Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Khóa luận tôt nghiệp vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thông chính sách về lĩnh vực y tế ở thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.21 KB, 66 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA BÁO CHÍ TRONG XỬLÝ KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THƠNG CHÍNH SÁCH VỀ LĨNH VỰCY TẾ...8</b>

1.1. Một số khái niệm cơ bản...8 1.2. Báo chí và vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế...12 1.3. Sự cần thiết phải phát huy vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế...18

<b>Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG XỬ LÝKHỦNG HOẢNG TRUYỀN THƠNG CHÍNH SÁCH VỀ LĨNH VỰC YTẾ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY...23</b>

2.1. Những yếu tố tác động đến vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế...23 2.2. Thực trạng vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế...28

<b>Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONGXỬ LÝ KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THƠNG CHÍNH SÁCH VỀ LĨNHVỰC Y TẾ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI...47</b>

3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và các cơ quan quản lý báo chí đối với cơng tác thơng tin tun truyền và quản lý báo chí nói chung, với quản lý truyền thơng chính sách về y tế nói riêng...47 3.2. Đề cao tính khuynh hướng của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách...49 3.3. Gia tăng hàm lượng khoa học trong thông tin của báo chí...51 3.4. Đề cao tính đồng thuận xã hội của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách...52 3.5. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ làm báo...54 3.6. Hồn thiện cơ chế chính sách, đảm bảo đời sống cho cán bộ làm báo và cán bộ truyền thơng chính sách...56

<b>KẾT LUẬN...58TÀI LIỆU THAM KHẢO...60</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài</b>

Truyền thơng chính sách là nhiệm vụ quan trọng trong cơng tác truyền thông của các cơ quan quản lý nhà nước và là một bước không thể thiếu trong tổ chức thực hiện chính sách. Vậy nên trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam vơ cùng quan tâm đến cơng tác truyền thơng chính sách, ln u cầu hoạt động truyền thơng chính sách phải công khai, minh bạch, công bố rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, hướng đến phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Trong q trình truyền thơng, xảy ra khủng hoảng là điều không thể tránh. Khủng hoảng truyền thông hiện khơng cịn là thuật ngữ xa lạ trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Khủng hoảng truyền thông không chỉ tạo ra dư luận tiêu cực trong xã hội, gây hoang mang, bức xúc cho người dân mà còn ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội.

Báo chí là hoạt động truyền thơng đại chúng năng động, là trung tâm của phương tiện truyền thông đại chúng…Với thơng tin nhanh chóng, chính xác, trung thực, khách quan và đa chiều, báo chí Việt Nam đã trở thành diễn đàn của đông đảo quần chúng nhân dân, là nơi trao đổi ý kiến, luận bàn các vấn đề quan trọng của cuộc sống, để vừa giám sát, vừa phản biện hoạt động của các cơ quan công quyền nói riêng và của tồn xã hội nói chung. Báo chí có vai trị khơng thể thay thế trong định hướng dư luận xã hội, góp phần thúc đẩy giải quyết xử lý khủng hoảng truyền thơng. Vai trị báo chí đặt ra khi xử lý khủng hoảng vừa phải hướng đến các đối tượng cơng chúng nói chung, vừa phải quan tâm tới nhu cầu thông tin của các nhóm cơng chúng cụ thể.

Báo chí và nhà báo là đối tượng quan trọng chi phối việc hình thành dư luận xã hội một cách chính thức trong tất cả các tình huống có khả năng gây khủng hoảng cho các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp thuộc ở nước ta hiện nay. Trong việc hình thành, biến đổi khủng hoảng, giới báo chí và các cơ quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

truyền thơng đại chúng có khả năng tác động theo nhiều chiều hướng khác nhau. Với nguyên tắc hoạt động hướng tới việc đưa tin khách quan, trung thực, vì lợi ích của cơng chúng, báo chí ln tìm kiếm sự thật, phơi bày khủng hoảng ra trước công chúng, cung cấp thông tin cho công chúng.

Ngành y tế là ngành rất nhạy cảm vì liên quan đến tính mạng, sức khỏe của tất cả mọi người dân, cho nên thông tin y tế luôn dành được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc và sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan truyền thông. Bộ Y tế luôn coi trọng và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thơng tấn báo chí nhằm góp phần rất quan trọng, hiệu quả hơn trong việc cung cấp thông tin lĩnh vực y tế, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân.

Vai trị của báo chí trong truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế là giúp tuyên truyền phổ biến kiến thức, chính sách, mục tiêu, hoạt động của ngành y tế đến với người dân. Báo chí ln là kênh phát hiện những bất cập, bất hợp lý trong các văn bản pháp luật, những quy định không phù hợp, lỗi thời, chồng chéo của hệ thống pháp luật để kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung và hồn thiện. Bên cạnh đó, báo chí cịn phát hiện những vấn đề còn bỏ ngỏ, thiếu sự điều chỉnh của pháp luật đề các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. Thời gian qua báo chí đã phản ánh những đề xuất, kiến nghị của người dân với Đảng, Nhà nước về các chính sách, các quy định pháp luật chưa thật phù hợp, về những bất cập, những vướng mắc, bức xúc trong thực tiễn thi hành, chấp hành pháp luật. Báo chí góp phần phản ánh thực tiễn thi hành chính sách y tế và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ, biểu dương người tốt - việc tốt trong chấp hành chính sách, lên án, phê phán những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, tạo niềm tin vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân.

Mặc dù truyền thông được coi là một trong những ưu tiên của ngành y tế, nhưng trong quá trình triển khai vẫn xảy ra khủng hoảng truyền thông. Đặc biệt là trong những năm gần đây, đại dịch Covid-19 xuất hiện đã gây nên một cuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

khủng hoảng y tế nguy hiểm nhất trong lịch sử hiện đại của loài người, làm đảo lộn cuộc sống của hàng tỷ người và lấy đi tính mạng của hàng triệu người trên thế giới. Đại dịch Covid-19 cũng dẫn đến cuộc khủng hoảng thông tin, đặc biệt là khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế. Thơng tin thiếu kiểm chứng, giả, sai lệch về dịch bệnh lan tràn, gây hoang mang và làm suy giảm niềm tin của người dân vào các chính sách của nhà nước. Chính trong bối cảnh đó, báo chí càng cần khẳng định và làm tốt vai trị, trách nhiệm của mình trong xử lý khủng hoảng truyền thông, đặc là xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế.

Vậy nên việc nghiên cứu vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách là vô cùng cần thiết. Tôi quyết định chọn phân tích

<i><b>“Vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnhvực y tế ở thành phố Hà Nội hiện nay” để có thể giúp mọi người hiểu cụ thể</b></i>

hơn về vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách tại Việt Nam hiện nay.

<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>

Vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách ngày càng trở nên quan trọng đối với các đơn vị trong quá trình xử lý khủng hoảng truyền thơng. Chính vì vậy, số lượng sách, tài liệu viết về vấn đề báo chí xử lý khủng hoảng truyền thông cũng đã xuất hiện với số lượng lớn. Cụ thế:

Cơng trình nghiên cứu về báo chí:

- Sách “Cơ sở lý luận báo chí” (2012) của tác giả Nguyễn Văn Dững. Chủ yếu cung cấp những kiến thức cơ bản và hệ thống về hệ thống khái niệm cơ bản của lý luận báo chí.

- Sách "Báo chí và dư luận xã hội" (NXB Lao Động) của PGS, TS Nguyễn Văn Dững đã khẳng định vai trò và cơ chế tác động của công chúng đến ý thức xã hội, thông qua lớp màng mỏng nhất của ý thức quần chúng là dư luận xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Sách “Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở Việt Nam hiện nay” (2010) do TS Hoàng Quốc Bảo làm chủ biên. Từ những nghiên cứu trên thực tiễn cuốn sách đã đưa ra những vấn đề đặt ra đối với hoạt động báo chí và quản lý hoạt động báo chí ở nước ta hiện nay.

Cơng trình nghiên cứu về truyền thơng:

- Sách “Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” (2012) của tác giả Nguyễn Văn Dững (chủ biên) và Đỗ Thị Thu Hằng. Cuốn sách đề cập đến những kiến thức lý thuyết và kỹ năng truyền thông cơ bản, giúp người đọc tạo lập kiến thức nền tảng và nâng cao kỹ năng về giao tiếp - truyền thông - vận động xã hội trong hoạt động truyền thơng và báo chí.

- Sách “Truyền thơng đại chúng” (2001) của tác giả Tạ Ngọc Tấn. Cuốn sách cung cấp cho người học những hiểu biết cơ bản, có hệ thống về các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại.

- Sách “Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển” (2008), tác giả Lưu Văn An. Đây là một cơng trình nghiên cứu khá tồn diện, đưa ra những đánh giá mang tính khách quan về những giá trị và hạn chế của truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển; từ đó rút ra ý nghĩa, những giá trị phù hợp nhằm phát triển truyền thơng đại chúng ở Việt Nam.

Cơng trình nghiên cứu về Truyền thơng chính sách:

- Sách “Chính sách cơng - Những vấn đề cơ bản” (2014) của tác giá Nguyễn Hữu Hải. Cuốn sách cung cấp những kiến thức lý luận chung nhất về chính sách cơng như: q trình phát triển khoa học chính sách; đặc điểm, vai trị và phân loại chính sách cơng.

- Sách “Giám sát và đánh giá chính sách cơng” (2016) của tác giả Lê Văn Hịa. Nội dung cuốn sách nêu rõ những vấn đề cơ bản về giám sát và đánh giá chính sách cơng; những vấn đề cơ bản về đánh giá tác động; đo lường kết quả thực hiện chính sách cơng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Sách “Truyền thơng chính sách kinh nghiệm Việt Nam và Hàn Quốc” (2017) của Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Báo Đại biểu nhân dân, Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc. Cuốn sách được chia thành hai phần: Phần thứ nhất cung cấp những vấn đề lý luận về truyền thông chính sách. Phần thứ hai tập trung phân tích kinh nghiệm của Việt Nam và Hàn Quốc về truyền thông chính sách.

- Sách “Lý thuyết và kỹ năng truyền thơng chính sách” của TS Lương Ngọc Vĩnh (chủ biên): giúp tác giả nắm được những kiến thức, kỹ năng cơ bản về truyền thơng chính sách.

Cơng trình nghiên cứu về Khủng hoảng truyền thơng:

- Luận văn Thạc sĩ Báo chí học “Vai trị báo chí truyền thơng với xử lý khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng (Khảo sát một số trường hợp tiêu biểu từ năm 2010 - 2013)” năm 2014 của tác giả Phạm Thúy Phương.

- Luận văn Thạc sĩ Quan hệ cơng chúng “Vai trị của người phát ngôn trong xử lý khủng hoảng truyền thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Khảo sát từ tháng 1/2016 đến tháng 8/2017)” năm 2018 của tác giả Đỗ Thị Bích Loan.

Qua những cơng trình nghiên cứu trên cho thấy: Trên thực tế, đã xuất hiện những đề tài nghiên cứu về xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách và được nghiên cứu chun sâu. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào tiếp cận dưới góc độ vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế. Do vậy đề tài khóa luận của tác giả có tính mới, khơng trùng lặp với các cơng trình trước đó. Đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quý báu để tác giả hồn thành đề tài của mình.

<b>3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>

<i><b>3.1. Mục đích nghiên cứu</b></i>

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách y tế, khóa luận đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyền thơng chính sách y tế ở Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i><b>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</b></i>

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế ở Hà Nội hiện nay.

Khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế ở Hà Nội hiện nay.

Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế ở Hà Nội trong thời gian sắp tới.

<b>4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>4.1. Đối tượng</b></i>

Vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế ở Hà Nội hiện nay.

Khóa luận được thực hiện dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin; chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí - truyền thơng;... Khóa luận sử dụng một số lý thuyết về truyền thơng đại chúng; các giáo trình về báo chí - truyền thơng, về vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế.

<i><b>5.2. Phương pháp nghiên cứu</b></i>

Đề tài sử dụng các phương pháp: phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu; phương pháp phân tích nội dung; phương pháp nghiên cứu trường hợp; phương pháp quan sát.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn</b>

<i><b>6.1. Ý nghĩa lý luận</b></i>

Làm phong phú thêm nhận thức về vai trò của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách, khái quát kinh nghiệm về việc phát huy vai trị của báo chí trong cơng tác này.

<i><b>6.2. Ý nghĩa thực tiễn</b></i>

Khóa luận nghiên cứu một cách tổng quát, chuyên sâu, đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát huy vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng của truyền thơng chính sách ở nước ta hiện nay. Khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập của các cơ sở đào tạo, các trung tâm bồi dưỡng báo chí; cho các cơ quan quản lý báo chí, các nhà báo, nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên, sinh viên báo chí.

<b>7.Kết cấu của đề tài</b>

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung khóa luận được cấu trúc gồm 3 chương, 11 tiết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>Chương 1</b>

<b>CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA BÁO CHÍ TRONG XỬ LÝ KHỦNGHOẢNG TRUYỀN THƠNG CHÍNH SÁCH VỀ LĨNH VỰC Y TẾ</b>

<b>1.1. Một số khái niệm cơ bản</b>

<i><b>1.1.1. Báo chí là gì?</b></i>

Báo chí là hiện tượng xã hội phổ biến, phát triển từng ngày và tác động, chi phối đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Nhưng cho đến nay, chưa có sự thống nhất ở mức độ tương đối về khái niệm này, thậm chí trong sách, giáo trình chính thức bằng tiếng Việt, kể cả tiếng nước ngoài cũng chưa thấy đưa ra khái niệm báo chí là gì.

Ở góc tiếp cận từ lý thuyết, báo chí được coi là “những tư liệu sinh hoạt tinh thần nhằm thơng tin và nói rõ về những sự kiện thời sự đã và đang diễn ra cho một nhóm đối tượng nhất định, nhằm mục đích nhất định, xuất bản định kỳ, đều đặn. Tuy nhiên, quan niệm này chỉ mới nhìn bề ngồi - sản phẩm báo chí, có thể nhìn thấy mà chưa phản ánh được những thuộc tính, những mối quan hệ bản chất phức tạp bên trong của hiện tượng xã hội này.

Theo nghĩa hẹp, báo chí được hiểu bao gồm báo và tạp chí; theo nghĩa rộng, bao gồm các loại hình báo chí: báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ và phương thức truyền thông đa dạng, báo chí gắn với truyền thơng xã hội, mạng xã hội; giới báo chí có thể được gọi chung là giới truyền thông.

Theo quan niệm từ trước đến nay: Báo chí là loại hình các phương tiện truyền thơng đại chúng được cơ quan thẩm quyền cấp phép hoạt động, có nhiệm vụ chuyển tải thơng tin nhanh nhất, mới mẻ nhất đến cho đơng đảo cơng chúng, nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn. Đặc điểm nổi bật của báo chí chính là tính cơng khai và sự lan tỏa nhanh chóng, rộng khắp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i><b>1.1.2. Truyền thơng là gì?</b></i>

Trong thực tiễn truyền thơng đã có từ rất lâu đời, hoạt động truyền thông vốn là một hoạt động bản nguyên của con người. Ngay từ thời cổ đại, truyền thông đã là phương tiện, công cụ để con người biểu đạt tâm tư, suy nghĩ, tình cảm mà thời kỳ đó phương thức truyền thơng phổ biến, thô sơ được biết đến như là những động tác, cử chỉ, kí hiệu từ đó mà sau này hình thành nên chữ viết hay như những tiếng hú, kêu, dần dần chuyển thành tiếng nói.

Cho tới nay có đến hàng ngàn định nghĩa, khái niệm về truyền thơng, tùy theo góc độ tìm hiểu và nghiên cứu, người ta đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thông.

Trong cuốn "Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản" do PGS.TS Nguyễn Văn Dững chủ biên đã nêu ra khái niệm về truyền thơng như sau: "Truyền thơng là q trình liên tục trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của cộng đồng và xã hội.

Trong cuốn “Truyền thông đại chúng" của GS.TS Tạ Ngọc Tấn – một nhà nghiên cứu truyền thông tại Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.2001): “Truyền thơng là sự trao đổi thơng điệp giữa nhóm người trong xã hội, nhằm đạt được hiểu biết lẫn nhau". Nói một cách ngắn gọn, truyền thơng là một q trình truyền đạt thơng tin.

Ngồi ra, có thể dẫn ra hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về truyền thông. Mỗi định nghĩa, quan niệm lại có những khía cạnh hợp lý riêng. Tuy nhiên, dù có hàng trăm định nghĩa khác nhau về truyền thơng, tiếp cận, nhìn nhận theo những phương diện khác nhau như xã hội học, truyền tín hiệu...về cơ bản, các định nghĩa này đều đề cập đến các nội dung chung nhất sau đây: Truyền thơng là q trình truyền tải và tiếp nhận thông tin giữa nguồn phát và người nhận nhằm tăng cường khả năng hiểu biết lẫn nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i><b>1.1.3. Khủng hoảng truyền thơng là gì?</b></i>

Hiện nay có rất nhiều các định nghĩa khác nhau của các chuyên gia, học giả, các nhà nghiên cứu đề cập đến khái niệm khủng hoảng truyền thơng. Trên góc độ nghiên cứu tác giả xin đưa ra 4 cách tiếp cận khái niệm này như sau:

Theo PGS.TS. Đinh Thị Thúy Hằng đề cập trong cuốn PR - Lý luận và ứng dụng có đoạn: Theo Bernstein - Chun gia truyền thơng Mỹ: “Khủng hoảng là tình thể đe dọa nghiêm trọng tới uy tín, làm gián đoạn nghiêm trọng cơng việc hoặc hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng tiêu cực tới giá trị cổ phiếu. ".Với cách tiếp cận của Bernstein có thể khẳng định khủng hoảng luôn bắt đầu từ một sự cố mà nó đưa doanh nghiệp vào một tình thế khó khăn đe dọa và gây ảnh hưởng xấu đến tài sản của doanh nghiệp.

Khủng hoảng đó là sự mất cân bằng giữa những yêu cầu do một tình huống, một vấn đề đặc biệt đặt ra và nỗ lực sẵn có để giải quyết những nhu cầu đó. Khi những nguồn lực thơng thường để giải quyết tình huống khơng có tác dụng và nỗ lực để làm giảm thiểu khó khăn đó cũng khơng mang lại giá trị, con người bước vào thời kỳ mâu thuẫn. Khủng hoảng đó là sự mâu thuẫn bên trong giữa nhu cầu phát sinh trong một tình huống xã hội mới và năng lực thỏa mãn nhu cầu ấy.

Cũng có thể khủng hoảng diễn ra triền miên trong cuộc sống của một con người, song chắc chắn khủng hoảng không tồn tại mãi mãi, nếu chúng ta biết cách đương đầu, xử lý khủng hoảng khéo léo, chuyên nghiệp.

Tóm lại, khủng hoảng là trạng thái mất cân bằng về hoạt động cảm xúc và lý trí khi một người phải đối diện với một sự kiện xảy ra bất ngờ, thường là những sự kiện có nguy cơ gây nguy hại; hoặc đối diện với một giai đoạn chuyển tiếp trong phát triển có độ thách thức cao.

<i><b>1.1.4. Truyền thơng chính sách là gì?</b></i>

Theo tác giả Đỗ Phú Hải, truyền thơng chính sách đóng vai trị quan trọng đối với mỗi khâu của chu trình chính sách cơng. Khâu hoạch định chính sách,

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

truyền thơng chính sách giúp xác định được đúng và trúng vấn đề chính sách, bảo đảm sự đồng thuận xã hội. Trong khâu xây dựng chính sách, truyền thơng chính sách giúp q trình lựa chọn giải pháp cơng cụ chính sách phù hợp. Trong khâu thực hiện chính sách, truyền thơng chính sách giúp cho giám sát chính sách cơng được thực hiện với sự tham gia của cả xã hội. Khâu đánh giá truyền thơng chính sách giúp làm rõ được kết quả chính sách, đồng thời tuyên truyền cho kết quả chính sách, giúp sửa đổi, bổ sung, hồn thiện chính sách.

Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn, truyền thơng chính sách thực chất và chủ yếu là một cách gọi tên mới hay là sự thay đổi cái vỏ khái niệm của một công việc mà xưa nay báo chí - truyền thơng của Việt Nam vẫn làm là tuyên truyền đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Có thể ví truyền thơng chính sách là cây cầu kết nối quan trọng giữa Đảng, Nhả nước với cơ quan đoàn thể, với quần chúng. Việc ban hành một chính sách cần phải thu thập ý kiến phản hồi, đóng góp của người dân. Qua ý kiến phản hồi trên truyền thông sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý điều chỉnh hành vi, chính sách sao cho phù hợp và sát với tình hình thực tiễn, tránh được những cơn sốc từ dư luận xã hội, tạo sự phát triển ổn định, bền vững.

Trên cơ sở đó, có thể tạm định nghĩa: Truyền thơng chính sách là q trình tiến hành các hoạt động trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các chủ thể chính trị với người dân trong chu trình chính sách cơng nhằm đảm bảo tính đúng đắn của chính sách và sự đồng thuận giữa chính quyền và nhân dân, qua đó nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước

<i><b>1.1.5. Khủng hoảng truyền thơng chính sách là gì?</b></i>

Khủng hoảng truyền thơng chính sách là bất kỳ một sự kiện ngoài ý muốn nào xuất hiện bởi hoạt động truyền thơng có thể đe dọa đến từng giai đoạn của chu trình chính sách cơng, làm phương hại đến uy tín, lợi ích của các cơ quan cơng quyền và người dân trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i><b>1.1.6. Chính sách về lĩnh vực y tế là gì?</b></i>

Chính sách y tế được hiểu là hệ thống văn bản quản lý nhà nước hướng tới mục tiêu tổ chức thực hiện các biện pháp dự phịng, chữa bệnh, tư vấn chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho người dân.

Chính sách y tế gồm những quá trình hành động tác động đến một loạt các cơ quan, tổ chức, các dịch vụ y tế và việc phân bổ kinh phí của hệ thống y tế. Tuy nhiên nó khơng chỉ dừng ở mức các dịch vụ y tế mà bao gồm cả các chủ trương đã được thực hiện hoặc dự kiến thực hiện bởi các tổ chức Nhà nước, tư nhân, và tình nguyện nhằm tác động đến sức khỏe”.

Chính sách y tế không chỉ là của riêng ngành y tế mà của tồn xã hội, trong đó các cơ sở y tế đóng vai trị chủ đạo và thực hiện cung cấp các dịch vụ y tế. Chính sách y tế là một bộ phận không tách rời của các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.

<b>1.2. Báo chí và vai trị của báo chí trong xử lý khủng hoảng truyềnthơng chính sách về lĩnh vực y tế </b>

<i><b>1.2.1. Báo chí có vai trị cung cấp thơng tin chính xác, khách quan vàtrung thực, đa dạng, nhiều chiều cho công chúng về sự kiện, hiện tượng, conngười trong khủng hoảng.</b></i>

Trong truyền thơng đại chúng, báo chí có vị trí trung tâm và vai trị nền tảng trong việc quyết định sức mạnh, bản chất và khuynh hướng chính của truyền thơng nói chung. Báo chí là những kênh, những loại hình mang rõ nét nhất, đặc trưng nhất tính chất của truyền thơng đại chúng. Bản chất hoạt động này là hình thành dịng thơng tin đại chúng, hướng tác động vào đông đảo công chúng. Đề xử lý khủng hoảng truyền thông, nhà báo cần ý thức rõ ràng và nhất quán về tinh thần và thái độ phục vụ cơng chúng, vì lý tưởng chính trị và lợi ích cộng đồng. Khơng được lợi dụng nghề nghiệp để trục lợi cá nhân; hoặc các thế lực khác khơng được sử dụng, chi phối báo chí để bảo vệ lợi ích nhóm, nhất là những nhóm có thế lực

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Với tính chất đại chúng của thơng tin báo chí, mỗi sự kiện, vấn đề đưa lên diễn đàn báo chí cần cân nhắc khía cạnh lợi hại từ các bình diện khác nhau cả luật pháp và đạo đức liên quan đến cộng đồng. Do đó trước nhu cầu được thơng tin khách quan của công chúng về sự kiện, nhà báo phải đáp ứng nhu cầu này theo chiều hướng đảm bảo thông tin khách quan cho các quyết định của công chúng và cộng đồng.

Chẳng hạn: Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra phức tạp, xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng truyền thơng, thì vai trị của báo chí được nhấn mạnh hơn bao giờ hết. Báo chí là lực lượng chủ lực trong quản trị thông tin, thông qua việc cung cấp thơng tin đầy đủ, chính xác, khách quan về tình hình dịch bệnh. Vai trị chủ lực của báo chí, nhất là các cơ quan báo chí chính thống của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể… trong xử lý khủng hoảng truyền thơng: Cung cấp thơng tin chính xác, kịp thời về tình hình dịch bệnh và các giải pháp của Chính phủ; điều hịa dư luận và thúc đẩy đồng thuận xã hội như một nguồn lực xã hội cho cơng tác phịng, chống dịch và tăng cường niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị.

Báo chí cung cấp thơng tin cho người dân về tình hình dịch bệnh và các giải pháp phịng, chống dịch của Chính phủ. Ngay từ khi dịch bệnh bùng phát, cùng với hệ thống y tế, quân đội và công an, báo chí ln có mặt ở tuyến đầu chống dịch. Thơng tin kịp thời, chính xác về diễn biến phức tạp từng ngày, từng giờ của dịch bệnh giúp cơng chúng nắm bắt tình hình đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ bản thân và cộng đồng. Báo chí cũng chuyển tải thơng tin về các giải pháp của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhằm tạo ra sự thống nhất nhận thức và hành động từ Trung ương đến địa phương.

Bên cạnh đó, báo chí có vai trị quan trọng trong việc phản ánh đời sống dân sinh, nguyện vọng, yêu cầu chính đáng của nhân dân đến các cấp có thẩm quyền. Đại dịch Covid-19 tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực và cá nhân trong xã hội. Những người dân yếu thế là đối tượng dễ bị tổn thương nhất và cần được

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

bảo vệ nhất để bảo đảm an sinh xã hội. Khi giúp người dân cất lên tiếng nói của mình, báo chí góp phần quan trọng vào việc nâng cao trách nhiệm giải trình của các chính quyền địa phương, dân chủ hóa đời sống xã hội và nuôi dưỡng niềm tin của người dân vào các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các biện pháp của Chính phủ.

Ở mức độ cao hơn, báo chí cần thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội với các giải pháp phịng, chống dịch. Khơng phải là chun gia y tế, nhà khoa học và có thể khơng có kiến thức chuyên môn sâu về dịch bệnh, nhưng nhà báo có thể trở thành cầu nối, tạo diễn đàn cho các nhà khoa học, chuyên gia hiến kế, đề xuất các biện pháp phòng, chống dịch. Vượt lên mức độ phản ánh, báo chí hướng tới trở thành báo chí phân tích và tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để chung sức trong cuộc chiến phòng, chống dịch. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, thơng tin báo chí về dịch bệnh Covid-19 cịn nặng về phản ánh, thiếu thơng tin có chiều sâu hay mang tính phản biện cao. Bên cạnh đó, cần xác định rõ việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội không đồng nghĩa với việc báo chí chỉ thiên về phản ánh những thông tin tiêu cực hay khoét sâu một chiều vào những hạn chế, thiếu sót của cơng tác phịng, chống dịch. Báo chí cần phản ánh khách quan, chân thực, chỉ ra hạn chế trong cơng tác phịng, chống dịch phải gắn liền với phân tích nguyên nhân và gợi mở hướng giải quyết; đồng thời coi trọng việc nêu gương người tốt, việc tốt, nhân lên những điển hình, lan tỏa những nhân tố tích cực, tạo sự bình ổn tâm trạng xã hội và niềm tin vào chiến thắng đại dịch.

<i><b>1.2.2. Báo chí có vai trị dẫn dắt, định hướng, điều hòa dư luận và tạosự đồng thuận xã hội</b></i>

Báo chí đã thực hiện nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, bám sát mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tạo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ; là diễn đàn tin cậy của nhân dân, báo chí đã chủ động, kịp thời, thơng tin hiệu quả về những vấn đề lớn của đất nước,

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

có nội dung thơng tin thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, định hướng, điều hòa dư luận và tạo sự đồng thuận xã hội.

Dư luận xã hội không chỉ thuần tuý là một hiện tượng xã hội có ý nghĩa, nó gắn bó chặt chẽ với dịng thơng tin thời sự, gắn bó với những sự kiện nóng bỏng của đời sống xã hội. Đó là đối tượng trung tâm mà báo chí có nhiệm vụ phản ánh. Dư luận xã hội biểu lộ thái độ, tình cảm, nhận thức của cơng chúng trong xã hội về những vấn đề cụ thể. Báo chí chính là kênh thơng tin có thẩm quyền, có khả năng và lãnh trách nhiệm chuyển tải thái độ, nhận thức, tình cảm ấy đến bộ máy cơng quyền nhằm phát ra thông điệp cần thiết, giúp bộ máy ấy điều chỉnh, xử lý những vấn đề dư luận quan tâm.

Dư luận xã hội lại có sức mạnh to lớn vì nó thể hiện lý trí và tình cảm, thái độ và quyết tâm của cả một cộng đồng to lớn trước những sự kiện quan trọng, những vấn đề nhạy cảm của đời sống xã hội. Không cơ quan công quyền nào dám làm ngơ trước một sức mạnh lớn lao như vậy. Báo chí khi chuyển tải các sự kiện này cũng không bỏ qua cơ hội đặt vấn đề lên đúng tầm vóc của nó bằng cách nhấn mạnh vào sự quan tâm của dư luận xã hội, coi đó như một tiêu chí, một ngun nhân chính đáng để báo chí phản ánh sâu hơn, kỹ lưỡng hơn một hay một vài vấn để nào đó phát sinh trong thực tiễn.

Báo chí phản ánh mọi nội dung, khía cạnh của dư luận xã hội. Việc phản ánh dư luận xã hội trên báo chí cũng hết sức phong phú, sinh động với nhiều cấp độ khác nhau. Báo chí phản ánh dư luận xã hội nhưng sự phản ánh ấy khơng thụ động mà có ý thức rõ ràng, hướng tới mục tiêu cụ thể. Mục tiêu cuối cùng và cao nhất chính là định hướng dư luận xã hội. Báo chí khơng thể chỉ phản ánh đơn thuần mà ln phản ánh có mục đích. Mục đích của thơng tin trước hết là nhằm để công chúng “biết" đến sự thật đang diễn ra xung quanh mình, nhưng sâu xa hơn cịn nhắm đến tích cực hóa đời sống xã hội.

PGS. TS. Nguyễn Văn Dững nhận xét: “Có ba tiêu chí cho một tác phẩm báo chí hay, hấp dẫn cơng chúng: Thứ nhất, tác phẩm đề cập được sự kiện, vấn

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

đề bức xúc, nóng hổi, nổi cộm trong dư luận xã hội, đang được cơng chúng đón đợi, muốn biết và cần được giải thích, giải đáp; thứ hai là tác phẩm được cấu thành, được xây dựng từ những chi tiết sống động, những số liệu xác thực, tin cậy; thứ ba là cách thức diễn đạt, trình bày ngắn gọn, sáng rõ, cuốn hút. Tuy nhiên, tính hấp dẫn cũng như cơ chế tiếp nhận của tác phẩm báo in, báo phát thanh, truyền hình và báo mạng Internet có những yêu cầu đặc thù khác nhau mà trong phạm vi bài viết này chưa có dịp đề cập tới".

Báo chí tác động vào dư luận xã hội bằng hai con đường: Lý trí và tình cảm, trong đó tác động vào tình cảm là quan trọng và tác động vào lý trí là cơ bản. Trên nền tảng lý trí, nhận thức, dư luận xã hội sẽ được tạo dựng bền vững và sâu sắc. Nhưng để tác động nhanh chóng, tạo hiệu quả tức thì, việc nhấn mạnh yếu tố cảm xúc, tình cảm cá nhân là một "kênh" hỗ trợ cực kỳ hiệu quả. Báo chí phải quan tâm thích đáng đến cả hai con đường tác động này khi hướng tới mục tiêu định hướng dư luận xã hội cho hiệu quả.

Sự phát triển của báo chí gắn liền với ý thức hệ, với lợi ích của các tầng lớp dân cư, các tổ chức chính trị mà nó là đại diện. Để làm tốt nhiệm vụ là tiếng nói của tổ chức chính trị đó, báo chí có vai trị nắm bắt, tạo dựng và định hướng dư luận xã hội. Dư luận xã hội là thành tố của ý thức xã hội, đi liền với ý thức lịch sử - văn hóa và nhân sinh quan, thế giới quan. Đây là bộ phận dễ bị tác động nhất và khi bị tác động, dễ tạo nên những chuyển biến và hành động xã hội có tính tức thì. Do đó, tác động đúng mức, đúng cách, hợp lý vào dư luận xã hội có thể giúp tạo nên các phong trào xã hội, giải quyết các nhiệm vụ xã hội cấp bách cũng như lâu dài. Ngược lại, tác động không đúng, đưa thơng tin sai lạc, có thể dẫn đến hiểu nhầm, ngộ nhận tai hại. Do tính chất lan truyền rộng rãi, do ảnh hưởng và uy tín đã được xác lập trong cộng đồng của cơ quan truyền thơng, nên những thơng tin khơng chính xác, thiếu thận trọng, non yếu về chính trị có thể gây thiệt hại khó lường cho cộng đồng và xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Trong khủng hoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế, báo chí có vai trị quan trọng trong việc điều hòa dư luận và thúc đẩy đồng thuận xã hội. Ví dụ, khi đại dịch Covid-19 có quy mơ và diễn biến phức tạp, ảnh hưởng toàn diện, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi cá nhân trong xã hội. Mỗi làn sóng dịch bùng phát đều gây nên tâm trạng hoang mang, lo lắng của người dân, tạo nên trạng thái căng thẳng tâm lý xã hội. Thực tiễn của đợt bùng phát dịch thứ tư cho thấy, khi dịch Covid-19 bùng phát trên diện rộng ở các tỉnh, thành phố phía Nam và một loạt địa phương phải áp dụng biện pháp giãn cách xã hội, thì dư luận xã hội diễn biến vô cùng phức tạp. Hàng loạt vấn đề lớn, tình huống mới và khó xuất hiện, gia tăng sức ép đối với hệ thống chính trị, y tế và an sinh xã hội. Trong bối cảnh đó, báo chí đã thể hiện và khẳng định vai trị chủ đạo của mình trong việc điều hịa tâm lý, tâm trạng xã hội và kêu gọi tinh thần, ý chí đồn kết, sẻ chia trong phịng, chống dịch. Báo chí đã tuyên truyền nhanh nhạy, kịp thời, chính xác, hiệu quả các thơng tin về phịng, chống dịch Covid-19, kịp thời, rõ nét, phù hợp, có tính định hướng về diễn biến tình hình, các quan điểm, chỉ đạo, giải pháp chống dịch của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia về phịng chống Covid-19; chú trọng nhiều hơn đến tuyên truyền nêu gương người tốt, việc tốt, các mơ hình phịng, chống dịch, phục hồi kinh tế hiệu quả, nhất là tinh thần vượt khó khăn, chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm; quan tâm hơn đến nhu cầu thơng tin, giải trí, đáp ứng phần nào nhu cầu văn hóa, tinh thần của người dân trong bối cảnh thực hiện giãn cách xã hội.

<i><b>1.2.3. Báo chí có vai trị xây dựng niềm tin của con người vào hệ thốngchính trị và chế độ xã hội</b></i>

Báo chí khơng chỉ đưa tin, cung cấp thơng tin, mà cịn góp phần xây dựng niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị và chế độ xã hội. Vì báo chí tích cực phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, những khó khăn, bất cập với Chính phủ để Chính phủ có những phản ứng, điều chỉnh chính sách kịp thời,

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

hiệu quả, khả thi và sát tình hình thực tế. Báo chí phản ánh chân thực cuộc sống để chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn và hiệu quả thực tế làm thước đo. Báo chí cũng phản ánh quan điểm, hành động của Chính phủ trong điều hành và xây dựng nền hành pháp, lấy lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân là trung tâm cải cách, thực thi và vận hành nền hành pháp. Qua đó tạo sự đồng thuận, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự điều hành của Chính phủ.

Niềm tin của công chúng vào thông tin được cung cấp từ báo chí. Niềm tin của cơng chúng thể hiện mức độ đạt được của việc khơi nguồn, phản ánh và truyền dẫn dư luận xã hội của báo chí. Niềm tin của cơng chúng có mạnh mới thể hiện vai trị định hướng dư luận tốt của báo chí và ngược lại.

Thời gian qua, dịch bệnh Covid-19 diễn biến ngày càng phức tạp, tác động khó khăn trăm bề. Đất nước chúng ta là một trong những điểm sáng trên thế giới thực hiện thành công mục tiêu kép vừa chống dịch hiệu quả vừa phát triển kinh tế - xã hội. Có được kết quả đó, sự đóng góp trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối và nâng cao ý thức, hành động cụ thể, hiệu quả chống dịch của người dân là rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định.

Báo chí đã góp phần ni dưỡng, tăng cường niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị. Niềm tin và sự đồng thuận của người dân có vai trị quyết định tới thành cơng của cơng tác phòng, chống đại dịch.

<b>1.3. Sự cần thiết phải phát huy vai trị của báo chí trong xử lý khủnghoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế </b>

<i><b>1.3.1. Nâng cao nhận thức của người dân về các chủ trương chínhsách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực y tế </b></i>

Báo chí là một trong những phương tiện quan trọng của Đảng để nâng cao nhận thức của người dân về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

trong lĩnh vực y tế. Hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng trên báo chí dựa trên sự tác động có tính thuyết phục bằng việc thông tin các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề của đời sống hiện thực mà trong đó hàm chứa những giá trị cần khẳng định. Để bảo đảm tính thuyết phục đối với những giá trị ấy, báo chí phải đưa ra được những minh chứng dựa trên những cơ sở vững chắc cho các nhận định, đánh giá và luận điểm của mình. Sự minh chứng chặt chẽ và khoa học kết hợp với sự phản ánh kịp thời, phong phú các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của đời sống hiện thực là cơ sở để tạo nên một chất lượng mới trong nhận thức của công chúng - sự nhận thức một cách lý trí, tự giác những quan điểm về cuộc sống, những lý tưởng xã hội, những giá trị của hiện thực. Đó là những nền tảng nảy sinh ra và quy định tính chất, mức độ của chính kiến, niềm tin và tình cảm cách mạng của cơng chúng - chất lượng mà cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cần phải hướng tới.

Báo chí có vai trị to lớn trong việc tham gia quản lý chính hệ thống chính trị của đất nước, bao gồm hệ thống Đảng cộng sản cầm quyền, hệ thống Nhà nước, các tổ chức, đồn thể chính trị xã hội. Nhờ có hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, Đảng tiến hành cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho các đảng viên và quần chúng, tuyên truyền các quan điểm, chính sách và quyết định, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong nội bộ Đảng, hình thành một kênh liên hệ giữa Đảng với nhân dân lao động. Có thể coi báo chí là “chiếc hàn thử biểu" của xã hội mà qua đó Đảng và Nhà nước có thể thấy được tình hình xã hội, tâm tư, thái độ của quần chúng nhân dân, trạng thái hoạt động của các tổ chức Đảng ở địa phương.

Các cơ quan báo chí Hà Nội đã bám sát nhiệm vụ chính trị, thực hiện nghiêm sự chỉ đạo, định hướng của Trung ương và thành phố; hoạt động đúng tơn chỉ, mục đích. Thơng tin trên các báo đã phản ánh kịp thời, toàn diện các vấn đề thời sự chính trị, các sự kiện quan trọng, các hoạt động chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và thành phố. Trong đó, nổi bật là báo chí đã tập trung

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

phản ánh đậm nét cơng tác phịng, chống dịch Covid-19, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và người dân trong phịng, chống dịch. Từ đó nâng cao nhận thức của người dân về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực y tế.

<i><b>1.3.2. Xây dựng niềm tin của con người với chế độ xã hội</b></i>

Niềm tin xã hội có vai trị to lớn đối với sự phát triển xã hội, nó không chỉ tạo ra giá trị tinh thần to lớn mà còn tạo ra giá trị vật chất cho xã hội, “niềm tin tạo ra hiện thực” (Belief creates the actual fact). Nhờ có một niềm tin xã hội mãnh liệt mà dân tộc Việt Nam đã vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ để phát triển như hơm nay.

Việt Nam được biết đến là một dân tộc quật cường và có niềm tin xã hội mãnh liệt để vượt qua biết bao khó khăn, thử thách. Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, niềm tin của cả dân tộc được đặt vào một mục tiêu duy nhất, đó là chiến thắng kẻ thù, thống nhất đất nước. Chính niềm tin đó đã tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên ý chí, quyết tâm để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Trong quá trình đổi mới đất nước, mặc dù có những lúc đứng trước vơ vàn khó khăn, thử thách, nhưng với niềm tin đúng đắn vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của toàn dân, dân tộc ta đã làm nên nhiều thành tựu vĩ đại, đưa nước ta thốt sự nghèo khó, tiến bước cùng với bạn bè trên thế giới.

Hiện nay, do bị chi phối bởi các quan hệ lợi ích và biến đổi nhu cầu cuộc sống trong nền kinh tế thị trường mà niềm tin xã hội có xu hướng biến đổi khá phức tạp. Ở những trường hợp nhất định, niềm tin xã hội có biểu hiện giảm sút. Một số người cịn tỏ ra hoang mang, thiếu niềm tin giữa con người với con người; giảm sút niềm tin vào thể chế xã hội, kỷ cương pháp luật, thiếu sự kỳ vọng vào tương lai. Do đó báo chí có vai trị quan trọng trong việc xây dựng niềm tin của con người với chế độ xã hội thông qua xử lý các khủng hoảng truyền thơng chính sách.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Báo chí giám sát, kiểm tra sự thực hiện các đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước từ đó phát hiện kịp thời các sai lầm, khuyết điểm, những vấn đề khó khăn ách tắc trong việc chỉ đạo thực hiện và thực hiện các quyết định quản lý. Hoạt động giám sát kiểm tra khơng chỉ thực hiện bằng chính hoạt động nghề nghiệp của nhà báo với tác phẩm cơng bố, mà cịn bằng việc nghiên cứu, phân tích thư bạn đọc và xử lý một cách phù hợp với uy tín nghề nghiệp của mình, các nhà báo nghiên cứu phân tích thực tế và trực tiếp can thiệp để giải quyết tại chỗ những khó khăn vướng mắc.

Kết quả hoạt động giám sát kiểm tra của báo chí là nguồn thơng tin quan trọng giúp các cơ quan Đảng và Nhà nước kịp thời có quyết định, biện pháp tích cực, điều chỉnh hoạt động của các cơ quan, tổ chức cấp dưới. Từ đó nâng cao niềm tin của con người với chế độ xã hội.

<i><b>1.3.3. Định hướng dư luận xã hội, cổ vũ tích cực hành động của conngười</b></i>

Dư luận là nội dung quan trọng hàng ngày mà báo chí truyền thơng đăng tải; và từ dư luận xã hội lại đến lượt nó nảy sinh ra tin tức báo chí. Báo chí lại là phương tiện chuyển tải các sự kiện, ý kiến, phán xét,... của dư luận xã hội; tin tức báo chí vừa có thể phản ánh và biểu đạt dư luận, vừa có thể định hướng dư luận xã hội, mà sự định hướng của tin tức báo chí đối với dư luận xã hội lại dẫn đến một luồng dư luận mới được sản sinh ra.

Vai trò của dư luận xã hội trong lĩnh vực hoạt động chính trị vơ cùng quan trọng. Chính trị và hoạt động chính trị là lĩnh vực rộng lớn, bao trùm toàn bộ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể "quy" về hai loại hoạt động chính là quan điểm, đường lối và chính sách đối nội; quan điểm, đường lối và chính sách đối ngoại của Nhà nước. Chính sách đối nội có thể nói, là nghệ thuật giải quyết hài hịa lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các vùng miền, các dân tộc,... trong mỗi quốc gia, bảo đảm khơi dậy, huy động tối đa và tổ chức tốt mọi nguồn lực tỉnh thần và vật chất trong nhân dân vào mục tiêu phát triển đất nước. Quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

điểm, đường lối và chính sách đối nội biểu hiện về mặt xã hội là mức độ đồng tình, đồng thuận của nhân dân, thái độ đồng tình hay phản đối của dư luận xã hội đối với các chủ trương, chính sách được ban hành. Do đó, dư luận xã hội là “nhiệt kế", là chỉ báo quan trọng biểu hiện mức độ ủng hộ, tán thành của các tầng lớp nhân dân đối với chủ trương, chính sách được ban hành.

Định hướng dư luận xã hội là một nội dung trọng yếu trong cơng tác tư tưởng của Đảng, có vai trị quan trọng đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch thực chất là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc Đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, định hướng dư luận xã hội là một trong những biện pháp quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Định hướng dư luận xã hội là xác định phương hướng cho dư luận xã hội và công chúng theo một hướng nhất định, giúp dư luận xã hội đi theo đúng hướng, có sự thống nhất, ổn định.

Vì vậy định hướng dư luận xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và báo chí là vơ cùng quan trọng. Định hướng dư luận xã hội đã góp phần tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cung cấp cho công chúng những tri thức chính sách y tế, khẳng định sự đúng đắn của đường lối lãnh đạo của Đảng, tính khoa học, ưu việt và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp quần chúng nhân dân thấy rõ được bản chất các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b>Chương 2</b>

<b>THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG XỬ LÝ KHỦNGHOẢNG TRUYỀN THƠNG CHÍNH SÁCH VỀ LĨNH VỰC Y TẾ Ở</b>

<b>THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY</b>

<b>2.1. Những yếu tố tác động đến vai trò của báo chí trong xử lý khủnghoảng truyền thơng chính sách về lĩnh vực y tế </b>

<i><b>2.1.1.Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội củathành phố Hà Nội</b></i>

<i>2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên</i>

Hà Nội nằm ở tả ngạn sông Đà và hai bên đồng bằng sông Hồng. Phía Bắc giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên, phía Nam giáp tỉnh Hịa Bình, phía Đơng giáp với tỉnh Bắc Ninh và Hưng n, cịn phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành 3 cực chính của Đồng bằng sơng Hồng. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km2, nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến tại Việt Nam trước đây. Do đó, lịch sử Hà Nội gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ. Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước từ khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào.

Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội nằm trong top 17 Thủ đơ có diện tích lớn nhất thế giới với 3.324,92 km2. Với vị trí địa lý thuận lợi này, thành phố này dễ dàng trở thành trung tâm kinh tế – chính trị, văn hóa, khoa học quan trọng của cả nước. Hiện tại, bao gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i>2.1.1.2. Đặc điểm về kinh tế</i>

Nghị quyết 08 BCT của Bộ chính trị ngày 2111983 đã xác định: Hà Nội là trung tâm lớn về kinh tế, giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội có vị trí quan trọng và có ưu thế đặc biệt đối với các địa phương khác. Điều này đã được xác định từ trong gần 1000 năm nay. Hà Nội có vị trí thuận lợi, nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ là một trong những trọng điểm của tam giác kinh tế khu vực đồng bằng Bắc Bộ với những đIều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, cảng sơng, thời tiết, khí hậu Hà nội rất thuận tiện trong việc thông thương kinh tế với cả nước. Hà Nội là thành phố lớn thứ hai trong cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh Hà Nội có diện tích tự nhiên là 927,39 km 2 và dân số hơn 2.560 nghìn người chiếm 0,28 về diện tích và 3,14 về dân số của cả nước. Về nguồn lực thì Hà Nội có lợi thế rất lớn trong vấn đề nhân lực để phát triển, Hà Nội là nơi tập trung và quy tụ rất nhiều nhà khoa họ , nhà quản lý giỏi các công nhân lành nghề của cả nước.

<i>2.1.1.3. Đặc điểm về chính trị</i>

Trong lịch sử của mình, vùng đất Thăng Long – Hà Nội đã sớm được lựa chọn trở thành một trung tâm chính trị, hành chính, thậm chí từ trước ngày Lý Cơng Uẩn định đơ có thể từ Lý Bí, từ thời đô hộ Tuỳ Đường đến buổi đầu độc lập. Từ Lý Công Uẩn định đô đến nay, vai trò này của Thăng Long – Hà Nội gần như được thể hiện một cách liên tục, dù có đơi ba gián đoạn (khi kinh đơ chuyển vào Thanh Hố, vào Phú Xuân - Huế) thì Thăng Long – Hà Nội vẫn là trung tâm chính trị, hành chính của một vùng rộng lớn. Thăng Long – Hà Nội đã đảm đương vai trị một đơ thị có chức năng tổng hợp, trong đó chức năng chuyên biệt là trung tâm chính trị – hành chính đất nước.

Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được xếp vào đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt và cũng đồng thời là đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh.

Sau những thay đổi về địa giới hành chính, tính đến năm 2021, Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã với 579 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 383 xã, 175 phường và 21 thị trấn.Đây là thành phố trực thuộc trung ương duy nhất của Việt Nam có thị xã.

<i>2.1.1.4. Đặc điểm về văn hóa – xã hội</i>

Hà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và tỉnh Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những danh nhân, nhân vật nổi tiếng của Việt Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn hóa của Hà Nội.

<i><b>2.1.2.Một số chính sách về lĩnh vực y tế ở thành phố Hà Nội</b></i>

<i>2.1.2.1. Bối cảnh ra đời của chính sách</i>

Đại dịch Covid - 19 bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc) vào cuối tháng 11-2019, sau đó đã nhanh chóng lan ra tồn cầu. Tổng giám đốc WHO, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus cho rằng "Đại dịch này là một cuộc khủng hoảng y tế một trăm năm nay mới xảy ra một lần, những tác động của nó sẽ cịn kéo dài trong nhiều thập kỷ nữa" (31/7/2020). Đại dịch Covid-19 đang càn quét khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, gây nhiều tác động tiêu cực chưa từng có tiền lệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

lên đến thế giới và Việt Nam. Trong bối cảnh đó, địi hỏi chúng ta phải có những chính sách để hạn chế rủi ro của dịch bệnh đối với nền kinh tế, bảo đảm tăng trưởng hợp lý, ổn định xã hội, tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong những năm tới.

<i>2.1.2.2. Một số chính sách về y tế</i>

<i><b>Nghị quyết số 14/NQ-CP về việc mua vắc xin phòng COVID-19 củaPfizer cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi</b></i>

Điều 1. Đồng ý việc Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu đối với việc mua 21,9 triệu liều vắc xin phòng COVID-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi với các điều kiện như Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ về mua vắc xin phòng COVID-19 BNT162 của Pfizer.

Điều 2. Bộ Y tế chịu trách nhiệm về các nội dung trong Tờ trình số 2096/TTr-BYT ngày 17 tháng 12 năm 2021 và tổ chức thực hiện việc mua, triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi, bảo đảm khoa học, an tồn, hiệu quả.

Điều 3. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

<i><b>Công văn 1535/BYT-DP hướng dẫn mới nhất về tiêm vaccine phòngCOVID-19 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi</b></i>

Chuẩn bị triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi:

- Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo rà soát, lập danh sách tiêm cho trẻ đang đi học từ lớp 1 đến lớp 6 thuộc độ tuổi từ 5 đến dưới 12 tuổi. Đối với trẻ thuộc lứa tuổi này khơng đi học thì phối hợp với chính quyền địa phương để lập danh sách.

- Xây dựng kế hoạch, chuẩn bị đủ điều kiện tiêm chủng để có thể triển khai ngay khi được phân bổ vắc xin.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

- Loại vắc xin sử dụng: vắc xin được Bộ Y tế phê duyệt sử dụng cho lứa tuổi này. Liều lượng và khoảng cách giữa các mũi tiêm theo hướng dẫn của nhà sản xuất và Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.

- Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức tiêm theo hình thức chiến dịch, miễn phí tại các cơ sở tiêm chủng cố định, tại điểm tiêm lưu động và trường học (đối với những nơi tổ chức học tập trung tại trường). Việc tổ chức tiêm thực hiện theo quy định tại mục III Hướng dẫn tổ chức buổi tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 ban hành kèm theo Quyết định số 3588/QĐ-BYT ngày 26/7/2021 và Quyết định số 43/QĐ-BYT ngày 07/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

- Thực hiện tuyên truyền, vận động để người dân đưa trẻ từ 5 dưới 12 tuổi đủ điều kiện tiêm chủng tích cực tham gia tiêm chủng kịp thời và đầy đủ.

<i><b>Nghị định số 29/2022/NĐ-CP quy định về chế độ chính sách đối vớingười được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch COVID-19 bịnhiễm COVID-19.</b></i>

Đối với người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu sự nghiệp của cơ sở y tế công lập:

- Được hưởng tiền lương, tiền công, phụ cấp theo lương và các khoản đóng góp theo quy định của pháp luật trong thời gian điều trị do bị nhiễm COVID-19. Trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nước chi trả phần còn lại.

- Được hưởng các chế độ phòng, chống dịch COVID-19 nếu tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19 trong thời gian điều trị COVID-19.

Đối với người tham gia phịng, chống dịch COVID-19 khơng hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng không tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì được hưởng các chế độ phòng, chống dịch COVID-19 nếu tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19 trong thời gian điều trị COVID-19.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Đối với người tham gia phịng, chống dịch COVID-19 khơng hưởng lương từ ngân sách nhà nước ngoài các chế độ quy định trên, được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một lần với mức như sau:

- Đối với người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 30 ngày mức 1.855.000 đồng/người.

- Đối với người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 từ 30 ngày liên tục

Báo chí đã thơng tin liên tục về các vấn đề liên quan đến khủng hoảng truyền thơng chính sách y tế. Với thế mạnh của mình, các báo đã cập nhật thơng tin nhanh chóng, liên tục từng giờ, từng phút, cập nhật 24h/ngày, thơng tin có tính thời sự cao. Do không bị giới hạn về khoảng cách địa lý nên thông tin trên bảo đã lan tỏa rộng khắp và có thể tiếp cận được với cơng chúng khắp nơi trên thế giới. Thơng tin chính sách về y tế đa chiều, tập trung vào tuyên truyền chính sách, pháp luật về y tế, phản ánh thực trạng tham gia chính sách y tế đúng bản chất cả mặt tích cực lẫn tiêu cực trong đời sống xã hội.

Ngồi thơng tin nhanh, liên tục, báo chí cịn có tính chân thực khách quan đưa ra những đánh giá đúng đắn, định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực. Tính chân thật là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của báo chí.

Để làm rõ thực trạng thơng tin của báo chí về khủng hoảng truyền thơng chính sách y tế, tác giả tiến hành khảo sát 2 tờ báo sau:

Báo VnExpress: Trang là tờ báo có số lượng độc giả lớn nhất tại Việt Nam. Trang web này được thành lập ngày 26/02/2001 trực

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

thuộc Bộ Khoa học Công nghệ, giấy phép số 511/GP-BVHTT ngày 25/11/2002. VnExpress chính thức trở thành tờ báo mạng độc lập đầu tiên của Việt Nam. Vnexpress là một trong những tờ báo mạng điện từ phát triển nhanh nhất tại Việt Nam, thu hút lượng độc giả rất lớn. VnExpress luôn cập nhật thông tin đăng tải thông tin, đặc biệt là các sự kiện quan trọng của đất nước một cách nhanh chóng và đa chiều, góp phần định dư luận xã hội theo hướng tích cực.

Báo Sức khỏe và Đời sống: Báo Sức khỏe và Đời sống là cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế. Gần 60 năm đồng hành cùng dân tộc, vì Tổ quốc, vì sức khỏe cộng đồng, Báo Sức khỏe và Đời sống trực thuộc Bộ Y tế đã trở thành tờ báo của mọi nhà, là người bạn của mỗi người, cùng chia sẻ những buồn vui, lo toan về sức khỏe thể chất, sức khỏe tỉnh thần của toàn xã hội. Báo Sức khỏe và Đời sống nay đã trở thành diễn đàn, là cầu nối đối với mọi gia đình, người dân ở mọi miền đất nước. Ngồi ra, cịn có các ấn phẩm chuyên đề khác như số cuối tuần, cuối tháng: dân tộc thiểu số và miền núi; y tế thôn bản. Bên cạnh đó, để bắt kịp với nhu cầu của độc giả, Sức khỏe và Đời sống online đã nhanh chóng gia nhập làng báo điện tử nước nhà. Có thể nói, Sức khỏe và Đời sống là sản phẩm của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Báo Lao Động: Báo Lao Động - cơ quan ngơn luận của Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam. Trong quá trình gần 90 năm phát triển của mình, Báo Lao Động ln tạo được những dấu ấn đáng kể trong làng báo chí cách mạng Việt Nam.). Hiện nay, báo có 2 hình thức xuất bản là ấm phẩm in và bản điện tử. Về nội dung, báo luôn giữ vững quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cung cấp thông tin ở tất cả các lĩnh vực của đời sống: chính trị, kinh tế, thể thao, pháp luật... Báo Lao Động luôn là tâm điểm của hoạt động giám sát và phản biện xã hội, để bảo vệ quyền lợi cho các giai tầng xã hội, quyền lợi của quốc gia, dân tộc, trước những quyết sách và dự án của cơ quan công quyền.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Những thông tin về lĩnh vực y tế trong thời gian dịch bệnh có sức hấp dẫn cao với báo chí. Theo thống kê các tác phẩm báo chí cho thấy số lượng tin bài cho chính sách y tế “Tiêm vaccine phịng Covid-19 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi” là rất lớn. Tổng số tin bài về trên báo VnExpress là 28 bài, báo Lao động là 32 bài, báo Sức khỏe và đời sống là 92 tin bài. Về nội dung đưa tin, viết bài, xét một cách tổng thể, báo chí phần lớn đã làm tốt vai trò đưa tin khách quan, trung

Báo chí đưa tin chính xác, đa chiều, với những lý lẽ phân tích thuyết phục của các chuyên gia, bác sĩ về tiêm vaccine phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi đã tạo ra lối nhìn khách quan, tạo sự tin cậy cho cơng chúng báo chí. Tính khách quan khi đưa tin và phân tích vấn đề giúp cho khả năng tác động tích cực đến công chúng, đồng thời tăng chức năng phân tích dự báo của báo chí, gợi ý cho cơng chúng ý tưởng cho quá trình giám sát các hoạt động của các cơ quan chức năng, các cơ quan quản lý nhà nước và quản lý kinh tế liên quan. Đó là điểm tích cực quan trọng nhất trong vai trò khơi nguồn, định hướng và điều chỉnh dư luận xã hội của báo chí, đồng thời thúc đẩy việc thực hiện chức năng liên kết và can thiệp của báo chí - truyền thơng theo đúng tính chất của báo chí.

Lĩnh vực chính sách y tế là một trong những lĩnh vực được rất nhiều báo chí quan tâm và đưa thơng tin trong đó có 3 trang báo khảo sát nói trên. Hầu hết các thơng tin trong lĩnh vực này đều được các bảo đưa rất đầy đủ, đậm nét, với hình thức phong phú, đa dạng. Về cơ bản, qua các trang báo này, nhiều chủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

trương chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế đã đến được với mọi tầng lớp, người dân trong xã hội.

<i><b>Điều hòa dư luận và tạo sự đồng thuận xã hội</b></i>

Báo chí hiện nay rất đa dạng về các loại hình, điều đó khiến thơng tin báo chí đến với cơng chúng theo nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, cơng chúng tiếp nhận thơng tin từ báo chí một cách dễ dàng, thuận lợi hơn, nhất là truyền hình và báo điện tử.

Kết quả khảo sát của tác giả cho thấy, nhìn chung báo chí được cơng chúng tiếp cận ở mức độ khá. Cả ba loại hình là báo điện tử, báo giấy và báo truyền hình đều được cơng chúng tiếp cận thường xuyên và hoặc thỉnh thoảng. Tỷ lệ công chúng ít khi tiếp cận chưa tới 50%.

Báo chí có tác động lớn đến hành vi của người dân, ví dụ như ở một số khía cạnh sau: giúp nhiều người tự điều chỉnh hành vi của mình; phản ứng tích cực trước các sự kiện chính trị - xã hội...

Kết quả khảo sát cho thấy, báo chí đã có tác động khơng nhỏ đến dư luận xã hội, từ đó tác động lớn tới hành vi của người dân trong đời sống xã hội hiện nay. Công chúng đánh giá cao tác động của báo chí đến hành vi của người dân ở các khía cạnh: Giúp người dân tuân thủ pháp luật hơn trong các hoạt động; giúp nhiều người tự điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống như phản ứng tích cực trước các sự kiện chính trị - xā hội.

Báo chí điều hịa dư luận xã hội tức là góp phần điều hòa nhận thức, cảm xúc, thái độ, hành vi của cơng chúng và dư luận, điều hịa tâm lý và tâm trạng xã hội. Tác động của việc điều hòa này có thể, hoặc làm giảm sự căng thẳng, bức xúc trong dư luận xã hội nhằm điều chỉnh sự quan tâm của công luận phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý; hoặc làm dịu tình hình theo hướng có lợi cho cộng đồng; hoặc tạo nên tâm lý thoải mái hơn trước những bức xúc chưa được giải quyết,.. thậm chí thu hút sự quan tâm của cơng luận vào vấn đề khác khi có khả năng nảy sinh xung đột từ một vấn đề có nguy cơ nảy sinh. Ở đây, nhìn

</div>

×