Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
21
khẩu khác nhau, và những ước lượng của ông ta cho thấy một sự thiên lệch dai
dẳng gây bất lợi cho sản xuất hàng xuất khẩu nông nghiệp truyền thống như đường,
dừa, dứa, và thuốc lá.
Bautista cũng sử dụng mô hình thông số mức độ tác động tổng gộp để mô phỏng
một kòch bản ngoại thương tự do. Kết quả ở đây cũng chỉ ra một thiên lệch lớn bất
lợi cho sản xuất hàng hóa có thể xuất khẩu tương đối so với hàng hóa nội đòa và
những họạt động cạnh tranh với hàng nhập . Hàng hoá xuất khẩu truyền thống chòu
đựng gánh nặng lớn hơn so với hàng hóa xuất khẩu không phải truyền thống.
Nghiên cứu phân tích hai nguồn dao động của tỷ giá hối đoái thực ở Phi-lip-pin, đó
là các biện pháp hạn chế ngoại thương và sự thâm hụt ngoại thương kéo dài. Nói
chung, chính sách ngoại thương là một yếu tố nổi bật trong thiên lệch giá cả bất lợi
cho nông nghiệp. Cùng lúc, tác động của thâm hụt ngoại thương đối với tỷø giá hối
đoái thực giải thích tại sao, ngay cả sau khi tự do hoá những hạn chế ngoại thương
ở Phi-lip-pin vào những năm 1970, sản xuất hàng hóa nông nghiệp có thể xuất
khẩu tiếp tục bò đánh thuế, dù là tiềm ẩn.
Trong chương 7 đề cập đến Pa-kis-tan, Dorosh xây dựng một khuôn khổ đònh lượng
để đo lường tác động kết hợp của chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giáù hối
đoái và các chính sách giá nông sản đối với những động cơ khuyến khích sản xuất
nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1987. Ông ta đưa ra những số đo thuế ngoại
thương tiềm ẩn và tỷ giá hối đoái hiệu dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và hàng
hóa xuất khẩu ở Pa-kis-tan và thảo luận sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực.
Đây là chương duy nhất sử dụng phân tích hồi quy để xem xét những yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái thực. Tính nội sinh của một vài biến giải thích được
quan tâm đặc biệt (bao gồm chính sách ngoại thương, tỷ giá ngoại thương của nước
ngoài, tiền gởi về nước của công nhân, viện trợ của nước ngoài và khoản vay dài
hạn). Một vài biến số này không phải là ngoại sinh mà chúng được quyết đònh
đồng thời với tỷ giá hối đoái thực. Kết quả của phân tích hồi quy được sử dụng để
xây dựng một chuỗi thời gian cho tỷ giá hối đoái thực cân bằng, nó được so sánh
với các ước lượng dựa vào cách tiếp cận độ co giãn và ngang bằng sức mua.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
22
Nghiên cứu này cho thấy rằng sự đònh giá quá cao đồng rupee vào những năm
1960 vượt trội mức bảo hộ được tạo ra bởi các chính sách giá khu vực đối với lúa
mì, gạo thường, bông và là tăng thuế của gạo basmati. Vào những năm 1970 và
đầu những năm 1980, các chính sách trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế tăng cường
thuế trực tiếp thông qua các chính sách giá khu vực đối với lúa mì, gao basmati, và
gạo thường , dù rằng ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thực nhỏ hơn ảnh hưởng đó vào
những năm 1960. Cây mía là một câu chuyện khác: nó được bảo hộ trực tiếp đáng
kể cho tới năm 1982, và dù cho dao động trong tỷ giá hối đoái thực đang lan khắp,
sản xuất đường nhận được mức bảo hộ toàn bộ dương trong suốt giai đoạn này,
ngoại trừ những năm từ 1972 đến 1977.
Hai chương kế tiếp- đề cập đến Ác-hen-ti-na và Chi-lê -xem xét những yếu tố xác
đònh tăng trưởng nông nghiệp trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, nhấn mạnh tính
năng động của điều chỉnh kinh tế. Trong chương 8 đề cập đến Ác-hen-ti-na,
Cavallo, Mundlak, và Domenech kết luận rằng nông nghiệp là một lực lượng rất
mạnh hậu thuẩn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của quốc gia từ 1913
đến vào khoảng 1930. Sau đó, sức sống kinh tế của Ac-hen-ti-na giảm đi rõ rệt .
Dù rằng giá xuất khẩu nông sản thế giới của đất nước này giảm liên tục xét theo
giá thực, nhưng các tác giả quy mức tăng trưởng chậm hơn chủ yếu là do những
chính sách kinh tế nội đòa.
Giả thiết của nghiên cứu này là các chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế
vó mô là những yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến thành quả kinh tế. Các tác giả đã
xây dựng mô hình kinh tế lượng để xem xét những ảnh hưởng động của một cuộc
cải cách chính sách giả thiết vào năm 1930. Để mô phỏng những ảnh hưởng của tự
do hóa ngoại thương, họ ước lượng những phương trình hành vi đối với tiêu dùng,
đầu tư tư nhân và phân bổ giữa các khu vực của đầu tư, tỷ trọng các yếu tố, mức thu
dụng lao động, sản lượng, và các dòng ngoại thương. Phân tích thực nghiệm này
tiên đoán mức tăng trưởng cao hơn đáng kể của nông nghiệp so với năm gốc, chủ
yếu là do tích lũy vốn nhanh chóng trong nông nghiệp và mức tăng trưởng sản
lượng phi nông nghiệp nhanh hơn. Trong chừng mực mà những công nghệ mới
được hàm chứa trong hàng hóa tư bản, đầu tư mới trong nông nghiệp có tác động
tích cực đến mức năng suất trong nông nghiệp vượt quá mức có thể quy cho sự tăng
cường vốn. Kết quả mô phỏng cũng chỉ ra sự đánh đổi rất lớn giữa việc bảo vệ tiền
công thực ở nông thôn và thành quả của nền kinh tế.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
23
Trong chương 9 đề cập đến Chi lê, Coeymans và Mundak xây dựng một mô hình
tăng trưởng trong đó những khu vực sản xuất (nông nghiệp, khai khoáng, dòch vụ,
và công nghiệp chế tạo) liên kết rõ ràng thông qua ma trận nhập lượng -xuất lượng.
Mô hình này được xây dựng theo cách cho phép các tác giả phân tích những tác
động của những sự kiện trước mắt đối với tăng trưởng khu vực và vì vậy giống với
mô hình mà họ đã sử dụng để nghiên cứu ở Ác-hen-ti-na. Tuy nhiên trong chương
9 các tác giả đưa ra một cơ cấu cục bộ hơn của các mối liên kết giữa nông nghiệp
và những khu vực khác. Sự thay đổi công nghệ, đầu tư khu vực, cung và cầu lao
động khu vực được quyết đònh một cách nội sinh từ một mô hình ước lượng kinh tế
lượng trong giai đoạn 1962-1982.
Dù đây là giai đoạn bất ổn đònh đối với nền kinh tế Chi lê -do những thay đổi
trong tỷ giá ngoại thương, do bất ổn đònh chính trò, và do những thay đổi trong
chính sách kinh tế - mô hình này có thể nắm bắt được những thay đổi trong việc thu
dụng lao động và sử dụng vốn, di dân giữa các vùng, tiền lương và lợi tức vốn,
trong số các biến nội sinh khác.
Các tác giả trình bày 3 mô phỏng chính sách bao gồm những thay đổi trong giá của
sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp và trong tỷ giá hối đoái thực. Sử dụng những
mức đầu tư gộp và cung lao động trong quá khứ, họ tìm thấy rằng những thay đổi
mang tính giả thiết trong giá tương đối ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực một
cách đáng kể: lao động và vốân dòch chuyển đến những khu vực có suất sinh lợi cao
hơn. Trong mô phỏng này, tỷ lệ vốn - lao động trong nông nghiệp giảm liên tục và
độ co giãn của đường tổng cung dài hạn đối với nông nghiệp là 1,4. Ước lượng độ
co giãn này cao hơn một cách đáng kể so với ước lượng thu được từ những quốc gia
khác trong phân tích hồi quy phương trình đơn vốn không tính đến những tác động
của sự thay đổi trong giá nông sản trên thò trường các yếu tố sản xuất (xem Herdt
1970; Reca 1980; và Bond 1983)
4
. Nó cũng cao hơn một cách đáng kể so với
những ước lượng được đưa ra bởi những người theo trường phái cơ cấu vào những
thập niên 1950 và 1960 về mức độ đáp ứng của tổng cung nông nhiệp đối với
những động cơ khuyến khích ở Châu Mỹ La Tinh.
Những cuộc khảo sát toàn khu vực ở chương 10 (Châu Á), 11 (Châu Phi), và 12
(Châu Mỹ La Tinh) tổng kết một số kết quả tìm thấy trong những nghiên cứu khác
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
24
về mức độ chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô đã ảnh hưởng đến
động cơ khuyến khích nông nghiệp trong các quốc gia đang phát triển. Điểm
chung là nông nghiệp trong các quốc gia đang phát triển, đặc biệt nhất là xuất khẩu
nông sản, đã chòu một gánh nặng thuế tiềm ẩn lớn do bảo hộ công nghiệp, sự lên
giá tỷ giá hối đoái thực, và các chính sách kinh tế vó mô liên quan khác.
Hầu hết các quốc gia trong 3 khu vực đều có nền kinh tế tương đối mở, với ngoại
thương đóng góp 25% hoặc nhiều hơn trong GDP. Ngoại thương của họ chủ yếu là
xuất khẩu nông sản, mà thành quả xuất khẩu này có ý nghóa lớn đối với nguồn thu
ngoại tệ của họ. Tuy nhiên, những mối liên kết giữa các chính sách kinh tế vó mô
và nông nghiệp vượt ra ngoài mức đóng góp của khu vực đối với nguồn thu ngoại
tệ. Chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô ảnh hưởng lên toàn bộ cơ
cấu giá tương đối, chủ yếu thông qua cơ chế tỷ giá hối đoái thực. Tiền đề trung
tâm trong tác phẩm này là, xét mức độ có thể ngoại thương cao của nông sản, tỷ
giá hối đoái thực có lẽ là biến số có ảnh hưỏng lớn nhất đến cơ cấu khuyến khích
giá đối với nông nghiệp. Vì vậy, lý thuyết xác đònh tỷ giá hối đoái thực phù hợp
đặc biệt trong việc đánh giá thực nghiệm những tác động của chính sách trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế và trong từng khu vực chuyên biệt đối với những động
cơ khuyến khích nông nghiệp .
Trong số nhiều tác động chính sách đối với động cơ khuyến khích nông nghiệp,
bảo hộ công nghiệp dường như là phổ biến nhất. Thí dụ, trong trường hợp Phi
Châu, Oyjide thấy rằng xuất khẩu nông sản của Côte d’Ioire và Mauritius chòu
mức thuế hơn 80% của việc bảo hộ đối với khu vực công nghiệp trong những quốc
gia đó suốt những năm 1970 và đầu những năm 1980. Bằng chứng được nêu ra bởi
Bautisa đối với khu vực Châu Á và García García đối với khu vực Châu Mỹ La
Tinh cho thấy rằng những nhà xuất khẩu nông sản trong những khu vực đó, cùng
với những nhà sản xuất sản phẩm cạnh tranh với hàng nhập khẩu không được bảo
hộ, đã phải trả ít nhất là một nửa chi phí của sự bảo hộ cao đối với ngành công
nghiệp nội đòa.
Chi tiêu của chính phủ là một biến số chính sách nữa có ảnh hưởng đến tỷ giá hối
đoái thực. Đặc biệt trong trường hợp của Châu Mỹ La Tinh và vùng Phi châu hạ
Sahara, tỷ giá hối đoái thực thường lên giá do thiếu kỷ cương thu chi ngân sách.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
25
Điều này làm tổn hại đến khả năng sinh lợi tương đối của việc sản xuất ra hàng
hóa có thể ngoại thương và kìm hãm mức tăng sản lượng.
Nông nghiệp đóng một vai trò tương tự nổi bật trong những chiến lược phát triển
của ba khu vực này. Nét chung của ba chiến lược này là sự nhấn mạnh của chúng
vào công nghiệp hóa như là yếu tố then chốt đối với tăng trưởng kinh tế, được tài
trợ một phần thông qua chuyển giao nguồn lực từ nông nghiệp. Thứ nhì, nhiều
quốc gia dựa chủ yếu vào thuế từ ngoại thương như nguồn thu của chính phủ, thực
tế là một gánh nặng thuế không thể tránh khỏi đối với xuất khẩu nông nghiệp.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của các cuộc khảo sát ba khu vực này là,
nhìn chung, những tác động gián tiếp của các chính sách trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế mạnh hơn tác động trực tiếp củøa các chính sách chuyên biệt theo khu vực
kinh tế. Những cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng có mối liên kết mạnh mẽ giữa
các chính sách kinh tế vó mô và tiền lương (và công việc làm) trong nông nghiệp ở
nhiều quốc gia: ở Ni-giê-ri-a, nơi mà đáp ứng chính sách đối với căn bệnh Hà lan
vào những năm 1970 tạo ra tình trạng khó khăn trong chi phí lao động dẫn đến mất
mát rất lớn khả năng cạnh tranh của khu vực nông nghiệp, và ở Cô-lôm-bia và Chi
lê, nơi mà những chính sách kinh tế vó mô được thực hiện suốt thập niên 1960 và
1970 đã dẫn đến sự giảm sút đáng kể trong tiền công thực ở khu vực nông thôn và
việc làm trong nông nghiệp.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
26
Nhận xét để kết luận:
Sự kiện chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô trong nhiều nền kinh
tế chủ yếu là nông nghiệp biểu hiện thiên lệch giá cả bất lợi cho nông nghiệp đáng
kể có ý nghóa là hiệu quả kinh tế và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn không phải
là mối bận tâm duy nhất của những nhà hoạch đònh chính sách trong các quốc gia
đang phát triển. Mặc dù những nghiên cứu quốc gia trong quyển sách này tập trung
vào những tác động của chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô,
nhưng họ không xem xét lý do tại sao các chính phủ chấp nhận thực hiện những
chính sách gây biến dạng và tại sao những nhà hoạch đònh chính sách đã không thể
hoặc là không sẵn lòng sửa chữa chúng.
Một vài quốc gia miễn cưỡng chuyển sang một cơ cấu khuyến khích trung hòa hơn
(hay ít bò biến dạng hơn) thông qua việc cải cách chính sách ngoại thương bởi vì
họ nghó sự biến động trong ngắn hạn của giá quốc tế sẽ lan truyền một cách đầy đủ
hơn vào cơ cấu giá nội đòa dưới chế độ ngoại thương mở cửa hơn. Sự ổn đònh giá
trong nông nghiệp có tầm quan trọng đủ để xứng đáng có một cuộc thảo luận chi
tiết, thảo luận này được đưa ra trong chương 13. Luận điểm quan trọng được
Knudsen và Nash đưa ra là giá nội đòa trung bình trong dài hạn phù hợp với xu
hướng giá thế giới không ngăn cản những nỗ lực của chính phủ ổn đònh giá nông
sản trong ngắn hạn.
Những người làm chính sách ở các quốc gia đang phát triển cũng quan tâm một
cách sâu sắc đến những tác động tiêu cực trong ngắn hạn về thu chi ngân sách, về
cán cân thanh toán, và tăng trưởng mà sự điều chỉnh sang chế độ ngoại thương tự
do hơn có thể kéo theo. Vấn đề chính sách này được thảo luận trong chương 15 với
sự tham chiếu đặc biệt đến các quốc gia đang phát triển nào bò hạn chế trong việc
tiếp cận nguồn tín dụng thương mại và cần thực hiện điều chỉnh kinh tế vó mô để
xử lý các vấn đề khó khăn liên quan về việc trả gốc và lãi nợ nước ngoài, thiếu hụt
ngoại tệ, hoạt động kinh tế bò kìm hãm.
Những nghiên cứu quốc gia và các cuộc khảo sát khu vực không xem xét những
yếu tố chính trò liên quan đến sự biến dạng được quan sát trong giá nông sản. Dó
nhiên điều quan trọng là nhận ra được những giới hạn chính trò trong việc lựa chọn
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
27
các chính sách kinh tế đặc biệt là “việc xác đònh giá nông sản mang tính chính trò
rất cao” (Ahmed và Mellor 1988, 1). Quả thật, thường các chính phủ không chấp
nhận những chính sách giá tốt hơn vì những lý do chính trò. Những nhà hoạch đònh
chính sách không chỉ diễu hành một cách đơn điệu theo tiếng trống của các nhà
kinh tế. Ngoài sự hợp lý về kinh tế, yếu tố quan trọng trong việc hoạch đònh chính
sách hiệu quả là tính khả thi về chính trò. Tuy nhiên khó mà không đồng ý với
Schultz rằng những nhà phân tích chính sách “đánh mất tiềm năng của họ như là
những nhà giáo dục” nếu họ “chỉ đơn thuần thích nghi với chính phủ” và “hợp lý
hoá những gì đang được thực hiện” (Schultz 1978, 9). Kinh nghiệm của nhiều
quốc gia đang phát triển cho thấy quá rõ sự khác nhau rõ nét giữa một mặt là
những tuyên bố chính thức về những mục tiêu hướng đến phúc lợi xã hội và mặt
khác là những sở thích ưu tiên được bộc lộ của chính phủ.
Thay vì có một cái nhìn thụ đông và chòu sự quyết đònh của quá trình chính trò,
những nhà kinh tế có thể nỗ lực cải thiện kiến thức làm cơ sở cho hoạch đònh chính
sách và đánh giá sự đánh đổi của những chính sách, dựa vào lý thuyết kinh tế và
bằng chứng thực nghiệm để cung cấp, thí dụ như, những ước lượng các tác động
kinh tế của chính sách hiện hành của chính phủ và của bất kỳ thay đổi chính sách
nào được đề nghò. Như Krueger chỉ ra trong chương 14, vai trò của kiến thức trong
việc ảnh hưởng đến chính sách có thể là rất lớn. Sự hiểu biết tăng lên của công
chúng về lợi ích của tự do hoá ngoại thương và tỷ giá hối đoái có thể giúp tạo ra
những áp lực chính trò cân bằng lại những nhóm đồng quyền lợi đang tìm cách để
duy trì bảo hộ công nghiệp với tổn phí do nông nghiệp và phần còn lại của nền
kinh tế gánh chòu. Sự hiểu biết cũng tạo ra sự cảm nhận về tính hợp pháp của
những quyết đònh chính trò ảnh hưởng đến chính sách kinh tế, mà nhờ đó chúng có
thể được thực hiện dễ dàng hơn.
Những người làm chính sách không phải là một nhóm đồng nhất. Rất có thể là có
những luận điểm khác nhau trong cuộc tranh luận chính sách bên trong chính phủ.
Ngoại trừ khi có một cá nhân hoặc một hệ tư tưởng mạnh thống trò, sự nhất trí hoàn
toàn về các lựa chọn chính sách vốn tạo ra nhiều người hưởng lợi và nhiều người
bò tổn thất trong số những khu vực cử tri khác nhau thì rất hiếm. Không rõ là liệu
những người thủ lónh có chấp nhận một tập hợp chính sách kinh tế bất kỳ nào mà
không có kiến thức về những tác động có thể xảy ra của nó đến giá tương đối và
phân phối lợi ích ròng liên quan hay không.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
28
Vì vậy những kết quả của phân tích thực chứng (đối nghòch với phân tích chuẩn
tắc) là một nhập lượng quan trọng trong hoạch đònh chính sách, đóng góp vào cuộc
thảo luận có cơ sở, cả bên trong và bên ngoài chính phủ, về những giá trò tương đối
của những chính sách kinh tế thay thế. Lập luận này giả đònh có áp lực lớn hơn
trong những trường hợp mà trong đó tác động gián tiếp của chính sách chính phủ
không thể dễ dàng nhận ra được. Trong bối cảnh hiện thời, như đã được chỉ ra ở
trên và chứng minh rõ ràng trong những nghiên cứu quốc gia, các tác động gián
tiếp về giá, sản lượng, và phân phối của chính sách ngoại thương và chính sách
kinh tế vó mô, được đánh giá trên quan điểm cân bằng tổng quát, thường khác biệt
với và luôn vượt trội các tác động cân bằng từng phần trực tiếp. Những người làm
chính sách (hoặc ít nhất là những người cố vấn của họ) cần biết những hậu quả
không dự tính trước của những chính sách đã được chấp nhận thực hiện và giữ tỉnh
táo đối với những hậu quả gián tiếp và trực tiếp có thể xảy ra của những thay đổi
chính sách được đề nghò.
Ghi chú chương 1:
1. Thí dụ ở Ni-giê-ria xuất khẩu nông sản như cô-ca, cao su, bông, dầu cọ, hạt dầu
cọ và đậu lạc chòu thuế từ 5-60% trong suốt thập niên 1960 và đầu thập niên
1970 (Oyejide 1986a, 25). Ở phi-lip-pin, đường thuộc độc quyền chính phủ
trong cả thò trường nội đòa và thò trường nước ngoài từ năm 1974 đến năm 1980,
và những nhà sản xuất nhận được trung bình là 77% giá thế giới( Bautisa
1987b, 27).
2. Có thể rằng thu nhập bình quân đầu người của quốc gia và tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP có thể bò ảnh hưởng đáng kể do việc bảo hộ danh nghóa những sản
phẩm nông nghiệp chủ yếu của nó. Đến lượt, những yếu tố quan trọng hơn
khác, (không liên quan đến bảo hộ nông nghiệp) là cơ sở của những khác nhau
giữa các quốc gia trong thu nhập bình quân đầu người và tỷ trọng nông nghiệp.
3. Dưới giả thiết nước nhỏ, ngoại thương của một nước quá nhỏ nên không thể ảnh
hưởng đáng kể đến giá thế giới của hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu của nó.
4. Những nghiên cứu được trích dẫn thường xuyên của Bond về độ đáp ứng của
cung nông nghiệp trong vùng Châu Phi hạ Sahara đã nhầm lẫn trong việc sử
dụng sản lượng bình quân đầu người như là biến độc lập ( Schiff 1987, 385)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp
R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng
29
Tài liệu được dòch từ nguyên bản BIAS AGAINST AGRICULTURE: TRADE AND MACROECONOMIC
POLICIES IN DEVELOPING COUNTRIES (Chapter 1: The Relevance of Trade and Macroeconomic
Policies for Agriculture) của ROMEO M. BAUTISTA. Bản quyền 1993 của I C S PRESS/
CONTEMPORARY STUDIES. Tài liệu được phép sử dụng của I C S PRESS/ CONTEMPORARY
STUDIES thông qua Copyright Clearance Center, được phép truy cập Internet đến ngày 25/02/2005.