từ xã hội, trong đó quan hệ xã
hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát mọi hoạt động của con người. nhờ quan
hệ xã hội mà con người làm giàu thêm tri thức của mình và tự cải biến để tách
khỏi thế giới động vật.

b) Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C. Mác đã nêu lên một
cách tổng quát trong luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbach: “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội”6.
Luận điểm trên chỉ rõ: khơng có con người trừu tượng thoát ly khỏi

điều kiện cụ thể, con người luôn tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định.

6 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 11.

11

Nghĩa là con người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã
hội, phát triển ý thức.

Luận điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử nghiên cứu con người,
bản chất con người, cụ thể nó được biểu hiện trên các góc độ sau:

Thứ nhất, Tính quyết định xã hội đối với bản chất con người phải đặt
trong mối quan hệ tương tác giữa cá nhân và xã hội, thơng qua sự tương tác
tổng hịa các quan hệ xã hội: khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay
muộn bản chất con người cũng có sự thay đổi. Bản chất con người khơng có
tính cố định, bất biến. Bản chất con người được qui định bởi tất cả các mối
quan hệ xã hội, tức là bị qui định bởi mối quan hệ giữa người với người. Đó
là các quan hệ giữa người với người ở một hình thái kinh tế xã hội đã bỏ qua,
ở hình thái kinh tế - xã hội đương đại, ở một ý nghĩa nào đó là quan hệ giữa
người với người theo định tính, theo mục tiêu lý tưởng. Đó là các mối quan hệ
về vật chất, quan hệ về tinh thần giữa người với người. Quan hệ giữa người
với người trong xã hội đương đại qui định bản chất của con người thì suy đến
cùng quan hệ vật chất, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định
nhất.

Thứ hai, Con người sống trong xã hội chịu sự chi phối của môi trường
tự nhiên và xã hội theo những quy luật nhất định. Môi trường tự nhiên (quy
luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, về q trình biến dị và di
truyền, về sự tiến hóa), mơi trường xã hội (có các quy luật về tâm lý, ý thức,

tư tưởng tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí). Từ đó Triết học Mác - LêNin
khẳng định: khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh
lịch sử xã hội. Đó là những con người cụ thể, sống trong những điều kiện cụ
thể là thành viên của một cộng đồng một giai cấp nhất định. Đồng thời muốn
lý giải con người, phải đặt con người vào những điều kiện lịch sử nhất định và
trong quan hệ xã hội để quan sát. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Chỉ trong
tồn bộ mối quan hệ đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ

12

chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội) con người mới bộc lộ
tồn bộ bản chất của mình. Thơng qua lao động và quan hệ xã hội con người
tạo dấu ấn của mình trong xã hội thể hiện trong các giá trị xã hội.

Cụ thể: Con người là một thực thể có sự thống nhất giữa tính nhân loại
và tính giai cấp.

Trước hết, con người mang tính nhân loại. Đây là thuộc tính vốn có
hình thành trong suốt chiều sâu lịch sử của cuộc sống cộng đồng phổ biến
rộng lớn nhất. Tính nhân loại thể hiện trong thuộc tính chung nhất, cao nhất
của con người là sáng tạo và trong những giá trị văn hoá chung mà nhân loại
đạt được. Tính nhân loại cịn được thể hiện trong những quy tắc chuẩn mực
của cuộc sống chung được hình thành như những đạo lý. Tính nhân loại thể
hiện trong những giá trị chung mà con người quan tâm như nhân văn, nhân
đạo, dân chủ, công bằng xã hội, hồ bình, bảo vệ mơi trường sinh thái. Cơ sở
của tính nhân loại là từ bản chất xã hội của con người, do yêu cầu khách quan
của cuộc sống cộng đồng mà con người phải cố kết, nương tựa vào nhau để
tồn tại và phát triển. Theo Mác: “xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác
động qua lại giữa những con người”7. Chính vì điều này mà tạo nên xã hội

loài người với những yếu tố của riêng vốn có.

Mặt khác, trong xã hội có giai cấp, con người bao giờ cũng mang tính
giai cấp. Mỗi người là một thành viên của một giai cấp nhất định, mang địa vị
kinh tế - xã hội của giai cấp đó. Địa vị kinh tế - xã hội có tính khách quan, do
toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất quy định, mặc dù mỗi thành viên giai cấp
có thể ý thức được hoặc không ý thức được địa vị của mình.

Tính giai cấp và tính nhân loại trong con người vừa đồng nhất vừa khác
biệt. Bởi vì, con người tồn tại thơng qua những cá nhân hiện thực với tư cách
là các chủ thể hành động xã hội. Tính nhân loại tồn tại vĩnh hằng. Mặc dù trật
tự kinh tế, chính trị, xã hội có thể bị thay đổi, nhưng con người ln tồn tại và
phát triển trong mối liên hệ tất yếu với người khác; khai thác sự phong phú

7 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.27, tr. 657.

13

của người khác để tồn tại và làm phong phú cho bản thân mình. Mặt khác,
trong xã hội còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ đối kháng giai
cấp thì con người cịn mang tính giai cấp. Các giai cấp và các hệ thống xã hội
tương ứng vẫn là chủ thể chủ yếu của xã hội hiện thực. Không bao giờ có một
“lợi ích nhân loại thuần khiết”, mà nó phải được phản ánh trong nhận thức,
trong hoạt động thực tiễn khơng tách rời lợi ích các giai cấp.

Thứ ba, Bản chất con người phải đặt trong quan hệ đồng loại (cộng
đồng) với cá nhân trong đó mặt cộng đồng có xu hướng xích lại gần hơn. Con
người hồ nhập vào cộng đồng, mang bản chất của nó vào và thể hiện bản sắc
của nó. Hồ nhập vào cộng đồng khơng có nghĩa là đánh mất bản sắc cá nhân
mà ngược lại củng cố thêm bản sắc cá nhân. Khi đề cập tới yếu tố cộng đồng

thì cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp là những cộng đồng cơ bản nhất chi
phối con người. Nhấn mạnh vấn đề trên khơng có nghĩa là bỏ qua cộng đồng
nhân loại, cộng đồng người.

Thứ tư, Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời
đại. Con người luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện
sinh hoạt tinh thần của thời đại. Thời đại nào có con người ấy. Tuy nhiên
không được quá nhấn mạnh, đi đến chỗ tuyệt đối hoá thực tế của con người
trong những điều kiện nhất định sẽ dẫn tới sai lầm vì khơng thể giải thích nổi
những hiện tượng phức tạp của đời sống xã hội.

Tuy nhiên luận đề khẳng định bản chất con người của Mác không có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên của con người. Trái lại luận đề trên muốn
nhấn mạnh sự khác biệt giữa con người và loài vật trước hết là ở bản chất xã
hội của con người. Mặt khác cũng chỉ rõ sự biểu hiện phong phú ở mỗi cá
nhân về phong cách, nhu cầu, lợi ích trong cộng đồng xã hội.

Như vậy, bản chất con người không phải được sinh ra mà được sinh
thành, nó hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi các quan hệ
xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực
kinh tế.

14

3. Quan điểm của triết học Mác – LêNin về vai trò của con người
Triết học Mác – LêNin đã khẳng định, con người vừa là sản phẩm của
lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
Con người với tư cách là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất con
người không ngừng sáng tạo ra các phương pháp sản xuất khác nhau để
không ngừng phát triển hiệu quả, hiệu xuất lao động. mặt khac, hoạt động của

con người đã được lịch sử chi nhận hay con người làm ra lịch sử nên để có
lịch sử trước tiên phải có con người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại
của những cá nhân con người sống, vì vậy, hành động lịch sử đầu tiên là hành
động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật. Con người tách khỏi
động vật như thế nào thì họ bước vào lịch sử như vậy.
Là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, con người là yếu tố hàng
đầu đóng vai trị quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, là chủ
thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xã hội. Trong quá trình tham gia hoạt
động của mình, con người với trình độ và năng lực của mình đã chuyển biến
những tri thức trong đầu óc thành những của cải vật chất thông qua việc tác
động cải biến hiện thực khách quan, thể hiện rõ nhất là trong hoạt động lao
động sản xuất. Vai trò của con người gắn liền với trình độ phát triển sản xuất
xã hội. Con người là một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất. Con
người với tri thức và kinh nghiệm lao động là yếu tố quyết định đến trình độ
phát triển sản xuất xã hội. Vì vậy trình độ phát triển của con người trong từng
giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội sẽ được thể hiện thông qua trình độ
phát triển sản xuất xã hội.
Việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ đó khơng những giúp con
người phát triển với phương diện cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển của
xã hội loài người Con người phát huy vai trị của mình thơng qua giải quyết
quan hệ tất yếu trong xã hội. Con người là chủ thể tạo nên lịch sử loài người
mà cụ thể là chủ thể của các quan hệ và giao lưu. Con người là chủ thể cuả
các mối quan hệ người với chính mình, mối quan hệ giữa người với tự nhiên,

15

mối quan hệ giữa con người với xã hội và quan hệ giữa người với lịch sử.
Khắc phục sự tha hóa là điều kiện phát huy vai trò nhân tố con người. Theo
triết học Mac – LêNin khẳng định Lao động bị tha hóa là lao động làm người
lao động đánh mất mình trong “hoạt động người” nhưng lại tìm thấy mình

“hoạt động vật” và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tha hóa là chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất. Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa
bỏ tha hóa để con người trở về với chính mình.

Tóm lại, nghiên cứu về con người, bản chất con người từ trước đến
nay chỉ có chủ nghĩa Mác-LêNin mới tạo ra sự khác biệt lớn lao không những
vạch ra hướng nghiên cứu về con người mà còn thể hiện bản chất cách mạng
và nhân văn là giải phóng con người khỏi áp bức bất công, là học thuyết khoa
học và tiến bộ nhất. Một hệ thống lý luận hoàn chỉnh trên cơ sở biện chứng
duy vật về bản chất quy luật tồn tại, vận động và phát triển của thế giới. Đó là
sự kế thừa, kết tinh và phát triển mọi tinh hoa trí tuệ lồi người và thực tế nó
vượt xa cả hệ tư tưởng và tôn giáo trong lịch sử về mọi mặt: về hệ thống lý
luận, về khả năng phản ánh cũng như cải tạo thế giới. Cho nên nó là thế giới
quan và phương pháp luận khoa học cho nhận thức, tư duy và hoạt động của
con người, là kim chỉ nam nguyên tắc hàng đầu cho các khoa học nghiên cứu
về con người. Con người trong triết học Mác là con người cụ thể sống và hoạt
động trong một điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Bản chất của con người
mang tính xã hội, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, giá
trị xã hội mà con người có được là thơng qua xã hội và đó chính là bộ mặt xã
hội của con người.

Vốn quý nhất trên mặt đất là con người vì vậy Giải phóng con người là
vấn đề cao nhất trong chủ nghĩa Mác-LêNin giải phóng con người khỏi tình
trạng người bóc lột người, phát triển con người trở thành con người phát triển
hài hịa và tồn diện. Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của lịch sử,
con người sống và hoạt động trong một thời đại nhất định, một xã hội nhất

16

định vì vậy sự phát triển của cá nhân sẽ góp phần tạo nên sự phát triển của xã

hội, thúc đẩy sự phát triển lịch sử loài người.

III. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.

Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang thực hiện cơng cuộc đổi
mới tồn diện trên tất các lĩnh vực, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì vấn đề
con người, phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề đặc biệt quan trọng, được
quan tâm hơn bao giờ hết bởi vì nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia, trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một
thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia, để chúng ta có đủ nguồn
nhân lực, có những con người có trình độ, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
hồn thành cơng cuộc đổi mới đất nước xây dựng thành cơng CNXH ở nước
ta. Chính vì vậy chúng ta phải nắm chắc quan điểm của chủ nghĩa Mác –
LêNin về vấn đề con người, trung thành và vận dụng sáng tạo trong phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện tốt mục tiêu trên theo tôi
chúng ta cần phải hiểu, nắm chắc và làm tốt một số vấn đề sau.

1. Đặc điểm hình thành con người Việt Nam trong lịch sử.
Với chiều dài lịch sử hơn 4000 năm và bề dày truyền thống dựng nước
đi đôi với giữ nước cùng với một nền văn minh lúa nước, đất nước ta có điều
kiện địa lý riêng nên con người Việt Nam sớm có thói quen chịu đựng gian
khổ, siêng năng, chịu khó nhưng trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, mang
tính tự cung, tự cấp nên năng xuất lao động thấp, là cơ sở hình thành xã hội
nơng nghiệp truyền thống với đơn vị hạt nhân là “làng”. Làng chính là thực
thể “kinh tế – xã hội – chính trị - văn hóa” thu nhỏ của xã hội. Chính nền văn
minh này đã quy định, tác động và ảnh hưởng đến việc hình thành và phát
triển tâm lý, tình cảm, tính cách, tư duy và lối sống của con người Việt Nam

truyền thống.

17

Ngay từ khi dựng nước dân tộc ta đã phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh,
trong lịch sử chúng ta phải đương đầu với nhiều kẻ thù lớn để bảo vệ đất
nước, q trình đó đã hun đúc lên truyền thống yêu nước nồng nàn, đoàn kết,
tương thân, tương ái, trọng nghĩa tình…, truyền thống đó cùng với ý chí quật
cường và nghệ thuật đánh giặc tài ba của ông cha ta, chúng ta đã đánh bại bè
lũ giặc ngoại xâm. Nền văn hóa của nước ta là nền văn hóa lâu đời giàu bản
sắc truyền thống được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm thăng trầm
với nhiều cuộc giao lưu văn hóa thế giới. Trong tất cả các cc giao lưu văn
hóa ấy, nền văn hóa Việt Nam khơng chỉ giữ gìn, phát huy được bản sắc văn
hóa của mình mà cịn tiếp thu làm giàu hơn, tinh hoa hơn, phong phú hơn
những tinh hoa văn hóa của mình. Đến thế kỷ thứ XX, Chủ nghĩa Mác –
LêNin được truyền bá vào Việt Nam trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hoạt động của con người và dân tộc Việt Nam, đồng thời là điều kiện và
tiền đề cho sự phát triển con người và xã hội Việt Nam hiện đại.

Như vậy từ điều kiện địa lý, nền văn minh lúa nước, truyền thống dựng
nước đi đôi với giữ nước chống giắc ngoại xâm, nền văn hóa lâu đời giàu bản
sắc dân tộc cùng với tinh hoa văn hóa nhân loại và giá trị cách mạng, khoa học,
nhân văn của chủ nghĩa Mác – LêNin là cơ sở hình thành con người Việt Nam
từ truyền thống đến hiện đại. Từ đó chúng ta có thể rút ra những ưu điểm và
hạn chế chung nổi bật của con người Việt Nam được hình thành trong lịch sử
làm cơ sở để phát huy nhân tố con người phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước và công cuộc đổi mới hiện nay.

2. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.
Để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay đầu tiên chúng phải

hiểu rõ khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
a) Khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
- Khái niệm nguồn nhân lực.
Nguồn lực là tổng hợp tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần đang và
sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

18

Nguồn nhân lực là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động, có những
phẩm chất nhất định (sức khỏe, học vấn, chun mơn, chính trị, đạo đức, kỹ
năng hoạt động, kinh nghiệm…) đang và sẽ tham ra vào quá trình phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước.

- Khái niệm phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển, tạo ra sự tăng
trưởng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực; đồng thời
không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng chúng để đáp ứng tốt hơn sự phát
triển của đất nước.
Ở nước ta hiện nay Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi
con người là trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hội nhập
quốc tế.
Từ Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực (NNL) nhất là NNL chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển NNL với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Đại hội XII của Đảng xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong mười ba định hướng phát triển
lớn để hiện thực hoá mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung quan điểm của Đại hội là

bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về giáo dục và đào tạo.
Đại hội XII khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với tiến bộ khoa học –
công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”.


×