Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

16 bộ đề môn Chính trị học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.4 KB, 69 trang )

Đề 1
Câu 1. Trình bày sự phát triển của các tri thức chính trị trong lịch sử về nguồn gốc của
quyền lực nhà nước và về các mơ hình chính thể.

Nền chính trị đương đại là sản phẩm của quá trình phát triển tri thức, tư duy chính trị
của nhân loại. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, con người sống trong xã hội ln tìm cách trả
lời những câu hỏi rất căn bản như: Quyền lực xã hội (mà căn bản là quyền lực nhà nước) bắt
nguồn từ đâu? Hình thức chính thể nào là tốt nhất? Yếu tố văn hóa liệu có tạo nên sự khác biệt
trong chính trị ở từng quốc gia, từng khu vực khơng? v.v.Từ góc nhìn của chính trị học có thể
thấy, lịch sử phát triển của tri thức chính trị nhân loại có một số nội dung nổi bật: (1) Sự phát
triển nhận thức về nguồn gốc của quyền lực nhà nước: Bước chuyển từ thần quyền sang thế
quyền; (2) Các mơ hình chính thể đi từ quân chủ, quý tộc đến dân chủ; (3) Cơ chế kiểm soát
quyền lực; (4) Sự phát triển nhận thức về nhà nước pháp quyền và (5) Sự phát triển nhận thức
về sự phù hợp giữa yếu tố thể chế với yếu tố văn hóa bản địa.

Chúng ta làm rõ 02 nội dung nổi bật sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển nhận thức về nguồn gốc của quyền lực nhà nước
Từ nhận thức Quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ đấng siêu nhiên: Trong xã hội phong
kiến, sự kết hợp giữa thần quyền và thế quyền đã ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến các
lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và của nhà nước nói riêng. Để củng cố sự thống trị của
mình, giai cấp phong kiến biện hộ rằng quyền lực nhà nước là sản phẩm của Thượng đế, do
Thượng đế trao cho ông Vua, hay Hoàng đế để thay mặt Thượng đế cai quản trần thế. Theo
cách giải thích phổ biến của các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại, quyền lực nhà nước có
nguồn gốc từ đấng siêu nhiên thần thánh, từ trời. Vua là thiên tử, con trời, thay mặt trời để cai
trị thiên hạ. Quyền lực của trời là tuyệt đối và khơng thể nghi ngờ, do đó, sự cai trị của vua
cũng là tuyệt đối. Vua có thể thực thi quyền lực của mình thơng qua bộ máy quan chức do vua
tuyển chọn. Người dân trong xã hội được coi là thần dân, đối tượng của sự cai trị, có nghĩa vụ
phải tuân thủ các mệnh lệnh của vua. Trong lý luận của Nho gia hay Pháp gia đều tuyệt đói
hóa quyền lực của vua, trong mối quan hệ quyền lực giữa vua và tơi, bề tơi có bổn phận phải
trung thành với vua.Ở phương Tây, một số nhà tư tưởng cũng giải thích nguồn gốc của quyền
lực nhà nước theo quan điểm duy tâm. Thomas Aquinas cho rằng, nguồn gốc của quyền lực


nhà nước là từ thượng đế.
Sang nhận thức Quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ trần thế: Con người sinh ra đều tự
do và bình đẳng, có các quyền tự nhiên của mình; Quyền lực chính trị . Quyền lực nhà nước là
của dân, nó có nguồn gốc từ dân; chứ khơng phải từ bên trên hay bên ngồi dân. Để bảo vệ
quyền tự nhiên của mình, các cá nhân trong xã hội cùng nhau ký kết một bản khế ước, hình
thành một quyền lực chung.Quyền lực chính trị- Quyền lực nhà nước phải tập trung, nhưng đi
đơi với nó quyền lực đó phải bị kiểm sốt chặt chẽ.
Chủ nghĩa Mác lý giải quyền lực nhà nước ra đời không phải từ lực lượng siêu nhiên,
cũng không phải từ “khế ước xã hội”, mà ra đời từ nhu cầu giải quyết các mâu thuẫn, xung đột
(trước hết là các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế) khi xã hội phân chia thành các giai
cấp khác nhau. Quyền lực nhà nước có đặc trưng là sử dụng bộ máy cưỡng chế của giai cấp
thống trị. Bộ phận cấu thành quan trọng nhất tạo nên bản chất của quyền lực nhà nước là ý chí
của giai cấp cầm quyền và nó được hiện thực hóa bởi bộ máy nhà nước. Bộ máy này tạo nên
sức mạnh của quyền lực nhà nước. Bản thân bộ máy nhà nước, cùng với pháp luật là những
công cụ thực hiện quyền lực nhà nước. Mục đích của chủ nghĩa Mác là hướng tới xây dựng
một xã hội trong đó khơng cịn nhà nước và quyền lực nhà nước vói tư cách là tổ chức thực
hiện chức năng thống trị giai cấp
Thứ hai, sự phát triển nhận thức về các mơ hình chính thể

Quyền lực chung nên được tổ chức như thế nào? Đây là vấn đề căn bản khi bàn về bản
chất của chính quyền. Bản chất này thể hiện thực chất của quan hệ giữa người cai trị và người
bị cai trị. Từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng phương Tây đã đưa ra các mơ hình chính thể phổ
biến trong lịch sử.

Theo quan điểm của Platon, chính quyền (nhà nước) phải vì lợi ích cộng đồng. Nhà nước
phải khơng vì lợi ích của một người, một nhóm người, một giai cấp riêng biệt, mà nhà nước
phải là nhà nước vì mọi người. Nhà nước phải nằm dưói sự lãnh đạo chuyên quyền của một
(hoặc một số ít) các nhà thông thái và điều hành theo pháp luật.Theo ông, đám đông dù lớn
đến đâu cũng không bao giờ có được tri thức và uy tín chính trị để điều hành nhà nước một
cách thông minh.Trong tác phẩm Luật pháp (The Laws), Platon chia nhà nước ra làm hai loại

với ba kiểu thể chế cho mỗi loại: nhà nước có pháp luật là nhà nước tốt, nhà nước vơ pháp luật
là nhà nước xấu. Trong nhà nước có pháp luật, ơng coi thể chế lý tưởng nhất chính là sự
chuyên quyền, độc tài của một ông vua nhân từ và thơng thái, với phẩm chất ‘Vàng”. Tiếp đó
là nhà nước do một số người cai trị (vì xã hội) và cuối cùng mới là nhà nước do đa số nhân
dân cai trị trực tiếp (thơng qua hình thức ln phiên). Tuy nhiên, ả chiều ngược lại, nếu trong
các nhà nước khơng có pháp luật thì thể chế ít tồi tệ nhất lại là thể chế thuộc về dân chúng, do
dân chúng cai tộ và thể chế tồi tệ nhất là thể chế độc tài (một người cầm quyền vì lợi ích của
bản thân mình). Như vậy, thể chế dân chủ là “tồi tệ nhất trong các nhà nước có pháp luật và
tốt nhất trong các nhà nước khơng có pháp luật”. Theo Platon, dân chủ với nghĩa là đa số dân
chứng cai trị trực tiếp sẽ chỉ tạo nên một nhà nước yếu về mọi mặt, nên nó khơng những
“không làm được điều tốt nhất”, mà cũng không đủ khả năng “làm được điều tồi tệ nhất”, về
cơ bản, ông cổ vũ cho một nhà nước “độc tài thông minh và nhân từ”, nơi mà tài sản và cả ừẻ
em đều thuộc về nhà nước và do nhà nước đảm nhận chăm sóc.

Aristotle không đồng ý với quan điểm về nhà nước lý tưởng của Platon và cho rằng như
vậy là không khả thi và cực đoan, đặc biệt là việc nhà nước sở hữu chung cả tài sản và trẻ em.
Theo Aristotle, nhà nước lý tưởng nhất là nhà nước quân chủ do một ông vua thông minh và
nhân từ cai trị, nhưng trên thực tế khơng có những ơng vua như vậy, nên đó chỉ là lý tưởng
khơng có tính hiện thực. Ngay cả chính thể quý tộc trị, tức là chính thể được cai trị bởi một
nhóm người tốt, ơng cho rằng cũng là quá cao so với hiện thực. Ông lo ngại rằng, trên thực tế
dễ xảy ra tình huống số đông, vốn luôn nghèo, cai ưị và đa. số người nghèo sẽ tước đoạt tài
sản của thiểu số vì lợi ích riêng của đa số.

Vậy đâu là hình thức chính thể tốt nhất trong hiện thực? Aristotle cuối cùng đã đi đến
ủng hộ ý tưởng về dân chủ thành bang (tức polity), nơi mà số đơng cai trị, nhưng vì mục đích
chung (tức là một nền dân chủ tốt thực sự). Trong bối cảnh xã hội lúc đó, hình thức này có thể
coi là nằm giữa chính thể quý tộc/quả đầu với dân chủ mị dân, tức là chính phủ của tầng lớp
trung lưu. Trong đó, giới q tộc và giới bình dân đều khơng nắm trọn quyền mà có sự cạnh
tranh và thay thế nhau. Điều căn bản là chính phủ phải vì lợi ích chung chứ khơng phải vì lợi
ích cùa người đang nắm quyền.


Nói chung có nhiều mơ hình thể chế khác nhau; nhưng các nhà tư tưởng thời kỳ Khai
sáng và Cận đại, bao gồm cả C.Mác đều ủng hộ mơ hình chính thể dân chủ, và cho rằng đó là
mơ hình tốt nhất phù hợp với bản chất con người.

Câu 2. Trình bày quan điểm mác-xít về chính trị.
Chính trị được coi là một trong những lĩnh vực phức tạp và có vai trò đặc biệt quan

trọng trong đời sống của một xã hội có giai cấp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về chính trị,
mỗi cách hiểu sẽ đáp ứng được một mục tiêu nghiên cứu nhất định.Có thể khái quát tư tưởng
chính trị Mác-Lênin về chính trị theo các phương diện sau:

Thứ nhất, Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, đấu tranh giai cấp (đấu tranh giai cấp là
động lực cơ bản của xã hội có giai cấp; mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy là đấu tranh nhằm
giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước cho một giai cấp nhất định); là
việc giải quyết các mối quan hệ giữa các giai cấp và giai tầng xã hội trong việc phân bổ các
lợi ích (đặc biệt là lợi ích kinh tế) thơng qua tổ chức và hoạt động của nhà nước.

Thứ hai, Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và trong những “điều kiện, hồn
cảnh nhất định” thì chính trị khơng thể “khơng giữ vị trí hàng đầu” so với kinh tế: Trong mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, khi quan niệm “chính trị là biểu hiện tập trung
của kinh tế”, “chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại” tức là muốn nói đến tính quyết định
của kinh tế đối với chính trị. Xét đến cùng, kinh tế là yếu tố quyết định sự hình thành, tồn tại,
phát triển của chính trị. Cũng trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, khi
quan niệm “Chính trị khơng thể khơng giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế tức là muốn đề cập
đến tính “độc lập tương đối” của chính trị đối với kinh tế và sự cần thiết “ưu tiên” chính trị so
với kinh tế trong những điều kiện nhất định nào đó. Tính “độc lập tương đối”của chính trị thể
hiện ở chỗ tuy kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị cũng tác động trở lại kinh tế theo
các khuynh hướng: Nếu chính trị đáp ứng các yêu cầu kinh tế khách quan, tác động cùng
chiều và đồng thuận với sự phát triển kinh tế ....khi đó nó sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh

hơn. Nếu chính trị khơng bao hàm trong đó thực trạng, yêu cầu và tính quy định về sự vận
động khách quan của kinh tế; hoặc với tư duy chính trị giáo điều, duy ý chí, phản động, lỗi
thời...thì nó sẽ trở thành lực lượng kìm hảm sự phát triển kinh tế. Sự cần thiết “ưu tiên” chính
trị so với kinh tế nghĩa là trong những trường hợp đặc biệt và trong những hoàn cảnh, điều
kiện lịch sử cụ thể ... nhiều khi phải biết hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để đạt mục tiêu
chính trị căn bản lâu dài, tất nhiên mục tiêu chính trị đó phải phản ánh chính quy định khách
quan của kinh tế.

Thứ ba, Chính trị là việc liên quan đến nhà nước, tham gia vào công việc nhà nước, cách
mạng xã hội: Nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai
cấp này đối với một giai cấp khác, đó là sự kiến lập một “ trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và
củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu sự xung đột giai cấp. Nhà nước vô sản là nhà nước
đặc biệt, nhà nước khơng cịn đúng theo ngun nghĩa của nó, là nhà nước “nửa nhà nước”.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ hình thái kinh tế -xã hội lỗi thời
lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Cách mạng xã hội có ngun nhân
về kinh tế, chính trị, tư tưởng, nhưng nguyên nhân sâu xa là nguyên nhân về kinh tế. Cách
mạng xã hội có vai trị to lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại Cách mạng vô
sản là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để trong lịch sử nhân loại.

Học thuyết macxit về nhà nước và cách mạng xã hội chỉ ra rằng, lịch sử loài người từ khi
phân chia thành giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh
cao thì bùng nổ thành cách mạng xã hội. Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, vấn đề cơ bản là
giai cấp cách mạng phải giành lấy chính quyền nhà nước về tay mình.

Thứ tư, Chính trị là việc sử dụng khoa học và nghệ thuật các hình thức, phương pháp để

giành chính quyền trong xã hội có giai cấp, phương pháp bạo lực cách mạng là phương pháp
cơ bản nhất

Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình thức
nào, cách mạng cũng không thể đạt tới thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng. Bạo
lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng
vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời,
xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng. Đó là sức mạnh có tổ chức gắn liền với quần chúng,
được một đường lối chính trị tiên tiến hướng dẫn, lãnh đạo để cưỡng chế giai cấp phản động buộc
chúng phải phục tùng ý chí của giai cấp cách mạng. Các giai cấp thống trị không bao giờ tự
nguyện từ bỏ quyền lực nhà nước mà chúng đang nắm trong tay, nếu giai cấp vô sản không sử
dụng những biện pháp bạo lực để lật đổ sự thống trị của nó. Chỉ có cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới giải quyết được một cách căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, mới thay thế được
xã hội tư bản bằng xã hội khác cao hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Thứ năm, Chính trị là một khoa học và là một nghệ thuật và là văn hóa trong tư tưởng,
quan hệ, hoạt động và ứng xử chính trị:Tính khoa học của chính trị thể hiện ở tính lơgic khách
quan của nó “Chính trị có tính lơgic nội tại của nó”, logic này được hình thành và bị quy định
bởi quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn trong xã hội; bởi sự vận động, phát triển khách quan
của các quan hệ kinh tế; bởi vận mệnh của hàng triệu con người. Các quyết sách chính trị của
các chủ thể lãnh đạo, quản lý phải đảm bảo sự phù hợp giữa mục tiêu chính trị với quy luật,
xu hướng vận động phát triển của xã hội loài người và lợi ích của giai cấp, của quảng đại quần
chúng nhân dân.Tính nghệ thuật của chính trị thế hiện ở chổ “chính trị giống với đại số hơn là
số học, giống toán cao cấp hơn toán là toán sơ cấp”: Sự vận động của đời sống chính trị là sự
tác động qua lại của nhiều mối quan hệ phức tạp và tồn tại nhiều khả năng (khách quan). Tính
nghệ thuật của chính trị thể hiện ở chổ vai trị của nhân tố chủ quan trong việc lựa chọn khả
năng tối ưu và tạo lập cơ chế để hiện thực hố khả năng đã được lựa chọn; đó là việc kiên
định mục tiêu lý tưởng chính trị; nhưng mềm dẻo và linh hoạt về sách lược, phương pháp cho
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, với điều kiện cụ thể, con người cụ thể.


Đề 2
Câu 2. Trình bày sự phát triển của các tri thức chính trị trong lịch sử về kiểm sốt
quyền lực, về nhà nước pháp quyền và về sự phù hợp của yếu tố thể chế với yếu tố văn hóa
bản địa

Nền chính trị đương đại là sản phẩm của quá trình phát triển tri thức, tư duy chính trị của
nhân loại. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, con người sống trong xã hội ln tìm cách trả lời
những câu hỏi rất căn bản như: Quyền lực xã hội (mà căn bản là quyền lực nhà nước) bắt nguồn từ
đâu? Hình thức chính thể nào là tốt nhất? Yếu tố văn hóa liệu có tạo nên sự khác biệt trong chính trị
ở từng quốc gia, từng khu vực khơng? v.v.Từ góc nhìn của chính trị học có thể thấy, lịch sử phát
triển của tri thức chính trị nhân loại có một số nội dung nổi bật: (1) Sự phát triển nhận thức về
nguồn gốc của quyền lực nhà nước: Bước chuyển từ thần quyền sang thế quyền; (2) Các mơ hình
chính thể đi từ quân chủ, quý tộc đến dân chủ; (3) Cơ chế kiểm soát quyền lực; (4) Sự phát triển
nhận thức về nhà nước pháp quyền và (5) Sự phát triển nhận thức về sự phù hợp giữa yếu tố thể
chế với yếu tố văn hóa bản địa.

Chúng ta làm rõ 03 nội dung nổi bật sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển nhận thức về kiểm soát quyền lực.
Quyền lực nhà nước là cái cần thiết cho xã hội, được hình thành với mục đích ban đầu là làm
cho con người sống hạnh phúc, bảo vệ các quyền tự do của con người, đảm bảo cho xã hội tồn tại
trong vòng trật tự, ổn định và phát triển.Thế nhưng, các bằng chứng lịch sử cho thấy, từ khi hình
thành nhà nước đến nay, thay vì bảo vệ quyền tự do của con người, thì chính quyền, nhà nước lại là

chủ thể xâm phạm các quyền tự do của con người nhiều nhất. Từ đó dẫn đến sự tha hóa thẩm
quyền chính thức, làm cho quyền lực mất đi mục đích tốt đẹp ban đầu của nó.

Các nhà tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại do quan niệm rằng quyền lực nhà nước, quyền
lực của vua xuất phát từ đấng siêu nhiên, nên nó gần như khơng bị chủ thể quyền lực nào kiểm
sốt; có chăng chỉ là sự kiểm sốt một cách vơ hình từ “thượng đế”, và sự tự kiểm sốt của bản
thân người cai trị. Sự tự kiểm soát này dựa vào các chuẩn mực đạo đức và nỗ lực kiềm chế tham

vọng cùa người cai trị như trong tư tưởng Nho gia. Sự kiểm sốt này có hiệu quả hay không lại phụ
thuộc rất lớn vào nhận thức của những người cai trị.

Tuy nhiên, do nhà vua không thể tự minh cai trị xã hội, mà phải thông qua hệ thống quan lại
dưới quyền, nên nguy cơ quyền lực của vua bị các quan chức lạm dụng vẫn có thể xảy ra. Bằng
cách này hay cách khác, các nhà tư tưởng cũng đề xuất những biện pháp giúp vua kiểm soát quyền
lực của bề tôi thông qua hệ thống kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan do vua lập ra, hoặc bởi các ế
nhân do vua chỉ định, hoặc thơng qua hệ thống Pháp - Thế - Thuật như Hàn Phi Tử đề xuất.

Ở phương Tây, kiểm soát quyền lực là một trong những vấn đề cơ bản trong các nghiên cứu
về chính trị học và là nội dung trọng tâm của lý thuyết phân quyền. Tuy có nguồn gốc sâu xa trong
lịch sử, tư tưởng phân quyền chỉ trở thành một lý thuyết hoàn chỉnh trong thời kỳ Khai sáng.
Những người phát triển lý thuyết này là triết gia người Anh, John Locke (1632–1704) và người có
cơng phát triển nó một cách hồn chỉnh là nhà luật học người Pháp, S. Montesquieu (1689–
1755).Để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của
chính phủ, thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống
lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập
trung quyền lực, mà là phân chia nó ra. Thể chế chính trị tự do là thể chế chính trị trong đó quyền
lực tối cao được chia làm ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này phải được trao
cho các bộ phận độc lập với nhau nắm giữ. Sự phân chia quyền lực ở đây phải được thể hiện trên
cơ sở của pháp luật, nghĩa là các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ được thực hiện những
quyền mà pháp luật quy định. Ngày nay, kiểm soát quyền lực được xác định như là một đòi hỏi tất
yếu khách quan của một nhà nước dân chủ và trở thành một nội dung chính của Hiến pháp. Nhiều
học giả tư sản cho rằng, bất cứ một chế độ nào mà không thực hiện sự phân quyền, không đề cao
pháp luật và cơ chế kiểm sốt quyền lực thì đó khơng phải là nhà nước pháp quyền.

Thứ hai, sự phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền
Từ thời cổ đại, ở cả phương Đông và phương Tây đã hình thành các tư tưởng về nhà nước
pháp quyền. Ở phương Đông, những nhà tư tưởng của trường phái Pháp gia chính là những người
đề cao vai trị của pháp luật trong đời sống xã hội.Ở phương Tây, từ thời cổ đại cũng đã xuất hiện

những mầm mống của tư tưởng pháp quyền. Tư tưởng về pháp quyền ra đời nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán của nhà vua, gắn liền với việc xác lập và phát triển các yếu tố của nền dân
chủ.Ngày nay, tư tưởng về pháp quyền, về nhà nước pháp quyền được coi là các tư tưởng tiến bộ,
là giá trị chung của nhân loại. Nhà nước pháp quyền với tư cách là một phương thức tổ chức và
thực thi quyền lực được áp dụng phổ biến trên thế giới. Nghiên cứu tư tưởng pháp quyền (hay tư
tưởng về nhà nước pháp quyền) thể rút ra những dấu hiệu cơ bản chung nhất như sau: Pháp luật
phản ánh ý chí của nhân dân, là cơng cụ quan trọng để giới hạn quyền lực nhà nước. Pháp luật là
tối thượng, pháp luật giữ vai trò thống trị trong đời sống xã hội. Nhà nước và các cơ quan nhà nước
chịu sự ràng buộc của pháp luật, đặt mình dưới pháp luật.Quyền và trách nhiệm của nhà nước và
công dân được quy định dựa trên cơ sở pháp luật. Quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt chẽ bởi
chính các cơ quan quyền lực nhà nước (lập pháp - hành pháp - tư pháp) và bởi người dân.
Thứ ba, sự phát triển nhận thức về sự phù hợp của yếu tố thể chế với yếu tố văn hóa
bản địa
Trên bình diện lý thuyết cũng như thực tế cho thấy, khơng một lý thuyết chính trị nào được áp
dụng mà khơng có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, đặc biệt là phù hợp với yếu

tố văn hóa của từng quốc gia. Điều này hồn tồn hợp lý, bởi mọi lý thuyết chỉ có thể có ích khi
chúng thốt khỏi các chi tiết có tính đặc thù của hoàn cảnh cụ thể, tập trung vào các quan hệ chung
nhất, bản chất nhất, ổn định và khó thay đổi nhất. Thực tế các nền chính trị thế giới đương đại cũng
cho thấy, cho dù các quốc gia có thể áp dụng các lý thuyết chính trị giống nhau, nhưng vận dụng
vào từng quốc gia lại có sự khác biệt. Theo quan điểm của họ, các nước Đơng Á cần xây dựng một
mơ hình dân chủ phù hợp với văn hóa của riêng mình. Cái quan trọng đối với các nước này là sự ổn
định để phát triển, chứ không phải là các quyền tự do, dân chủ kiểu phương Tây.

Câu 1. Trình bày quan điểm mác-xít về chính trị.
Chính trị được coi là một trong những lĩnh vực phức tạp và có vai trị đặc biệt quan

trọng trong đời sống của một xã hội có giai cấp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về chính trị,
mỗi cách hiểu sẽ đáp ứng được một mục tiêu nghiên cứu nhất định.Có thể khái quát tư tưởng
chính trị Mác-Lênin về chính trị theo các phương diện sau:


Thứ nhất, Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, đấu tranh giai cấp (đấu tranh giai cấp là
động lực cơ bản của xã hội có giai cấp; mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy là đấu tranh nhằm
giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước cho một giai cấp nhất định); là
việc giải quyết các mối quan hệ giữa các giai cấp và giai tầng xã hội trong việc phân bổ các
lợi ích (đặc biệt là lợi ích kinh tế) thơng qua tổ chức và hoạt động của nhà nước.

Thứ hai, Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và trong những “điều kiện, hoàn
cảnh nhất định” thì chính trị khơng thể “khơng giữ vị trí hàng đầu” so với kinh tế: Trong mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, khi quan niệm “chính trị là biểu hiện tập trung
của kinh tế”, “chính trị tức là kinh tế được cơ đọng lại” tức là muốn nói đến tính quyết định
của kinh tế đối với chính trị. Xét đến cùng, kinh tế là yếu tố quyết định sự hình thành, tồn tại,
phát triển của chính trị. Cũng trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, khi
quan niệm “Chính trị khơng thể khơng giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế tức là muốn đề cập
đến tính “độc lập tương đối” của chính trị đối với kinh tế và sự cần thiết “ưu tiên” chính trị so
với kinh tế trong những điều kiện nhất định nào đó. Tính “độc lập tương đối”của chính trị thể
hiện ở chỗ tuy kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị cũng tác động trở lại kinh tế theo
các khuynh hướng: Nếu chính trị đáp ứng các yêu cầu kinh tế khách quan, tác động cùng
chiều và đồng thuận với sự phát triển kinh tế ....khi đó nó sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh
hơn. Nếu chính trị khơng bao hàm trong đó thực trạng, u cầu và tính quy định về sự vận
động khách quan của kinh tế; hoặc với tư duy chính trị giáo điều, duy ý chí, phản động, lỗi
thời...thì nó sẽ trở thành lực lượng kìm hảm sự phát triển kinh tế. Sự cần thiết “ưu tiên” chính
trị so với kinh tế nghĩa là trong những trường hợp đặc biệt và trong những hoàn cảnh, điều
kiện lịch sử cụ thể ... nhiều khi phải biết hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để đạt mục tiêu
chính trị căn bản lâu dài, tất nhiên mục tiêu chính trị đó phải phản ánh chính quy định khách
quan của kinh tế.

Thứ ba, Chính trị là việc liên quan đến nhà nước, tham gia vào công việc nhà nước, cách
mạng xã hội: Nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai
cấp này đối với một giai cấp khác, đó là sự kiến lập một “ trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và

củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu sự xung đột giai cấp. Nhà nước vô sản là nhà nước
đặc biệt, nhà nước khơng cịn đúng theo ngun nghĩa của nó, là nhà nước “nửa nhà nước”.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ hình thái kinh tế -xã hội lỗi thời

lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Cách mạng xã hội có nguyên nhân
về kinh tế, chính trị, tư tưởng, nhưng nguyên nhân sâu xa là nguyên nhân về kinh tế. Cách
mạng xã hội có vai trị to lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại Cách mạng vô
sản là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để trong lịch sử nhân loại.

Học thuyết macxit về nhà nước và cách mạng xã hội chỉ ra rằng, lịch sử loài người từ khi
phân chia thành giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh
cao thì bùng nổ thành cách mạng xã hội. Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, vấn đề cơ bản là
giai cấp cách mạng phải giành lấy chính quyền nhà nước về tay mình.

Thứ tư, Chính trị là việc sử dụng khoa học và nghệ thuật các hình thức, phương pháp để
giành chính quyền trong xã hội có giai cấp, phương pháp bạo lực cách mạng là phương pháp
cơ bản nhất

Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình thức
nào, cách mạng cũng không thể đạt tới thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng. Bạo
lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng
vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời,
xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng. Đó là sức mạnh có tổ chức gắn liền với quần chúng,
được một đường lối chính trị tiên tiến hướng dẫn, lãnh đạo để cưỡng chế giai cấp phản động buộc
chúng phải phục tùng ý chí của giai cấp cách mạng. Các giai cấp thống trị không bao giờ tự

nguyện từ bỏ quyền lực nhà nước mà chúng đang nắm trong tay, nếu giai cấp vô sản không sử
dụng những biện pháp bạo lực để lật đổ sự thống trị của nó. Chỉ có cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới giải quyết được một cách căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, mới thay thế được
xã hội tư bản bằng xã hội khác cao hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Thứ năm, Chính trị là một khoa học và là một nghệ thuật và là văn hóa trong tư tưởng,
quan hệ, hoạt động và ứng xử chính trị:Tính khoa học của chính trị thể hiện ở tính lơgic khách
quan của nó “Chính trị có tính lơgic nội tại của nó”, logic này được hình thành và bị quy định
bởi quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn trong xã hội; bởi sự vận động, phát triển khách quan
của các quan hệ kinh tế; bởi vận mệnh của hàng triệu con người. Các quyết sách chính trị của
các chủ thể lãnh đạo, quản lý phải đảm bảo sự phù hợp giữa mục tiêu chính trị với quy luật,
xu hướng vận động phát triển của xã hội loài người và lợi ích của giai cấp, của quảng đại quần
chúng nhân dân.Tính nghệ thuật của chính trị thế hiện ở chổ “chính trị giống với đại số hơn là
số học, giống toán cao cấp hơn toán là toán sơ cấp”: Sự vận động của đời sống chính trị là sự
tác động qua lại của nhiều mối quan hệ phức tạp và tồn tại nhiều khả năng (khách quan). Tính
nghệ thuật của chính trị thể hiện ở chổ vai trị của nhân tố chủ quan trong việc lựa chọn khả
năng tối ưu và tạo lập cơ chế để hiện thực hoá khả năng đã được lựa chọn; đó là việc kiên
định mục tiêu lý tưởng chính trị; nhưng mềm dẻo và linh hoạt về sách lược, phương pháp cho
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, với điều kiện cụ thể, con người cụ thể.
Đề 3
CÂU 2. Sự biến đổi của QLCT trong xã hội hiện đại

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học cơng nghệ và q trình tồn cầu hóa
có tác động đến quyền lực chính trị. Về bản chất, tồn cầu hóa chính là sự mở rộng hệ thống
phân cơng lao động tất yếu ra tồn cầu, dẫn tới sự kết nối và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
chặt chẽ, đa dạng, đa chiều và đa lĩnh vực. Đây là một xu thế mang tính tất yếu khách quan.
Q trình tồn cầu hóa tạo ra các liên kết và trao đổi giữa các cá nhân, tổ chức và quốc gia
trên quy mơ tồn cầu đã làm gia tăng sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia,
dân tộc, giữa các cộng đồng và cá nhân trong q trình tồn tại và phát triển. Tồn cầu hóa
làm gia tăng mạnh mẽ những sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc,

giữa các cộng đồng và cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển, công việc quản lý, điều
tiết xã hội khơng cịn là việc riêng của khu vực nhà nước, khu vực công.

Sự biến đổi thứ nhất đó là Sự phân tán quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị
phân tán từ nhà nước ra bên ngoài xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân do các tổ chức
và các cá nhân này đều nắm giữ các nguồn lực quan trọng và đủ mạnh để có thể can thiệp
vào các quyết định chính trị. Do sự phân tán quyền lực này, các chủ thể nắm giữ quyền lực
chính trị bị giới hạn hơn trong cách thức sử dụng quyền lực. Các cá nhân được trao quyền vẫn
nắm giữ rất nhiều quyền lực, nhưng họ vừa phải đối mặt với các thách thức và cạnh tranh, vừa
phải chịu sự ảnh hưởng bởi các yếu tố từ bên ngồi hệ thống chính trị. Có hai khuynh hướng
thay đổi rất rõ ràng, trái ngược nhau trong phạm vi quyền lực nhà nước hiện đại: một mặt, một
số vấn đề trước đây do nhà nước chịu trách nhiệm điều tiết thì nay được chuyển sang khu vực
tư nhân;mặt khác, xuất hiện một số vấn đề mới mà nhà nước cần đảm nhiệm việc quản lý và
điều tiết. Quyền lực được phân phối rộng rãi với nhiều chủ thể hơn (đa trung tâm). Số lượng
các chủ thể tham gia vào các quyết định chính trị ngày càng nhiều hơn. Các tổ chức xã hội và
các tổ chức như: gia đình, nhà thờ, các phương tiện truyền thơng, trường học, các tổ chức
cơng đồn, các hiệp hội kinh tế..v.v. đều có thể tham gia vào các quyết định chính trị, hoặc
gây ảnh hưởng chính trị. Sự tham gia chính trị của các tổ chức xã hội rộng rãi và hiệu quả
hơn. Các tổ chức kinh tế cũng tìm cách tạo ra ảnh hưởng chính trị. Ngồi ra, cịn có ảnh
hưởng của các tác nhân phi nhà nước, các chủ thể, thể chế, cơ chế quản lý, điều tiết tồn cầu
khác. Các thách thức đối với quyền lực chính trị đến từ nhiều nguồn khác nhau. Sự tương tác
và các nan giải đặt ra cho xã hội đã vượt xa khả năng một chủ thể duy nhất nào có thể giải
quyết được một cách hiệu quả, thậm chí là phạm vi mà một nhà nước quốc gia có thể kiểm
sốt.Xã hội duy trì sự ổn định thơng qua sự kết hợp giữa sức mạnh vũ lực với "lãnh đạo trí tuệ
và đạo đức”.

Quyền lực chính trị bị phân tán theo các cấp độ khác nhau: Sự phân tán quyền lực giữa
các nhà nước - quốc gia với nhau. Sự thay đổi cán cân quyền lực giữa các nhà nước (chính
thức) với các tác nhân phi nhà nước (non-state actors). Sự hợp tác của nhà nước - quốc gia với
nhau để ứng phó với các thách thức có tính tồn cầu như biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên

quốc gia, dịch bệnh, kiểm sốt vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD). Sự thay đổi quyền lực của
từng nhà nước riêng lẻ.

Như vậy,trật tự xã hội được thiết lập với một số thể chế và nhóm thực thi quyền lực
mang tính bạo lực để duy trì trật tự xã hội(chẳng hạn như nhóm cảnh sát,quân đội,v.v..),
trong khi các tổ chức khác (như các tổ chức tôn giáo, trường học,hoặc các phương tiện
truyền thông) tạo ra sự đồng thuận chi phối thông qua việc thiết lập sự chi phối về mặt tư
tưởng.

Thứ hai, sự biến đổi thể hiện ở sự biến đổi trong cơ sở của quyền lực chính trị. Kinh
tế tri thức là cơ sở mới của quyền lực chính trị. Do tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức
năng và phương thức hoạt động. Lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên
sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh cơng nghiệp sang văn minh
trí tuệ. Trong xã hội hiện đại, khi tính đa nguyên, tính đa dạng, tính bất ổn định và tính phạm
vi được coi là những đặc trưng căn bản, thì sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng mở rộng
lãnh địa của chính trị, tạo ra một loạt các nhu cầu về các quy chế mới. Các tri thức mới được
hình thành dựa trên những cơ chế và cách thức khác nhau, tạo ra cơ sở mới cho quyền lực
chính trị.

Thứ ba, Sự biến đổi quyền lực chính trị cịn thể hiện ở Sự biến đổi trong phương thức
thực thi quyền lực chính trị. Trong các nền chính trị hiện đại, việc thực thi quyền lực chính
trị phải đáp ứng được những giá trị và chuẩn mực được đa số thừa nhận và được pháp chế
hỏa. Đây có thể được coi là thước đo tính chính đáng của quyền lực chính trị trong thực tế.

Thứ tư, Biến đổi trong cách thức kiểm sốt quyền lực chính trị. Trong xã hội hiện
đại, do các tính chất mới của quyền lực chính trị (quyền lực cần được phân tán ở mức độ hợp
lý như là một biện pháp để chống lại sự chuyên chế, tồn tại của các nhóm tinh hoa cạnh tranh,
quần chúng có thể có một số ảnh hưởng đối với quyền lực chính trị và, các cơng dân có thể

được huy động tham gia một cách tích cực vào đời sống chính trị), vì vậy, cách thức kiểm
sốt quyền lực chính trị cũngcó những thay đổi:

Thứ nhất, là cách thức kiểm sốt quyền lực chính trị từ bên trong hệ thống thông qua
các thể chế.

Thứ hai, trong khi kiểm sốt quyền lực chính trị nhấn mạnh vào kiểm soát quyền lực
nhà nước, trụ cột của hệ thống chính trị, thì thực tế cho thấy chỉ kiểm soát quyền lực nhà
nước là chưa đủ, mà kiểm soát quyền lực phải là kiểm soát quyền lực cao nhất.

Thứ ba, bên cạnh việc kiểm soát QLCT, QLNN bằng thể chế (kiểm soát từ bên trong) cần
kết hợp sự kiểm soát của người dân và sự kiểm soát của các tổ chức xã hội (kiểm soát từ bên
trong).

Câu 1: Cơ sở lý luận về quyền lực chính trị
Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và quá trình tồn cầu hóa đã đưa

xã hội lồi người phát triển sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của tri thức và cơng nghệ kỹ
thuật hiện đại. Theo đó, nhiều vấn đề mặc dù vẫn giữ nguyên bản chất vốn có nhưng cũng đã
có những thay đổi theo xu hướng chung của xã hội hiện đại, trong đó có quyền lực chính trị.
Sự biến đổi quyền lực chính trị trong xã hội hiện đại và xã hội Việt Nam là vấn đề quan trọng
cần được làm rõ từ đó áp dụng trong thực tiễn xây dựng xã hội hiện nay cũng như đề ra
phương thức thực thi, kiểm soát quyền lực chính trị một cách hiệu quả.

Câu 1. Cơ sở lý luận về Quyền lực chính trị
Có nhiều quan niệm khác nhau về quyền lực, Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Quyền lực là
năng lực của một chủ thể, buộc chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình, bất kể sự
kháng cự.

Quyền lực chính trị là một trong những quyền lực được xuất hiện khi xã hội có sự phân

chia giai cấp. Có nhiều cách hiểu khác nhau, song xét từ cách nhìn về thể chế thì Quyền lực
chính trị là quyền lực của của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực hiện sự thống
trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai
cấp mình - chủ yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Xét từ
cách nhìn hành vi: Quyền lực chính trị là khả năng định hình, kiểm sốt hành vi chính trị của
người khác và lãnh đạo, chỉ dẫn họ theo hướng mà cá nhân, nhóm, hoặc chủ thể nắm giữ
quyền lực chính trị mong muốn.

Tóm lại: Quyền lực chính trị là khả năng của một chủ thể chính trị (chẳng hạn một cá
nhân là con người chính trị, một nhóm lợi ích, một đảng phái, hoặc chính phủ...) tác động,
tạo ra sự thay đổi hành vi của các chủ thể chính trị khác. Quyền lực chính trị là năng lực của
một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đối với toàn xã hội.

* Các loại quyền lực trong xã hội có giai cấp cần phân biệt:
- Quyền lực công cộng (quyền lực xã hội) là quyền lực đại diện cho tất thảy mọi thành
viên trong xã hội, nó được nảy sinh từ một nhu cầu chung nào đó của cả cộng đồng xã hội (ý
chí chung của cộng đồng), nhờ vậy mà xã hội có được tính tổ chức và trật tự.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực
hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có
lợi cho giai cấp mình - chủ yếu thông qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà
nước.
- Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành
nhà nước. Quyền lực nhà nước vừa là cơng cụ áp đặt quyền lực chính trị của giai cấp thống
trị, vừa thực hiện ý chí và lợi ích chung của tồn xã hội.
* Cơ sở xã hội của quyền lực chính trị
- Quyền lực ra đời từ nhu cầu cần tuân thủ kỷ luật lao động khách quan của quá trình sản
xuất: Bất kỳ hoạt động chung nào của con người cũng đòi hỏi có người tổ chức, người chỉ huy
và người phục tùng. Đây cũng là điểm xuất phát cũng như nội dung trung tâm của phạm trù
quyền lực. Quyền lực chính trị xuất hiện là một tất yếu. Tính tất yếu đó xuất phát từ hoạt động
sản xuất, phân cơng lao động xã hội. Từ nhu cầu phải phối hợp trong sản xuất, xuất hiện sự

cần thiết phải phục tùng qui trình sản xuất khách quan, bất chấp tổ chức xã hội là như thế nào.
- Quyền lực chính trị ra đời là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội:
Sự gắn bó con người thành xã hội là một khuynh hướng tự nhiên, và cũng qua xã hội, bằng xã
hội mà con người mưu cầu hạnh phúc. Xã hội vận động, phát triển đến trình độ nhất định dẫn
đến phân hóa giai cấp và tất yếu xuất hiện nhà nước và quyền lực công được trao cho một giai
cấp hoặc một lực lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện

sự quản lý xã hội thông qua bộ máy nhà nước và dựa trên hệ thơng luật pháp. Q trình đó là
một tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của xã hội.

Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị ln có hai chức năng: Chức năng chính trị
(giai cấp) và công quyền (xã hội). Xu hướng chung là quyền lực sẽ chuyển dần từ chức năng
chính trị sang chức năng công quyền. Trong tương lai, quyền lực sẽ mất đi tính chính trị, chỉ
cịn tính chất quản lý (nhà nước tiêu vong).

* Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị
- Quyền lực chính trị là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Khi con
người sống thành cộng đồng, quyền lực công cộng xuất hiện. Khi xã hội phân chia thành các
giai cấp, xã hội chính trị xuất hiện, quyền lực cơng được trao cho một giai cấp hoặc một lực
lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện sự quản lý xã hội
thơng qua bộ máy nhà nước và dựa trên hệ thống luật pháp. Q trình đó là một tất yếu khách
quan để duy trì sự tồn tại của xã hội.
- Tính giai cấp: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp trong việc giành, giữ và thực
thi quyền lực, cơ bản nhất là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị là quyền lực của một
giai cấp để thực hiện lợi ích khách quan của mình. Vì vậy, quyền lực chính trị ln mang tính
giai cấp.
- Quyền lực chính trị thống trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lượng xã hội
giữ địa vị thống trị về kinh tế. Đặc trưng này phản ánh mục tiêu thực chất của quyền lực chính
trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo vệ và phát triển các lợi ích mà căn bản và trước hết
là lợi ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Quyền lực kinh tế là cơ sở để đảm

bảo quyền lực về chính trị. Quyền lực về chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền
lực về kinh tế.

- Việc nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị phải đảm bào sự hài hịa giữa lợi ích
giai cấp với lợi ích chung của cộng đồng. Bất cứ giai cấp, lực lượng nào đang cầm quyền
muốn duy tri, củng cố quyền lực chính trị của mình khi thực hiện quyền lực cơng, quyền lực
nhà nước cũng luôn nhân danh là thực hiện công bằng xã hội và cũng phải thực hiện ở mức độ
nhất định cơng bằng xã hội.
- Quyền ỉực chính trị mang tính chính đáng: Quyền lực khơng bao giờ là tuyệt đối, vì
ln cần sự chấp nhận của đối tượng chịu sự chi phối. Cũng như mọi loại quyền lực, sự chấp
thuận của xã hội là yếu tố chính của việc đảm bảo việc thực thi quyền lực chính trị. Trong
thực tiễn hoạt động chính trị, tính chính đáng càng cao càng cần ít chi phí cưỡng chế và càng
đạt hiệu quả cao trong thực thi quyền lực.
- Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm sốt vì quyền lực
chính trị là một loại hình quyền lực có quan hệ hai chiều: quan hệ mệnh lệnh giữa chủ thể với
đối tượng và quan hệ tuân phục giữa đối tượng và chủ thể. Trong quan hệ đó, quyền lực chỉ
thực sự là quyền lực khỉ mệnh lệnh của chủ thể được đối tượng thi hành nhanh chóng và triệt
để. Khi quyền lực khơng được tập trung đủ mức thì chủ thể của nó hoặc khơng ra được quyết
định hoặc quyết định khơng có hiệu lực thi hành thì khi đó thực chất chủ thể quyền lực đã mất
quyền hoặc khơng có quyền lực trên thực tế. Mặt khác, cùng vói việc tập trung quyền lực
cũng phải có cơ chế kiểm sốt nó. Đây là ngun tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ
máy quyền lực nhà nước nhằm ngăn ngừa sự tha hóa của quyền lực.

Đề 4
Câu 2. Trình bày giải pháp hồn thiện mơ hình, cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị nhằm
đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân ở nước ta hiện nay

Hệ thống chính trị Việt Nam về mặt thiết chế bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội (Tổng liên đồn lao động Việt Nam,
Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt

Nam, Hội Nông dân Việt Nam).Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị, Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính
trị.Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là bộ phận của HTCT, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, là lực
lượng lãnh đạo nhà nuớc và xã hội.Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước ban hành pháp
luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCH.Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội thành viên là một bộ phận của hệ thống chính trị, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức
lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động giữa các thành viên.

Theo cách tiếp cận mang tính hệ thống, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước gồm: Cơ chế
kiểm soát bên trong hệ thống nhà nước (thực hiện dựa trên sự phân công quyền lực trong nội bộ
bộ máy nhà nước). Cơ chế kiểm sốt bên ngồi hệ thống nhà nước (q trình nhân dân kiểm sốt
quyền lực nhà nước dựa trên mối liên hệ giữa nhân dân -chủ thể của quyền lực nhà nước và nhà
nước -chủ thể nhận ủy quyền, thực hiện quyền lực nhà nước). Ngồi ra, cịn cơ chế kiểm sốt
quyền lực nhà nước bởi đảng chính trị cầm quyền (kiểm sốt quyền lực dựa trên quan hệ lãnh đạo
- quản lý)

Một là, kiểm soát quyền lực của Đảng cầm quyền:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội; là “Đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” (Điều 4,
Hiến pháp năm 2013). Như đã nói trên, ở Việt Nam chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền, vì thế
bên cạnh mặt thuận lợi, vẫn tiềm ẩn nguy cơ tha hóa quyền lực (lạm dụng quyền lực, vi phạm dân
chủ, suy thoái về đạo đức). Do vậy cần kiểm soát quyền lực của Đảng thông qua các nội dung
sau:
- Luật hóa tổ chức và hoạt động của Đảng, mọi hoạt động của Đảng phải tuân theo pháp
luật: Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Điều này sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của Đảng, khắc phục

tình trạng Đảng lấn sân, can thiệp quá sâu vào hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị –
xã hội
- Hình thành các quy định về trách nhiệm, kỷ luật trong tổ chức và hoạt động của Đảng,
đồng thời xử lý nghiêm minh các vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Vừa qua Bộ Chính trị
cũng đã ban hành các quy định liên quan đến nội dung này. Bộ Chính trị, Quy định khung tiêu
chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp(Quy định
số 89-QĐ-TW ngày 04 tháng 8 năm 2017); Bộ Chính trị quy định tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí
đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (Quy
định số 90-QĐ-TW ngày 04 tháng 8 năm 2017)
- Đảm bảo dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng

- Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình

Hai là, kiểm soát quyền lực nhà nước
- Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
- Thứ hai, hồn thiện các cơ chế kiểm sốt giữa Quốc hội, Chính phủ và Tịa án

Ở nước ta, một trong những phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước là tổ
chức bộ máy nhà nước sao cho các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc thực thi quyền lực nhà
nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để khơng một cơ quan nào có
thể lạm quyền. Kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp: Chính phủ do Quốc
hội thành lập và chịu trách nhiệm trước Quốc hội; Quốc hội phải có trách nhiệm giám sát Chính
phủ thơng qua các hình thức: Tín nhiệm, bãi nhiệm các thành viên Chính phủ do Quốc hội bầu;
thong qua xem xét báo cáo, chất vấn của cac địa biểu Quốc hội; thong qua hoạt động của UBTV
Quốc hội; giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội… Kiểm soát của cơ quan
lập pháp đối với cơ quan tư pháp: Quốc hội có quyền quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan
nhà nước, trong đó có tịa án, viện kiểm sát và giám sát hoạt động các cơ quan đó. Chánh án
TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cáo chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc

hội. Quốc hội có quyền hủy bỏ các văn bản của các cơ quan này nếu trái với hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội…Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc
gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập” (Điều 70, Hiến pháp năm
2013). Các hình thức kiểm sốt của Quốc hội khá đa dạng: Ngồi việc nghe báo cáo như đã nói,
Chính phủ, các thành viên Chính phủ phải trả lời chất vấn trước Quốc hội; lấy phiếu tín nhiệm và
bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn; thành lập đoàn giám sát
tối cao giám sát hoạt động của các cơ quan của Chính phủ... Kiểm sốt của các cơ quan tư pháp
đối với các cơ quan nhà nước: Tòa án nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động quản
lý nhà nước nói chung và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nói riêng
(thong qua việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính). Thơng qua hoạt động xét
xử này, tịa án kiểm sốt hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
cơng dân. Tịa án nhân dân có quyền xét xử đối với bất kỳ đại biểu Quốc hội, thành viên Chính
phủ nào nếu họ phạm luật. Việc hiến định nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, làm
cho khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước của tịa án là rõ ràng. Ngồi chức năng cơng tố, viện
kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, qua đó có thể kiểm soát, ngăn chặn
được việc lạm quyền của cơ quan và công chức nhà nước, trong các hoạt động tư pháp. Hoàn
thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp: Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định “Hiến pháp là luật cơ bản của
nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan
khác của Nhà nước và tồn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp do luật định”.Do vậy cần bảo đảm tính độc lập và chuyên trách của cơ quan bảo vệ Hiến
pháp. Đồng bộ, nhất quán các quy định về bảo vệ Hiến pháp. Phương thức vận hành của cơ chế
bảo vệ Hiến pháp phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi thẩm quyền của cơ quan bảo
vệ Hiến pháp.

Ba là, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội


- Thứ nhất: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị,
của nhân dân trước hết là từ trong Đảng đến xã hội về tầm quan trọng, vai trò của giám sát và

phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương các cấp vì lợi ích của xã hội và
của nhân dân

- Thứ hai, Phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp cho hoạt động giám sát và phản biện xã
hội

- Thứ ba, Nhà nước cần có cơ chế để MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội thực hiện tốt vai trò phản biện xã hội; khắc phục tình trạng “Nhà nước hố”, “hành
chính hố”, “lệ thuộc hóa” các tổ chức nói trên

- Thứ tư; Đảng và Nhà nước cần tạo điều kiện để các chủ thể phản biện tiếp cận những
thông tin cần thiết về các quyết sách chính trị của Đảng và các chương trình kinh tế, văn hố - xã
hội, an ninh - quốc phòng của Nhà nước …để các chủ thể đó kịp thời có những phản biện có tính
khoa học, hiệu quả.

- Thứ năm; Các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài…) nên cần tạo thuận lợi cho các
chủ thể phản biện có cơ hội cơng khai rộng rãi những nội dung phản biện của mình đối với các
đối tượng phản biện (trừ những vấn đề có tính nhạy cảm và bí mật quốc gia): Đặc biệt, cần khắc
phục thái độ quan ngại, thụ động, bàng quan của một số báo, đài (nhất là các báo, đài địa phương)
về các vấn đề có tính nhạy cảm, tế nhị trong các nội dung phản biện.

Bốn là, Nâng cao văn hóa chính trị nhằm phát huy tính tích cực chính trị của mọi cơng
dân trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước

Nâng cao văn hóa chính trị của quần chúng nhân dân sẽ khơi dậy được sự sáng tạo của các
nguồn lực xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước. Trình độ văn hóa chính trị là điều kiện bảo

đảm cho người dân nắm bắt và thực hành dân chủ. Và chỉ như thế, chế độ chính trị - xã hội mới
đạt được sự ổn định và bền vững, tạo ra được lợi thế so sánh phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên”

Càng có trình độ văn hóa chính trị cao, con người càng nhận thức sâu hơn về những giá trị
xã hội, về quyền và nghĩa vụ của mình cũng như khả năng độc lập đánh giá và suy lý về những
tiến trình chính trị đang xảy ra. Với một trình độ văn hóa chính trị nhất định, những cơng dân
bình thường có thể thường xun ở trong sự diễn tiến của những sự kiện quan trọng, nhanh chóng
nhận biết những hành vi và tư cách của các chủ thể lãnh đạo. Với một trình độ văn hóa chính trị
nhất định, nhân dân sẽ phát huy tốt vai trị kiểm sốt nhà nước thơng qua các hoạt động bầu cử,
giám sát hoạt động của HĐND, UBND các cấp; thông qua quyền khiếu nại, tố cáo và giám sát,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, thơng qua hệ
thống phương tiện truyền thông đại chúng (báo, đài, mạng xã hội

Câu 1. Cơ sở lý luận về Quyền lực chính trị
Có nhiều quan niệm khác nhau về quyền lực, Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Quyền lực là

năng lực của một chủ thể, buộc chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình, bất kể sự
kháng cự.

Quyền lực chính trị là một trong những quyền lực được xuất hiện khi xã hội có sự phân
chia giai cấp. Có nhiều cách hiểu khác nhau, song xét từ cách nhìn về thể chế thì Quyền lực chính
trị là quyền lực của của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực hiện sự thống trị chính
trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình -
chủ yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Xét từ cách nhìn hành
vi: Quyền lực chính trị là khả năng định hình, kiểm sốt hành vi chính trị của người khác và lãnh
đạo, chỉ dẫn họ theo hướng mà cá nhân, nhóm, hoặc chủ thể nắm giữ quyền lực chính trị mong
muốn.


Tóm lại: Quyền lực chính trị là khả năng của một chủ thể chính trị (chẳng hạn một cá
nhân là con người chính trị, một nhóm lợi ích, một đảng phái, hoặc chính phủ...) tác động, tạo ra
sự thay đổi hành vi của các chủ thể chính trị khác. Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ
thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đối với toàn xã hội.

* Các loại quyền lực trong xã hội có giai cấp cần phân biệt:
- Quyền lực công cộng (quyền lực xã hội) là quyền lực đại diện cho tất thảy mọi thành viên
trong xã hội, nó được nảy sinh từ một nhu cầu chung nào đó của cả cộng đồng xã hội (ý chí
chung của cộng đồng), nhờ vậy mà xã hội có được tính tổ chức và trật tự.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực hiện
sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho
giai cấp mình - chủ yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà
nước. Quyền lực nhà nước vừa là cơng cụ áp đặt quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, vừa
thực hiện ý chí và lợi ích chung của tồn xã hội.
* Cơ sở xã hội của quyền lực chính trị
- Quyền lực ra đời từ nhu cầu cần tuân thủ kỷ luật lao động khách quan của quá trình sản
xuất: Bất kỳ hoạt động chung nào của con người cũng đòi hỏi có người tổ chức, người chỉ huy và
người phục tùng. Đây cũng là điểm xuất phát cũng như nội dung trung tâm của phạm trù quyền
lực. Quyền lực chính trị xuất hiện là một tất yếu. Tính tất yếu đó xuất phát từ hoạt động sản xuất,
phân công lao động xã hội. Từ nhu cầu phải phối hợp trong sản xuất, xuất hiện sự cần thiết phải
phục tùng qui trình sản xuất khách quan, bất chấp tổ chức xã hội là như thế nào.
- Quyền lực chính trị ra đời là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội: Sự
gắn bó con người thành xã hội là một khuynh hướng tự nhiên, và cũng qua xã hội, bằng xã hội
mà con người mưu cầu hạnh phúc. Xã hội vận động, phát triển đến trình độ nhất định dẫn đến
phân hóa giai cấp và tất yếu xuất hiện nhà nước và quyền lực công được trao cho một giai cấp
hoặc một lực lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện sự quản
lý xã hội thông qua bộ máy nhà nước và dựa trên hệ thơng luật pháp. Q trình đó là một tất yếu
khách quan để duy trì sự tồn tại của xã hội.
Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị ln có hai chức năng: Chức năng chính trị (giai

cấp) và cơng quyền (xã hội). Xu hướng chung là quyền lực sẽ chuyển dần từ chức năng chính trị
sang chức năng cơng quyền. Trong tương lai, quyền lực sẽ mất đi tính chính trị, chỉ cịn tính chất
quản lý (nhà nước tiêu vong).
* Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị

- Quyền lực chính trị là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Khi con
người sống thành cộng đồng, quyền lực công cộng xuất hiện. Khi xã hội phân chia thành các giai
cấp, xã hội chính trị xuất hiện, quyền lực công được trao cho một giai cấp hoặc một lực lượng xã
hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện sự quản lý xã hội thông qua bộ
máy nhà nước và dựa trên hệ thống luật pháp. Q trình đó là một tất yếu khách quan để duy trì
sự tồn tại của xã hội.

- Tính giai cấp: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp trong việc giành, giữ và thực thi
quyền lực, cơ bản nhất là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp
để thực hiện lợi ích khách quan của mình. Vì vậy, quyền lực chính trị ln mang tính giai cấp.

- Quyền lực chính trị thống trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lượng xã hội giữ
địa vị thống trị về kinh tế. Đặc trưng này phản ánh mục tiêu thực chất của quyền lực chính trị là
nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo vệ và phát triển các lợi ích mà căn bản và trước hết là lợi
ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Quyền lực kinh tế là cơ sở để đảm bảo
quyền lực về chính trị. Quyền lực về chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền lực về
kinh tế.

- Việc nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị phải đảm bào sự hài hịa giữa lợi ích giai
cấp với lợi ích chung của cộng đồng. Bất cứ giai cấp, lực lượng nào đang cầm quyền muốn duy
tri, củng cố quyền lực chính trị của mình khi thực hiện quyền lực công, quyền lực nhà nước cũng
luôn nhân danh là thực hiện công bằng xã hội và cũng phải thực hiện ở mức độ nhất định công
bằng xã hội.

- Quyền ỉực chính trị mang tính chính đáng: Quyền lực khơng bao giờ là tuyệt đối, vì ln

cần sự chấp nhận của đối tượng chịu sự chi phối. Cũng như mọi loại quyền lực, sự chấp thuận
của xã hội là yếu tố chính của việc đảm bảo việc thực thi quyền lực chính trị. Trong thực tiễn hoạt
động chính trị, tính chính đáng càng cao càng cần ít chi phí cưỡng chế và càng đạt hiệu quả cao
trong thực thi quyền lực.

- Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm sốt vì quyền lực
chính trị là một loại hình quyền lực có quan hệ hai chiều: quan hệ mệnh lệnh giữa chủ thể với đối
tượng và quan hệ tuân phục giữa đối tượng và chủ thể. Trong quan hệ đó, quyền lực chỉ thực sự
là quyền lực khỉ mệnh lệnh của chủ thể được đối tượng thi hành nhanh chóng và triệt để. Khi
quyền lực khơng được tập trung đủ mức thì chủ thể của nó hoặc khơng ra được quyết định hoặc
quyết định khơng có hiệu lực thi hành thì khi đó thực chất chủ thể quyền lực đã mất quyền hoặc
khơng có quyền lực trên thực tế. Mặt khác, cùng vói việc tập trung quyền lực cũng phải có cơ chế
kiểm sốt nó. Đây là ngun tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước
nhằm ngăn ngừa sự tha hóa của quyền lực.

Đề 5
Câu 2. Trình bày q trình hiện thực hóa nội dung quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân trong tiến trình lịch sử và cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện
nay
Q trình hiện thực hóa nội dung quyền lực chính trị thuộc về nhân dân trong tiến
trình lịch sử

Trong các thể chế chính trị dân chủ đều có tun bố pháp lý tồn bộ quyền lực thuộc về
nhân dân; có sự khẳng định quyền và nghĩa vụ của công dân - đặc biệt là quyền chính trị của
cơng dân trong việc tham gia vào công việc của nhà nước; các quyết sách chính trị đều được

quyết định trên cơ sở nguyên tắc đa số (tương đối hoặc tuyệt đối, trực tiếp hoặc gián tiếp) và
là sản phẩm của cả hệ thống với nhiều nhân tố (Đảng, Nhà nước, Nhóm lợi ích, ...).

Tuy nhiên; trên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng tha hóa quyền lực nếu khơng có cơ chế

kiểm soát quyền lực: Quyền lực nhà nước (QLNN) là của nhân dân được ủy quyền, giao
quyền cho một tổ chức, một cá nhân. Tuy nhiên; khi ủy quyền cho Nhà nước, QLNN lại
thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình - đó chính là sự tha hóa quyền lực (C.
Mác).Nguyên nhân của sự tha hóa: Thứ nhất; QLNN là của nhân dân, nhân dân giao cho các
cơ quan QLNN thưc thi quyền lực, mà xét cho cùng là giao cho những con người cụ thể thực
thi. Nhưng con người thì “ln ln chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối
với các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đơi khi bị chìm khuất”. Thứ
hai; Cơ chế kiểm sốt sự tha hóa quyền lực nhà nước cịn hạn chế, bất cập.

Vì vậy; song song với việc giáo dục đạo đức, phẩm hạnh chính trị đối với lãnh đạo, quản
lý; thì cần có cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nước cả từ bên ngoài lẫn bên trong: Thứ nhất,
phải phát huy cơ chế kiểm sốt từ bên ngồi, bằng các quyền dân chủ trực tiếp, bằng các hình
thức khiếu nại, tố cáo, bầu cử; bãi nhiệm, thực hiện việc kiểm soát quyền lực qua các tổ chức
chính trị- xã hội, qua MTTQ. Thứ hai, là tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên trong
bộ máy, giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp - ba cơ quan trên kiểm soát quyền lực lẫn nhau.
Thứ ba, là thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp, theo luật định. Tức là Hiến
pháp và luật đã quy định thì phải thực hiện nghiêm và có hiệu quả. Các hành vi vi phạm làm
trái Hiến pháp và luật đều phải được xử lý nghiêm minh.

Quyền lực chính trị thuộc về nhân dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Về phương diện lý luận mà xét thì trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, toàn bộ
quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng

-Mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều là kết quả phản ánh khái quát nhu cầu, lợi ích
chính đáng của nhân dân

- Nhà nước là cơng cụ để thể chế hóa và thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao
động; đồng thời thông qua nhà nước nhân dân lao động được tổ chức lại để có được sức mạnh
nhằm hực hiện vai trị là chủ thể đích thực của quyền lực chính trị. Đối tượng nà QLCT hướng
tới trong nhà nước trong nhà nước ta là sự áp dặt ý chí của nhân dân vì mục tiêu độc lập dân

tộc và CNXH

-Các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; ; là cơ sở
chính trị - xã hội của Đảng - là nơi đại diện cho ý chí đại đồn kết và nguyện vọng chân chính
của nhân dân ; là các tổ chức có vai trị trong việc phối hợp với chính quyền chăm lo bảo vệ
các lợi ích và nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân

Tuy nhiên; trên phương diện thực tiễn việc hiện thực hóa mục tiêu dân chủ ở nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn còn nhiều bất cập; có lúc, có nơi quyền làm chủ của nhân
dân vẫn bị vi phạm:

- Do quá độ gián tiếp tuyệt đối (“bỏ qua” chế độ TBCN); chịu ảnh hưởng bởi tư duy
“CNXH mang tính chất tiểu nông, phong kiến” như tư duy nhiệm kỳ, cục bộ địa phương, chủ
nghĩa cá nhân...- đó là các lực cản trong việc hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân

-Các điều kiện để thực hiện các thiết chế có tính chất kỹ thuật pháp lý trong việc phân
công, phối hợp và kiểm sốt QLNN cịn hạn chế

-Trình độ học vấn, văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa pháp quyền của đội ngũ
cán bộ, đảng viên và của một bộ phận nhân dân còn yếu kém, hạn chế

Tổ chức và cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam về mặt thiết chế bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội (Tổng liên đoàn lao động

Việt Nam, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam).

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã
hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị, Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.Ðảng

Cộng sản Việt Nam vừa là bộ phận của HTCT, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền,
là lực lượng lãnh đạo nhà nuớc và xã hội.Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước
ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp
chế XHCH . Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội thành viên là một
bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Ðảng Cộng sản
Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo phương
thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên..

Câu 1: Cơ sở lý luận về quyền lực chính trị
Có nhiều quan niệm khác nhau về quyền lực, Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Quyền lực là

năng lực của một chủ thể, buộc chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình, bất kể sự kháng
cự.

Quyền lực chính trị là một trong những quyền lực được xuất hiện khi xã hội có sự phân chia
giai cấp. Có nhiều cách hiểu khác nhau, song xét từ cách nhìn về thể chế thì Quyền lực chính trị là
quyền lực của của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực hiện sự thống trị chính trị; là
năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình - chủ yếu
thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Xét từ cách nhìn hành vi: Quyền
lực chính trị là khả năng định hình, kiểm sốt hành vi chính trị của người khác và lãnh đạo, chỉ dẫn
họ theo hướng mà cá nhân, nhóm, hoặc chủ thể nắm giữ quyền lực chính trị mong muốn.

Tóm lại: Quyền lực chính trị là khả năng của một chủ thể chính trị (chẳng hạn một cá nhân
là con người chính trị, một nhóm lợi ích, một đảng phái, hoặc chính phủ...) tác động, tạo ra sự
thay đổi hành vi của các chủ thể chính trị khác. Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể
trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đối với toàn xã hội.

* Các loại quyền lực trong xã hội có giai cấp cần phân biệt:

- Quyền lực công cộng (quyền lực xã hội) là quyền lực đại diện cho tất thảy mọi thành viên
trong xã hội, nó được nảy sinh từ một nhu cầu chung nào đó của cả cộng đồng xã hội (ý chí chung
của cộng đồng), nhờ vậy mà xã hội có được tính tổ chức và trật tự.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực hiện sự
thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai
cấp mình - chủ yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà
nước. Quyền lực nhà nước vừa là cơng cụ áp đặt quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, vừa thực
hiện ý chí và lợi ích chung của tồn xã hội.
* Cơ sở xã hội của quyền lực chính trị
- Quyền lực ra đời từ nhu cầu cần tuân thủ kỷ luật lao động khách quan của quá trình sản xuất:
Bất kỳ hoạt động chung nào của con người cũng đòi hỏi có người tổ chức, người chỉ huy và người
phục tùng. Đây cũng là điểm xuất phát cũng như nội dung trung tâm của phạm trù quyền lực.
Quyền lực chính trị xuất hiện là một tất yếu. Tính tất yếu đó xuất phát từ hoạt động sản xuất, phân
công lao động xã hội. Từ nhu cầu phải phối hợp trong sản xuất, xuất hiện sự cần thiết phải phục
tùng qui trình sản xuất khách quan, bất chấp tổ chức xã hội là như thế nào.
- Quyền lực chính trị ra đời là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội: Sự gắn
bó con người thành xã hội là một khuynh hướng tự nhiên, và cũng qua xã hội, bằng xã hội mà con
người mưu cầu hạnh phúc. Xã hội vận động, phát triển đến trình độ nhất định dẫn đến phân hóa
giai cấp và tất yếu xuất hiện nhà nước và quyền lực công được trao cho một giai cấp hoặc một lực
lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện sự quản lý xã hội thông
qua bộ máy nhà nước và dựa trên hệ thơng luật pháp. Q trình đó là một tất yếu khách quan để
duy trì sự tồn tại của xã hội.
Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị ln có hai chức năng: Chức năng chính trị (giai
cấp) và cơng quyền (xã hội). Xu hướng chung là quyền lực sẽ chuyển dần từ chức năng chính trị
sang chức năng cơng quyền. Trong tương lai, quyền lực sẽ mất đi tính chính trị, chỉ cịn tính chất
quản lý (nhà nước tiêu vong).
* Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị

- Quyền lực chính trị là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Khi con

người sống thành cộng đồng, quyền lực công cộng xuất hiện. Khi xã hội phân chia thành các giai
cấp, xã hội chính trị xuất hiện, quyền lực công được trao cho một giai cấp hoặc một lực lượng xã
hội nhất định nắm giữ. Giai cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện sự quản lý xã hội thông qua bộ
máy nhà nước và dựa trên hệ thống luật pháp. Q trình đó là một tất yếu khách quan để duy trì sự
tồn tại của xã hội.

- Tính giai cấp: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp trong việc giành, giữ và thực thi
quyền lực, cơ bản nhất là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp để
thực hiện lợi ích khách quan của mình. Vì vậy, quyền lực chính trị ln mang tính giai cấp.

- Quyền lực chính trị thống trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lượng xã hội giữ địa
vị thống trị về kinh tế. Đặc trưng này phản ánh mục tiêu thực chất của quyền lực chính trị là nhằm
thiết lập, duy trì một trật tự bảo vệ và phát triển các lợi ích mà căn bản và trước hết là lợi ích kinh tế
cho giai cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Quyền lực kinh tế là cơ sở để đảm bảo quyền lực về
chính trị. Quyền lực về chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền lực về kinh tế.

- Việc nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị phải đảm bào sự hài hịa giữa lợi ích giai
cấp với lợi ích chung của cộng đồng. Bất cứ giai cấp, lực lượng nào đang cầm quyền muốn duy tri,
củng cố quyền lực chính trị của mình khi thực hiện quyền lực công, quyền lực nhà nước cũng luôn
nhân danh là thực hiện công bằng xã hội và cũng phải thực hiện ở mức độ nhất định công bằng xã
hội.

- Quyền ỉực chính trị mang tính chính đáng: Quyền lực khơng bao giờ là tuyệt đối, vì ln cần
sự chấp nhận của đối tượng chịu sự chi phối. Cũng như mọi loại quyền lực, sự chấp thuận của xã
hội là yếu tố chính của việc đảm bảo việc thực thi quyền lực chính trị. Trong thực tiễn hoạt động
chính trị, tính chính đáng càng cao càng cần ít chi phí cưỡng chế và càng đạt hiệu quả cao trong
thực thi quyền lực.

- Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm soát vì quyền lực chính
trị là một loại hình quyền lực có quan hệ hai chiều: quan hệ mệnh lệnh giữa chủ thể với đối tượng

và quan hệ tuân phục giữa đối tượng và chủ thể. Trong quan hệ đó, quyền lực chỉ thực sự là quyền
lực khỉ mệnh lệnh của chủ thể được đối tượng thi hành nhanh chóng và triệt để. Khi quyền lực
không được tập trung đủ mức thì chủ thể của nó hoặc khơng ra được quyết định hoặc quyết định
khơng có hiệu lực thi hành thì khi đó thực chất chủ thể quyền lực đã mất quyền hoặc khơng có
quyền lực trên thực tế. Mặt khác, cùng vói việc tập trung quyền lực cũng phải có cơ chế kiểm sốt
nó. Đây là ngun tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước nhằm ngăn
ngừa sự tha hóa của quyền lực.

Đề 6
Câu 2: So sánh những điểm mạnh và hạn chế của các mơ hình hệ thống chính trị trên thế

giới?
* Điểm mạnh và điểm yếu của ba mô hình

a)Tiêu chí được đưa ra để so sánh ba mơ hình này thường là các giá trị dân chủ và tính
hiệu quả:

- Về các giá trị dân chủ: Hệ thống được đánh giá chủ yếu về khả năng đại diện các quyền
lợi của người dân. Tuy nhiên, quyền lợi của người dân không phải khi nào cũng dễ dàng xác định,
và ngay cả khi xác định được, thì quyền lợi đó có thể chỉ là các quyền lợi mang tính thiển cận. Đây
chính là nan giải của các nền dân chủ - "sự chuyên chế của đám đông thiển cận", khi những quyền
lợi thiển cận này lại được coi là quyền lợi có tính ép buộc phổ qt. Dân chủ phải đi đơi với sự
phịng chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước (quan liêu, tham nhũng, trục lợi, v.v.), vì dân chủ
ln bao hàm quyền lực thuộc về nhân dân.


×