ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 - 1975
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG
VÀ CĂN CỨ HẬU PHƯƠNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP THỜI KỲ 1945-1954
Giảng viên: Ths. Nguyễn Thị Phương
Sinh viên: Phạm Trường Quy
MSSV: 2156110114
Lớp: Lịch sử Đảng - K47
TPHCM, tháng 1 năm 2024
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn đến Ths. Nguyễn Thị Phương -
người đã giảng dạy và truyền đạt học phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1945-1975 đến lớp Lịch sử Đảng K47. Nhờ sự truyền đạt của cô đã giúp bản
thân em tiếp thu được nhiều kiến thức về học phần nói riêng và Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam nói chung. Để em có thể hồn thành tốt bài tiểu luận cuối kỳ
này một phần cũng đến từ những kiến thức mà cô đã truyền dạy cho em trong học
phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1945-1975.
Tuy vậy, kiến thức là vô hạn và việc tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người
cũng có những hạn chế nhất định. Vì thế, khi tiến hành làm bài tiểu luận này
không thể không tránh khỏi những thiếu sót về cả nội dung lẫn hình thức. Cá
nhân em rất mong muốn nhận được sự đánh giá và nhận xét trong bài tiểu luận
cuối kỳ từ cơ. Điều đó giúp em có thể rút được kinh nghiệm cho bản thân không
những trong bài tiểu luận của học phần này mà còn các bài tiểu luận của những
học phần khác.
Lời cuối, em xin chúc cơ và gia đình có một năm mới an khang thịnh vượng,
dồi dào sức khỏe, hi vọng cô sẽ luôn thành công trong sự nghiệp chèo lái sinh
viên đến bến bờ của tri thức. Em xin chân thành cảm ơn cô!
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
PHẦN II. NỘI DUNG 3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3
1.1. Cơ sở lý luận 3
1.1.1. Khái niệm căn cứ địa cách mạng 3
1.1.2. Khái niệm căn cứ hậu phương 4
1.2. Cơ sở thực tiễn 5
1.2.1. Tình hình giữa ta và Pháp trước khi chiến tranh bùng nổ 5
1.2.2. Về vấn đề nhân lực, vật lực và tài lực trong chiến tranh 6
Chương 2. VAI TRÒ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA CÁCH
MẠNG VÀ CĂN CỨ HẬU PHƯƠNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA
8
ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP (1945-1954)
2.1. Về căn cứ địa cách mạng 8
2.1.1. Giai đoạn 1945-1950 8
2.1.2. Giai đoạn 1951-1954 9
2.2. Về hậu phương cách mạng 11
2.2.1. Giai đoạn 1945-1950 11
2.2.2. Giai đoạn 1951-1954 13
Chương 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUA VIỆC XÂY DỰNG CĂN CỨ
ĐỊA CÁCH MẠNG VÀ CĂN CỨ HẬU PHƯƠNG TRONG 15
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)
3.1. Bài học kinh nghiệm về xây dựng căn cứ địa cách mạng 15
3.2. Bài học kinh nghiệm về xây dựng hậu phương cách mạng 15
PHẦN III. KẾT LUẬN 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau khoảng thời gian chiến đấu đầy gian khổ, cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân Việt Nam (1945-1954) đã thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi
này có ý nghĩa to lớn khi đã bảo vệ và phát triển thành quả của cuộc cách
mạng tháng Tám, giải phóng hồn tồn miền Bắc cũng như chấm dứt hoàn
toàn ách thống trị của người Pháp tại Việt Nam.
Thắng lợi này đến từ sức mạnh của tồn Đảng, tồn dân. Đảng ta đã có
những chiến lược, sách lược đúng đắn và sáng tạo để giành thắng lợi sau cùng
trong cuộc chiến tranh dài hơi. Đặc biệt là trong việc xây dựng căn cứ địa cách
mạng và căn cứ hậu phương hậu phương trong kháng chiến. Chính từ quan
điểm của Đảng trong xây dựng căn cứ địa và căn cứ hậu phương cách mạng đã
giữ một vai trị quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cuộc chiến giữa ta
và Pháp từ năm 1945-1954.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), việc xây dựng căn cứ địa
và hậu phương cách mạng theo quan điểm của Đảng đã được thực hiện chặt
chẽ, theo một đường lối đúng đắn, sáng tạo cũng như với nhiều biện pháp có
hiệu quả. Việc giải quyết thành cơng vấn đề căn cứ địa và hậu phương đã góp
phần giải thích vì sao Việt Nam chúng ta đã đánh bại thực dân Pháp hùng
mạnh, có tiềm lực quân sự, kinh tế và khoa học kỹ thuật hùng mạnh bậc nhất
thế giới lúc bấy giờ.
Tìm hiểu cơng tác xây dựng căn cứ địa cách mạng và xây dựng hậu phương
trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954) vừa giúp hiểu sâu sắc hơn về
thắng lợi của quân và dân ta lại vừa cho thấy được ý chí chiến đấu ngoan
cường của nhân dân cũng như sự mưu lược tài tình của Đảng khi đề ra quan
điểm trong cuộc chiến đầy vất vả với kẻ thù. Từ mong muốn có thể tìm hiểu
sâu một phần trong giai đoạn lịch sử của dân tộc nói chung và Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam nói riêng, em đã chọn đề tài “Vai trị của việc xây dựng
căn cứ địa cách mạng và căn cứ hậu phương theo quan điểm của Đảng trong
kháng chiến chống Pháp thời kỳ 1945-1954” làm đề tài trong bài tiểu luận cuối
kỳ của mình.
1
2. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu mà đề tài muốn hướng đến là “vai trò của việc xây dựng
căn cứ địa cách mạng và căn cứ hậu phượng theo quan điểm của Đảng trong
kháng chiến chống Pháp thời kỳ 1945-1954”.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm cho thấy những quan điểm của
Đảng trong việc tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng cho chiến tranh, làm
rõ việc xây dựng, chuẩn bị và dự trữ tiềm lực cho cuộc kháng chiến trên các lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, văn hóa. Đồng thời cũng là chỗ đứng chân cho cách mạng,
là chỗ dựa không chỉ trong xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang mà còn là
chỗ dựa tinh thần từ tiền tuyến cho chiến trường ác liệt. Qua đó, có những tổng
kết và rút ra bài học kinh nghiệm trong vấn đề xây dựng căn cứ địa và căn cứ hậu
phương.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là toàn bộ những nội dung liên quan đến
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nước ta từ năm 1945-1954.
3. Nguồn tư liệu của đề tài
Đề tài đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu, tư liệu khác nhau như sách tham khảo,
chun khảo, tạp chí,... ngồi ra cịn là những bài viết khác nhau về quan điểm
xây dựng căn cứ địa và căn cứ hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
tài liệu Internet,...
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng hai phương pháp nghiên cứu là phương pháp luận và phương
pháp cụ thể. Phương pháp luận: căn cứ vào chủ nghĩa duy vật biến chứng và duy
vật lịch sử để thực hiện việc đánh giá các sự kiện và nhân vật. Phương pháp cụ
thể: tiến hành việc sưu tầm các tài liệu tham khảo, thực hiện thống kê, tập hợp
cũng như phân loại các tư liệu tham khảo bằng những thao tác so sánh, phân tích
đối chiếu và từ đó rút ra được kết luận.
5. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài ba mục lớn là MỞ ĐẦU, NỘI DUNG VÀ KẾT LUẬN thì trong phần
nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò xây dựng căn cứ cách mạng và
căn cứ hậu phương
Chương 2: Vai trò của việc xây dựng căn cứ địa cách mạng và căn cứ địa hậu
2
phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
Chương 3: Bài học kinh nghiệm qua việc xây dựng căn cứ địa cách mạng và
căn cứ hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG CĂN CỨ
ĐỊA CÁCH MẠNG VÀ CĂN CỨ HẬU PHƯƠNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm căn cứ địa cách mạng
Căn cứ địa, hiểu một cách chung nhất thì đó là vùng lãnh thổ và dân cư do lực
lượng cách mạng làm chủ, tương đối an tồn (có thể là vùng tự do hoặc căn cứ du
kích đã được xây dựng, củng cố vững chắc); nơi đứng chân và là chỗ dựa của
cách mạng để tích lũy, xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, quân sự, văn hóa,
xã hội,... nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh cách mạng. Để bàn về căn
cứ địa - hậu phương trong chiến tranh, Lênin cho rằng: “Những quân đội lớn
nhất, những quân đội được trang bị tốt nhất đều đã bị tan rã và biến thành tro bụi
vì khơng có hậu phương vững chắc, khơng có sự ủng hộ và sự đồng tình của
nhân dân lao động” [1,tr.372]
Với Đảng, Đảng ta quan điểm về căn cứ địa chính là hậu phương trực tiếp và
tại chỗ của chiến tranh cách mạng. “Căn cứ địa cách mạng là những vùng giải
phóng xuất hiện trong vịng vây của địch, cách mạng dựa vào đó để tích luỹ và
phát triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo thành những trận địa vững chắc về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hố, lấy đó làm nơi xuất phát để mở rộng dần ra,
cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hồn tồn đất nước. Căn
cứ địa là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang cách mạng, trên ý
nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh cách mạng” [19]
Để có thể xây dựng một căn cứ địa cách mạng thì cần đảm bảo được 4 điều
kiện sau:
- Thứ nhất là điều kiện về địa lý: xây dựng căn cứ địa phải ở nơi có địa thế, địa
hình hiểm trở, vừa gây khó khăn cho quân địch vừa có thể che chở quân ta ẩn
nấp “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Đặc biệt là dễ dàng trong cả phòng thủ
3
lẫn tấn công.
- Thứ hai là điều kiện về quân sự: vị trí của căn cứ địa khơng xa những nơi nhất
định địch đóng quân hoặc qua lại.
- Thứ ba là điều kiện về kinh tế: xây dựng căn cứ địa ở vị trí có thể cung cấp
lương thực cho bộ đội sống, mặc dù bị quân địch vây hãm.
- Cuối cùng là điều kiện chính trị: đây là điều kiện quan trọng nhất trong việc xây
dựng căn cứ địa khi có thể giúp đỡ bộ đội kháng chiến về mọi mặt và tổ chức
cách mạng của quần chúng mạnh.
Ngồi những căn cứ địa cách mạng đã có sẵn, cũng có các xã ấp chưa được
hồn tồn giải phóng hay các khu vực đã được giải phóng để du kích cách mạng
đứng chân. Đây được xem là những căn cứ lõm, ăn sâu hay nằm giữa vùng chiếm
đóng của kẻ thù. Có khi cịn được gọi là lõm du kích hoặc căn cứ du kích.
1.1.2. Khái niệm căn cứ hậu phương cách mạng
Hậu phương hiểu theo nghĩa hẹp: “là nơi đối xứng với tiền tuyến, có sự phân
biệt rạch rịi bằng yếu tố khơng gian, là lãnh thổ ngồi vùng chiến sự, có dân
cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật lực. Là nơi xây dựng và huy
động sức người, sức của đáp ứng nhu cầu của lực lượng vũ trang ngoài tiền
tuyến” [2 ,tr.231].
Theo nghĩa rộng thì hậu phương là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh cách
mạng, là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của cuộc chiến tranh trên tất cả lĩnh
vực chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa, khoa học kĩ thuật, cũng là nơi cung
cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, khơng phân biệt rạch rịi với tiền tuyến
về mặt khơng gian.
Ăngghen đã viết “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân
đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật
chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí,
nghĩa là vào chất lượng và số lượng của cả cư dân và của cả kĩ thuật”
[3,tr.242].
Cịn Lênin cho rằng: “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn,
ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì
người đó thu được thắng lợi” [4, tr.84].
Với Đảng ta, đã hết sức coi trong vấn đề xây dựng căn cứ hậu phương, xem
4
căn cứ hậu phương là nhân tố quan trọng quyết định đến thắng lợi sau cùng
của cuộc kháng chiến với Pháp. Đảng đã nhận thực được việc phải tiến hành
xây dựng hậu phương trong kháng chiến, xem hậu phương là một bộ phân
chiến lược của đường lối chiến tranh nhân dân, giải quyết được vấn đề tìm lực
để đưa cuộc kháng chiến trường kì, lâu dài. Trong suốt từ năm 1945-1954,
Đảng củng cố xây dựng và phát triển hậu phương cách mạng, từ đó tạo “nơi
đứng chân” vững chắc cho cách mạng, đem lại sức mạnh to lớn để giành thắng
lợi trước thực dân Pháp hùng mạnh.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình giữa ta và Pháp trước khi chiến tranh bùng nổ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ, nhân dân ta đã giành
quyền làm chủ dân tộc và được hưởng quyền lợi từ chính quyền cách mạng
mang lại. Đất nước ta bước và giai đoạn mới, nhân dân phấn khởi và ngày
càng gắn bó chặt chẽ với chế độ. Thêm vào đó, Cách mạng nước ta có Đảng
mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo ngày càng hồn tiện và vững
mạnh, cộng hưởng vớ sự hình thành của hệ thống XHCN trên thế giới và sự
phát triển của phong trào cách mạng, phong trào đấu tranh vì hịa bình ở nhiều
quốc gia trên thế giới, dân chủ phát triển ở các quốc gia tư bản khác.
Ngày 6/1/1946, Đảng và Chính phủ tiến hành cuộc tổng tuyển cử tự do dân
chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm đập tan đi sự xuyên
tạc của kẻ thù và đặc biệt là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân cả nước.
Tuy vậy, nước ta trong khoảng thời gian này cũng đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức sau độc lập với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nước ta vừa
thành lập chưa nhận được sự công nhận của một quốc gia nào trên thế giới;
kinh nghiệm quản lý nhà nước chưa có và một số nơi chính quyền chưa hồn
tồn thuộc về cách mạng; lực lượng vũ trang cịn non trẻ, kinh nghiệm chiến
đấu ít ỏi, vũ khi cịn thơ sơ; nền kinh tế quốc dân cực kỳ tham hại khi bị những
chính sách vơ vét bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp đè nén; cơng
nghiệp đình đốn, ngoại thương đình trệ, thủ cơng nghiệp hồn tồn phá sản,
hàng hóa trong nước vô cùng khan hiếm dẫn đến nhiều công nhân nước ta
khơng có việc làm, 1/10 dân số nước ta đã chết vì đói và dịch bệnh hồnh
5
hành; kho bạc chỉ có 1,3 triệu đồng trong đó một nửa là tiền hào, giấy nát đang
chờ được hủy, thị trường tài chính càng lúc càng rối loạn; đặc biệt nước ta có
đến 95% dân số hồn tồn mù chữ đến từ chính sách ngu dân của người Pháp.
Thêm vào đó, nước ta bị chủ nghĩa đế quốc bao vây hoàn toàn. Trong miền
Nam, Pháp được Anh giúp đỡ, ngày 23 tháng 9 năm 1945 đã đánh Sài Gịn sau
đó là Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngoài miền Bắc, với sự giúp sức của người
Mỹ, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc vào nước ta với danh nghĩa là giải giáp
quân Nhật thất bại nhưng mặt trái là muốn đè nén cách mạng và lập nên chính
quyền tay sai của chíng ở nước ta. Cùng với đó, nhiều tổ chức Đảng phái,
chính trị thân Pháp, Nhật hay bọn phản động tay sai đã ngoi lên khi Pháp quay
trở lại xâm lược nước ta để làm tay sai cho thực dân Pháp.
Những khó khăn trên buộc Đảng và chính quyền phải giữ vững được chính
quyền cách mạng nước ta, bảo vệ và xây dựng chế độ mới. Bên cạnh đó cũng
tiến hành giải quyết những khó khăn mà nước ta đã và đang gặp phải.
Về thực dân Pháp, Pháp vẫn chưa từ bỏ ý định xâm lược Việt Nam thêm một
lần nữa dù Việt Nam đã giành được độc lập từ cách mạng tháng 8 thắng lợi.
Nhận được sự giúp đỡ của quân Anh, người Pháp liên tục có nhiều hành động
gây hấn với cách mạng và theo quy định của hội nghị Ianta năm 1945, Pháp
được phép quay trở lại Đông Dương.
=> Có thể thấy rằng, ngồi những thuận lợi sau khi giành được độc lập thì Việt
Nam chúng ta cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Điều đó địi hỏi Đảng,
Chính phủ và tồn thể nhân dân cả nước đồn kết, ra sức đánh đuổi kẻ thù xâm
lược.
1.2.2. Về vấn đề nhân lực, vật lực và tài lực trong chiến tranh
Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi, các giai cấp, tầng lớp yêu
nước nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung ngày càng tin tưởng vào Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tin tưởng và Chính phủ cách mạng, quyết tâm bảo vệ thành
quả Cách mạng tháng 8 thành công. Nhân dân ta từ miền Nam ra tới miền Bắc,
từ miền ngược đến miền xi đồn kết một lịng dưới sự lãnh đạo của Đảng
trước sự xâm lược và phá hoại trở lại của kẻ thù, cùng nhau nhân dân đã hăng
hái tham gia Mặt trận Việt Minh - mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng Cộng
6
sản Việt Nam lãnh đạo. Thêm vào đó, các hội cứu quốc như: thanh niên cứu
quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, công nhân cứu quốc,... phát triển
vô cùng mạnh mẽ, từ đó khối liên minh cơng nơng do giai cấp công nhân lãnh
đạo được củng cố vững chắc, trở thành nền tảng của mặt trận. Đây cũng được
xem là lực lượng chính trị phát triển rộng khắp trong và sau cuộc Tổng khởi
nghĩa, lực lượng ấy đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền
nhân, bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Đây vừa là cơ sở để xây dựng, phát
triển lực lượng cách mạng, vừa là nền tảng để hình thành, phát triển lực lượng
vũ trang nhân dân và vũ trang toàn dân.
Đảng và Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách nhằm mục làm tiền đề
để xây dựng căn cứ địa cách mạng và căn cứ hậu phương cách mạng vững
chắc: tiến hành tăng gia sản xuất như chiến đấu, chống đói, chống giặc ngoại
xâm; cuối năm 1945, nhân dân ta đã bỏ ra 4 triệu ngày công, đào đắp 2,72
triệu mét khối đất bổ trợ cho hàng trăm kilơmet đê điều, đầy lùi nạn lụt; diện
tích trồng lúa mở rộng gấp rưỡi, diện tích trồng khoai lang tăng gấp ba, số
khoai thu hoạch tăng gấp bốn, diện tích trồng ngơ tăng gấp năm, số ngơ thu
hoạch tăng gấp bốn lần so với năm 1943; từ năm 1938 đến năm 1943 trung
bình mỗi năm miền Bắc sản xuất được 65.400 tấn khoai lang, 56.000 tấn ngô,
26.000 tấn đỗ tương, nhưng từ sau cách mạng tháng Tám đến đầu năm 1946,
miền Bắc đã thu hoạch được 231.000 tấn khoai lang, 224.000 tấn ngô, 64.000
tán đỗ tương. [31] Về tài chính, thực hiện “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”
được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng, chỉ trong thời gian ngắn tầng lớp nhân
dân đã đóng góp được hơn 350kg vàng và hơn 20 triệu đồng; số vàng và tiền
được nhân dân đóng góp tuy khơng lớn so với nhu cầu cần chi tiêu nhưng phần
nào đã giải quyết được những khó khăn trước, nhất là việc ni dưỡng, xây
dựng và củng cố trang thiết bị cho căn cứ địa đang xây dựng và phát triển.
Ngoài ra, cùng với nhân dân thì Đảng và Nhà nước cũng đưa ra những chủ
trương, biện pháp để bồi dưỡng sức dân như giảm tô 25%, bãi bỏ hay sửa lại
các thứ thuế, tiến hành phát hành giấy bạc Việt Nam hay ban hành sắc lệnh
“Đảm phụ quốc phịng”,... Song song với đó, những chính sách trên các lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, y tế cũng được thực hiện tốt, là cơ sở cho việc xây
dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương cách mạng thắng lợi.
7
Chương 2: VAI TRÒ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA CÁCH
MẠNG VÀ CĂN CỨ HẬU PHƯƠNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)
2.1. Về căn cứ địa cách mạng
Ngay từ đầu kháng chiến Đảng đã xác định căn cứ địa của cuộc kháng chiến
vừa được xây dựng ở cả đồng bằng và rừng núi, trong đó xây dựng Việt Bắc trở
thành căn cứ địa của cơ quan đầu não, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến toàn
quốc, cũng như việc xây dựng các vùng tự do khác và các căn cứ trong vùng địch
hậu là một quá trình đấu tranh quyết liệt.
2.1.1. Giai đoạn 1945-1950
Thời kỳ 1945-1950 là thời kỳ Đảng triển khai cuộc kháng chiến toàn diện
và tạo cơ sở ban đầu cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đảng Cộng
sản Việt Nam chủ trương tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng ở rừng núi
lẫn đồng bằng, ở phía trước mặt địch lẫn sau lưng kẻ thù. Đảng cũng vạch ra
việc xây dựng căn cứ địa ngay từ đầu cuộc kháng chiến thông qua Hội nghị
Quân sự lần thứ II (tháng 3-1947), Hội nghị cán bộ Trung ương (tháng 4-1947)
và cụ thể nhất trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí
thư Trường Chinh.
Ngay bên trong vùng địch tạm chiếm Đảng đã xây dựng được cơ sở chính trị
duy trì, là nền tảng vững chắc để cuộc kháng chiến lâu dài, trường kì. Lực
lượng vũ trang ngày một trưởng thành, đặc biệt là Dân quân du kích thường
bám dân, bám đất để đánh giặc. Phong nhân dân tham gia kháng chiến ngày
càng sôi nổi, làng xã chiến đấu ngày càng mở rộng, trở thành chỗ đứng chân
thuận lợi cho lực lượng vũ trang cách mạng.
Hơn thế nữa, ta vẫn giữ được quyền làm chủ ở nhiều vùng bị tạm chiếm,
khống chế chính quyền địch như các khu vực núi Voi (An Lão), bắc Thủy
Nguyên (Hải Phòng), nam Yễn Mỹ, bắc Khoái Khâu, bắc Gia Lộc, nam Ninh
Giang... Từ đó trở thành điểm tựa cho lực lượng du kích, đảm bảo lực lượng
cách mạng, bảo vệ nhân dân. Tuy gặp nhiều khó khăn khi thường xuyên chịu
sự uy hiếp của kẻ thù nhưng mọi hoạt động kháng chiến vẫn được an toàn và
đảm bảo.
Ngoài ra, Đảng còn thực hiện chủ trương biến hậu phương của địch thành
8
tiền phương của ta để bước đầu xây dựng căn cứ địa cách mạng, căn cứ du
kích. Đầu năm 1948, Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng nhằm phát triển
lực lượng dân quân, tiến hành chiến tranh du kích khắp nơi. Đến tháng 4 năm
1948, nội dung của Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ II đã nhấn mạnh việc
phát động mạnh mẽ du kích chiến tranh, lập làng chiến đấu ở vùng đồng bằng.
Năm 1949, khi địch triển khai kế hoạch Revers đã làm cơ sở của ta bị tổn thất
nặng nề ở nhiều nơi. Đảng chủ trương đưa cán bộ ở các khu, tỉnh ủy đưa cán
bộ về vùng địch tạm chiếm, tiếp tục bám đất, bám dân để xây dựng cơ sở
nhằm phát động chiến tranh du kích. Đến năm 1950, bất chấp những cuộc càn
quét ác liệt của thực dân Pháp, Đảng vẫn chỉ đạo quân và dân tiếp tục xây
dựng, củng cố làng chiến đấu, tiến lên hình thành thế làng chiến đấu liên hồn,
các căn cứ du kích hay khu du kích. Đảng cũng thêm một lần nữa nhấn mạnh
trong Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ IV rằng việc xây dựng căn cứ địa
cách mạng là nhiệm vụ căn bản và bắt buộc. Việc xây dựng cũng phải gắn liền
với bảo vệ căn cứ địa cách mạng, khu du kích cách mạng.
=> Những quan điểm của Đảng trong việc tạo tiền đề ban đầu cho việc xây
dựng căn cứ địa cách mạng có vai trị quan trọng, giúp đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện được phát huy, các khu du kích và căn cứ địa du kích bước
đầu xuất hiện ngay bên trong vùng địch được chiếm đóng. Tuy đây là lần đầu
tiên Đảng ta lãnh đạo một cuộc chiến tranh nhân dân chống kẻ thù xâm lược
nhưng những đường lối, quan điểm xây dựng căn cứ địa đã tạo đủ điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời của các căn cứ địa cách mạng, khu du kích, căn cứ du
kích bên trong vùng bị địch tạm chiếm. Việc triển khai như vậy cịn góp phần
làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của người Pháp, biến miền
Bắc Việt Nam trở thành một chiến trường du kích sơi động trong những năm
tiếp theo của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của các địa phương.
2.1.2. Giai đoạn 1951-1954
Giai đoạn từ năm 1951-1954 được xem như là sự chuyển biến mới trong
quan điểm của Đảng về việc xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong Hội nghị
lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1951) đã nhấn mạnh công tác
xây dựng căn cứ cách mạng bên trong vùng bị địch tạm chiếm và cùng du kích
là hết sức quan trọng. Đảng chủ trương ra Nghị quyết về phương châm công
9
tác và nhiệm vụ công tác trong vùng tạm chiếm lẫn vùng du kích.
Trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 1951 đến tháng 2 năm 1952, quân
ta liên tục đánh vào địch ở Hịa Bình và mở hàng loạt các căn cứ địa, khu du
kích, căn cứ du kích với tổng diện tích hơn 4500km2. Căn cứ du kích bao gồm
109 xã và 842 thơn, khu du kích gồm 163 xã và 14640 thơn với số dân lên tới
hơn 3 triệu người [5, tr.16]. Chi bộ Đảng ở các địa phương nhân sự chỉ đạo từ
Trung ương Đảng cũng thực hiện lãnh đạo nhân dân xây dựng và củng cố căn
cứ địa về mọi mặt dựa vào nội dung kháng chiến tồn diện. Từ đó làm phạm vi
đóng quân của địch bị thu hẹp lại đáng kể, tạo nên điều kiện thuận lợi để cơ
bản đẩy mạnh chiến tranh du kích ở địch hậu, giúp khả năng chiến thắng kẻ
thù của nhân dân ta từng bước lớn mạnh.
Hơn thế nữa, quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ này là tiếp tục Phát triển
và củng cố các vùng du kích và căn cứ du kích, tích cực chuẩn bị chống
giặc càng quét, xác định 10 phương chân lớn của kế hoạch cũng cố các
vùng du kích, căn cứ du kích và căn cứ địa cách mạng [5, tr,16]. Tuy phải
chịu nhiều hy sinh từ các cuộc càn quét của kẻ thù nhưng cơ bản ta cũng đã
củng cố được cơ sở cách mạng và căn cứ địa.
Từ giữa năm 1952 đến hè năm 1953, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh xây
dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Thời gian này là khoảng thời gian cuối
của cuộc kháng chiến chống Pháp, các lực lượng vũ trang của ta chủ động tiến
công địch bằng nhiều hình thức khác nhau, mở rộng căn cứ địa, đẩy mạnh xây
dựng cơ sở trong vùng bị tạm chiếm. Tháng 1 năm 1953, trong Hôị nghị lần
thứ IV của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu rõ: “cần chủ trương phát
triển căn cứ địa cách mạng, chống càn quét để củng cố và mở rộng vùng du
kích và căn cứ du kích” [5, tr16]. Từ đó, ta đã củng cố và phát triển mở rộng
thêm được căn cứ ở 44 xã và 794 thôn, vùng tạm chiếm chỉ cịn 225 xã và
1977 thơn, khiến kế hoạch De Lattre de Tassygny hoàn toàn thất bại cũng như
tạo điều kiện thuận lợi tiến đến giành thắng lợi hoàn toàn trên chiến trường [5,
tr16]. Đến khoảng thời gian từ cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-
1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” thì
chủ trương của Đảng về căn cứ địa cách mạng vẫn không thay đổi khi vẫn cố
gắng xây dựng và củng cố phát triển căn cứ địa và thu hẹp vùng bị tạm chiếm.
10
=> Nửa sau của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1951-1954), quan
điểm của Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng vừa mang tính bảo vệ vừa
mở ra phương hướng mới cho cuộc chiến tranh của nhân dân. Việc thực hiện
xây dựng căn cứ địa trong thời kỳ này giúp phát triển các đoàn thể quần chúng,
tăng cường lực lượng dân quân du kích, đặt cơ sở vững chắc và thống nhất các
căn cứ với nhau. Ngoài ra còn biến hậu phương của địch thành hậu phương
của ta, thu hẹp dần phạm vi chiếm đóng của địch, hình thành nên thế và lực
mạnh mẽ để giành thắng lợi hoàn toàn trên chiến trường.
2.2. Về hậu phương cách mạng
2.2.1. Giai đoạn 1945-1950
Theo chủ trương của Đảng trong thời kỳ này, nhân dân cả nước phải thực
hiện triệt để “Vườn không nhà trống”, tản cư, phá hoại cầu đường, xây
dừng làng kháng chiến. Đây là công tác lớn khi đã có hàng triệu đồng bào
trong đó có cả những nhân sĩ, trí thứ nổi tiếng đi theo tiếng gọi của Hồ Chủ
tịch và Đảng, Chính phủ đã bỏ lại tài sản, nhà cửa của mình để khơng chịu hợp
tác với giặc, tản cư ra các vùng tự do. Việc Đảng quyết tâm thực hiện chủ
trương này có vai trò thể hiện sự quyết tâm sắt đá thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Đảng tiếp tục đề chủ trương là phải xây dựng chính quyền vững mạnh khi
vạch ra đường lối cơ bản trong Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của Chủ
tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và Chỉ thị toàn dân kháng chiến (22/12/1946)
của Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Các văn kiện trên vạch rõ mục đích,
tính chất của cuộc kháng chiến là tồn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh
sinh.
Về chính trị: Đồn kết tồn dân, thực hiện qn, chính, dân nhất trí, động
viên nhân lực, vật lực, tài lực, đoàn kết với hai dân tộc Lào và Campuchia, với
nhân dân Pháp và các nước ở Châu Á và các dân tộc bị áp bức, các dân tộc yêu
chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới, củng cố chế độ cộng hịa dân chủ, đánh
đổ chính quyền bù nhìn, lập ra ủy ban kháng chiến các cấp để chỉ đạo kháng
chiến. [6, tr.24]
Về quân sự: triệt để dùng “du kích vận động chiến” thực hành phá hoại “làm
cho địch đói, khát, mù, điếc, câm, tiêu hao, mệt mỏi, chán nản”, tản cư nhân
11
dân ra khỏi vùng có chiến sự, vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, cuộc
kháng chiến phải trải qua ba giai đoạn: phịng ngự, cầm cự và tổng phản cơng.
[6, tr.24]
Về văn hóa: chống nạn mù chữ, thực hiện cần kiệm, liêm chính, văn nghệ sĩ
ủng hộ kháng chiến. [6, tr.24]
Theo chủ trương của Trung ương Đảng, trong thời gian này các đảng bộ
phát triển nhanh về số lượng đảng viên và tổ chức của đảng nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao về cán bộ và về sự lãnh đạo. Các đảng bộ cũng đề ra
nhiều biện pháp nhằm tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ
chức cơ sở Đảng. Nghị quyết của các kì đại hội nêu rõ: “Về chính trị: Thống
nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, đẩy mạnh cơng tác giáo vận, tích cực
tun truyền vận động cách mạng trong đồng bào các dân tộc thiểu số, xây
dựng khối đồn kết tồn dân, củng cố chính quyền…” [7,tr.36]
Về vấn đề xây dựng nền kinh tế kháng chiến, Theo quan điểm của Đảng,
phương hướng xây dựng kinh tế phát triển sản xuất trong kháng chiến là
chú trọng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và cơng nghiệp
quốc phịng. Khuyến khích hình thức kinh tế cá nhân, kinh tế hợp tác xã và
kinh tế nhà nước. Các đảng bộ, chính quyền các cấp đã quán triệt tinh thần chỉ
đạo của Trung ương bằng các khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế
tự túc”, “Tiến tới toàn quốc tự cấp, tự túc, địa phương tự lập”, “Nhân dân tiếp
tế cho bộ đội tác chiến, bộ đội giúp đỡ nhân dân làm ăn”, “Hết sức thực hành
chính sách tiết kiệm”. [7 ,tr.44] Với phương hướng đó, sau một thời gian tiến
hành tổ chức sắp xếp lại các ngành sản xuất, nhất là việc di chuyển máy móc,
ngun vật liệu đến nơi an tồn, xây dựng các cơng xưởng, xí nghiệp, lập các
trại tăng gia sản xuất, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế kháng chiến
ngày càng phát triển mạnh mẽ và đã thu được nhiều thành tựu. Tạo tiền đề cho
việc xây dựng căn cứ địa cách mạng thành công.
Hậu phương khơng chỉ có kinh tế, chính trị, quân sự mà việc xây dựng hậu
phương theo quan điểm của Đảng cịn chú trọng phát triển văn hóa - giáo dục.
Khẩu hiệu được Đảng và Chính phủ đề ra trong thời kỳ này là: “Gấp rút thanh
toán nạn mù chữ, tiến lên học bổ túc văn hóa”. Từ đó, Nhiều hình thức tổ
chức, nhiều sáng kiến động viên học tập đã nảy sinh trong hoàn cảnh kháng
12
chiến. Ở nhiều địa phương, chính quyền và các đồn thể đặt giải thưởng cho
các gia đình cả nhà biết chữ. Thiếu giấy, đồng bào lấy lá cây, vỏ cây thay thế.
Đến năm 1949 ở 4 tỉnh vùng tự do Liên khu 5 có 1.260.000 người từ 8 tuổi trở
lên thốt nạn mù chữ. Năm 1948 có 83.000 người theo học các lớp dự bị bổ
túc, năm 1949 lên tới 20 vạn. Xã Nghĩa Lâm (Quảng Ngãi) là xã đầu tiên ở
Liên khu 5 xóa nạn mù chữ vào năm 1949. Đến năm 1950 toàn vùng tự do
Liên khu 5 xóa xong nạn mù chữ. Tồn liên khu có 3.000 lớp tiểu học ở các
huyện xã với 140.000 học sinh (nữ chiếm 3%), cứ 1.000 người dân có 90 học
sinh sơ học. Mỗi tỉnh có từ 2-8 trường phổ thơng trung học trung bình 1.000
dân có 4 học sinh trung học (gấp 40 lần thời Pháp thuộc). Việc nâng cao trình
độ văn hóa cho con em và cán bộ dân tộc thiểu số được các cấp đặc biệt quan
tâm. Các huyện, tỉnh và khu đều có trường nội trú dành riêng cho cán bộ,
chiến sĩ có thành tích xuất sắc và con em các dân tộc thiểu số. Riêng trường
nội trú do liên khu tổ chức, năm 1950 có 300 thanh thiếu niên các dân tộc
thiểu số. Trường bổ túc văn hóa của khu có 4 lớp dành cho cán bộ lãnh đạo
cấp khu và tỉnh. [6 ,tr.41] Thêm vào đó, trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ, Đảng
chủ trương đẩy mạnh cơng tác tun truyền, ngồi báo hằng ngày, hằng tuần,
nội san của trung ương, các tỉnh trong vùng tự do còn phát hành báo và nội san
riêng của mình. [6, tr.44]
Về y tế, ngay sau khi CMT8 thành công, Đảng chủ trương xây dựng nền y
tế của nhà nước phục vụ nhân dân, phụ vụ cho cách mạng. Hầu hết số bác sĩ,
dược sĩ tình nguyện tịng qn, hăng hái tham gia kháng chiến phục vụ quân
đội, phục vụ nhân dân. Đảng cũng chủ trương đào tạo cán bộ y tế nhằm phục
vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân.
=> Có thể thấy, vai trị của hậu phương theo quan điểm của Đảng giai đoạn
1945-1950 là xây dựng hậu phương cách mạng phục vụ cho cuộc chiến tranh
trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều đó cho thấy hậu phương trong thời kỳ này
giúp thực hành đời sống mới là một điều kiện cần cho công cuộc cứu quốc và
kiến quốc, tuyên truyền công tác chủ trương của Chính phủ, cổ vũ tinh thần
kháng chiến của quân và dân cũng như làm tiền đề cho chiến trường ác liệt.
2.2.2. Giai đoạn 1951-1954
Giai đoạn 1951-1954 là giai đoạn sau của cuộc chiến tranh cách mạng. Vì
13
thế, vai trò của việc xây dựng hậu phương cách mạng cũng được Đảng hết sức
quan tâm. Trên lĩnh vực kinh tế, từ năm 1951-1952, Đảng chủ trương thực
hiện cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm, bạn hành nhiều sắc lệnh về thuế
nông nghiệp, công thương, xuất nhập khẩu, tiến hành giảm tô, hiến điền, chia
lại công điền công thổ. Trong hai năm 1953 và 1954, Đảng triệt để vấn đề
giảm tô, giảm tức, bước đầu cải cách ruộng đất đề bồi dưỡng sức dân nhằm
phát triển sản xuất củng cố hậu phương. Ngoài ra, Nhà nước cũng tiến hành áp
dụng chính sách kinh tế mới khi Việt Nam vẫn bn bán với địch những thứ
khơng có hại cho ta và đặc biệt là đưa ra nhiều thứ hàng cần cho cuộc kháng
chiến và đời sống của nhân dân. Đặc biệt, khi cuộc kháng chiến dần đi đến hồi
kết, vùng tự do của ta cũng được mở rộng thì Đảng đã thành lập Sở mậu dịch
quốc doanh trung ương. Với lĩnh vực văn hóa - giáo dục, Đảng chú trọng xây
dựng phong trào văn nghệ dân tộc, quần chúng, tiến hành hướng dẫn văn nghệ
sĩ hoạt động theo hướng kháng chiến. Số lượng văn kiện, tác phẩm lý luận,
báo chí, tạp chí, tranh cổ động ngày càng nhiều và có vai trị đáp ứng các u
cầu cần thiết để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Đảng còn thực hiện cải cách
giáo dục với phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ
sản xuất. Thêm vào đó, các phong trào như: bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ
ở miền núi, bổ túc văn hóa cũng liên tục được đẩy mạnh. Về y tế, Đảng yêu
cầu phải chăm lo được sức khỏe của nhân dân, thực hiện đào tạo cán bộ y tế
cho tiền tuyến, hỗ trọ tiền tuyến bất kỳ lúc nào. Ngoài ra, nhiều cán bộ y tế là
nòng cốt cho các phong trào ba sạch, phong tào bốn diệt ở vùng tự do và căn
cứ địa cách mạng
=> Việc xây dựng hậu phương với quan điểm của Đảng trên các lĩnh vực trong
giai đoạn này có vai trị tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động sức người
sức của trong việc chi viện cho tiền tuyến; chuẩn bị trang thiết bị thiết yếu cho
vùng tự do, xây dựng hậu phương cách mạng vững mạnh vừa phục vụ được
cho kháng chiến đi đến hồi kết, vừa dập tắt âm mưu bóp chết hậu phương của
ta. Vai trò của hậu phương cũng cổ vũ cho cuộc kháng chiến, phục vụ cuộc
kháng chiến kiến quốc, góp phần củng cố, ổn định, làm nền tảng cho tiền
tuyến, đặc biệt giúp đẩy nhanh kháng chiến thắng lợi.
Như vậy, theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc kháng
14
chiến chống Pháp, việc xây dựng căn cứ hậu phương có vai trị là chức năng
khâu nối giữa hậu phương và tiền tuyến đánh giặc, xây dựng của cái vật chất
cũng như sức mạnh tinh thần để phục vụ kháng chiến trường kỳ. Xây dựng căn
cứ hậu phương để tập hợp toàn dân, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn, làm kẻ
thù không thể phá vỡ kết cấu vững chắc của sức mạnh ấy. Với Đảng, xây dựng
hậu phương trong kháng chiến chống Pháp cũng là một nhân tố quan trọng để
làm nên thắng lợi sau cùng của cuộc chiến khi là nơi tạo sức mạnh, xây dựng
một lực lượng kháng chiến hùng hậu về mọi mắt và trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quân sự. Hơn thế nữa, vai trò của xây dựng
hậu phương còn là xây dựng một chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân, từng
bước giúp nhân dân làm chủ, đoàn kết và tạo nên sức mạnh dân tộc to lớn.
Chương 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUA VIỆC XÂY DỰNG CĂN CỨ
ĐỊA CÁCH MẠNG VÀ CĂN CỨ HẬU PHƯƠNG TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)
3.1. Bài học kinh nghiệm về xây dựng căn cứ địa cách mạng:
- Một là, kiên trì bám đất, bám dân, dựa vào dân để xây dựng lực lượng kháng
chiến lâu dài.
- Hai là, tiến hành việc đẩy mạnh kháng chiến toàn diện, kết hợp giữ các lực
lượng và hình thức đấu tranh, lấy đấu tranh quân sự là nòng cốt và là chủ yếu
- Ba là, cần kết hợp với bồi dưỡng và khai thác sức dân để làm cho căn cứ địa
cũng như hậu phương của cuộc chiến tranh nhân dân.
- Bốn là, tắng cường xây dựng lực lượng dân quân du kích nhằm hình thành và
phát triển căn cứ địa cách mạng vững chắc.
- Năm là, kết hợp triệt để xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho căn cứ địa, giúp căn cứ địa trở thành “điểm chết” với địch.
3.2. Bài học kinh nghiệm về xây dựng hậu phương cách mạng:
- Thứ nhất, cần phải dựa vào sức dân, tổ chức nhân dân trong việc xây dựng lực
lượng mọi mặt của hậu phương kháng chiến
- Thứ hai, tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng xây dựng, củng cố hậu
phương.
15
- Thứ ba, tiến hành xây dựng được đảng bộ các cấp vững mạnh nhằm hoàn
thành thắng lợi công cuộc xây dựng hậu phương vững mạnh.
- Thứ tư, xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước, phải bám sát những yêu
cầu của cuộc kháng chiến trong mỗi giai đoạn khác nhau để quyết định được mục
tiêu, phương hướng xây dựng hậu phương mà hơn cả là xây dựng lực lượng
chính trị, vũ trang và nền kinh tế cuộc kháng chiến.
- Thứ năm, phải kết hợp chặt chẽ giữ xây dựng hậu phương và bảo vệ hậu
phương.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi đã giải
phóng hồn tồn miền Bắc, tạo thuận lợi cho miền Bắc tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đồng thời giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu
cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Qua đó làm sáng tỏ chân lí: dù là
một dân tộc khơng rộng, dân khơng đơng nhưng nếu quyết tâm, biết đồn kết
chiến đấu với đường lối cách mạng đúng đắn, được sự ủng hộ của quốc tế thì
hồn tồn có khả năng chiến thắng bất kì kẻ thù nào. Thắng lợi đã tiếp thêm
sức mạnh, nguồn cổ vũ lớn lao phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên
thế giới.
Có được thành quả đó là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với
đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, đặc biệt những quan điểm trong
xây dựng căn cứ địa cách mạng xây dựng căn cứ hậu phương của Đảng cộng
sản Đông Dương và sau này là Đảng Lao động Việt Nam. Căn cứ địa cách
mạng và hậu phương cách mạng được tổ chức chặt chẽ theo một đường lối
đúng đắn, sáng tạo và bằng những biện pháp có hiệu quả, đóng vai trị quan
trọng để đi đến thắng lợi sau cùng của cuộc chiến . Vì thế, trước thách thức
đầy ác liệt và căm go của cuộc chiến tranh, hậu phương kháng chiến của ta
được xây dựng, được bảo vệ và ngày càng mở rộng đã phát huy mạnh mẽ vai
trị, tác dụng to lớn, tồn diện, góp phần vào thắng lợi chung của nước nhà.
16