Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bài thảo luận môn tố tụng dân sự lần thứ chín vấn đề thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

<b>BÀI THẢO LUẬN MƠN TỐ TỤNG DÂN SỰ </b> Nguyễn Cơng Đồn2253801015061 Nguyễn Minh Quân2253801015258

TP. HCM (T4/2024)

<b>MỤC LỤC</b>

<b>Phần 1. Nhận định...1</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>1. Tịa án khơng nhận đơn kháng cáo của người kháng cáo nếu đã hết thời hạn kháng cáo quá hạn...12. Nguyên đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ khơng được thừa kế thì Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm 5. Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần bảnán, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị...2Phần 2. Bài tập...3Bài tập 1:...31. Anh chị hãy cho biết hướng giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối vớiyêu cầu kháng cáo bổ sung của ơng Đ...32. Giả sử tại phiên tịa phúc thẩm, ông M và ông Đ thỏa thuận với nhau theo hướng số tiền 20.000.000 đồng mà ông Đ nợ ông M sẽ được ông Đ trả dần trong vòng 05 tháng, mỗi tháng 4.000.000 đồng. Anh chị hãy cho biết hướng giải quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong trường hợp này....4Bài tập 2:...41. Bà Th rút tồn bộ u cầu khởi kiện nêu trên...52. Ơng K’H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà nhưng vắng mặt nêu </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Mai Yến Vy Đóng góp ý kiến nhận định; thảo luận bài tập 1; thảo luận quan điểm Tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm

Nguyễn Duy An Tóm tắt, xác định vấn đề pháp lý phần án; thảo luận bài tập 2; thảo luận quan điểm Tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm

Nguyễn Cơng Đồn -Phân cơng nhiệm vụ; chỉnh sửa nhận định; hoàn thành bài tập 1,2; trình bày quan điểm của Tịa cấp phúc thẩm

Nguyễn Minh Quân -Tổng hợp file word; hoàn thành nhận định; góp ý phần bài tập; trình bày quan điểm của Tòa Giám đốc thẩm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Too long to read onyour phone? Save</b>

to read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Phần 1. Nhận định</b>

<b>1. Tịa án khơng nhận đơn kháng cáo của người kháng cáo nếu đã hết thời hạn kháng cáo quá hạn.</b>

- Nhận định đúng.

- CSPL: khoản 1, 2 Điều 485 BLTTDS 2015

- Ta có thể thấy hiện nay trong quy định của pháp luật chưa có quy định về thời hạn kháng cáo quá hạn là như thế nào. Nhưng căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 485 BLTTDS 2015 thì khi Tồ án đã ra quyết định, bản án thì phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này. Như vậy, ta có thể hiểu nếu như bản án, quyết định của Toà án đã được chuyển giao cho cơ quan thi hành án thì đồng nghĩa với việc vụ án này đang được thi hành và sẽ không được quyền kháng cáo nữa mà chỉ được quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Do đó, từ quy định này ta có thể nói thời hạn kháng cáo quá hạn là từ khi hết thời hạn kháng cáo đến khi hết thời hạn chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án và khi hết thời hạn kháng cáo quá hạn sẽ không được kháng cáo.

<b>2. Nguyên đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế thì Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án.</b>

- Nhận định sai

- CSPL: điểm a khoản 1 Điều 217, điểm a khoản 1 Điều 289 BLTTDS 2015, Điều 311 BLTTDS 2015

- Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 289 BLTTDS 2015, thì Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 217 Bộ luật này, mà tại điểm a khoản 1 Điều 217 Bộ luật này quy định nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ khơng được thừa kế. Do đó, trong trường hợp nguyên đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ khơng được thừa kế thì Tồ án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Tuy nhiên đây là trường hợp điều kiện trên xuất hiện tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, còn khi ta đối chiếu với quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

định tại Điều 311 BLTTDS (tại phiên tòa phúc thẩm) HĐXX thấy nếu nguyên đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế (điều kiện này xuất hiện trong q trình giải quyết vụ án tại Tịa án cấp sơ thẩm, tức là từ trước quá trình giải quyết vụ án tại Tịa cấp phúc thẩm) thì lúc này HĐXX ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án ln. Có thể thấy cũng cùng là điều kiện nguyên đơn là cá nhận đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế nhưng không phải lúc nào thì hướng giải quyết cũng là Tịa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án mà còn tùy vào từng trường hợp cụ khác nhau.

<b>3. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.</b>

- Nhận định sai.

- CSPL: khoản 1 Điều 273 BLTTDS 2015.

- Theo quy định trên, thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Tuy nhiên, trong trường hợp, đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện khơng có mặt tại phiên tịa hoặc khơng có mặt khi tun án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết chứ khơng phải được tính kể từ ngày tuyên

- Theo quy định tại khoản 3 Điều 289 BLTTDS 2015 ta thấy nếu trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc người kháng cáo rút một phần kháng cáo và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo đó trong bản án phúc thẩm. Do đó, nếu người kháng cáo khơng rút tồn bộ u cầu kháng cáo mà chỉ rút một phần u cầu kháng cáo thì Tồ án đình chỉ xét xử phần kháng cáo đó chứ khơng phải đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>5. Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phầnbản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thờihạn kháng cáo, kháng nghị.</b>

- Nhận định đúng

- CSPL: khoản 2 Điều 282 BLTTDS 2015

- Theo quy định trên ta có thể thấy bản án sơ thẩm, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm hoặc những phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (nếu trong khoảng thời gian đó nó khơng bị kháng cáo, kháng nghị) cịn đối với các trường hợp Bản án, quyết định đó được thi hành ngay theo Luật định (khoản 1 Điều 282, khoản 2 Điều 482) thì bản chất của nó là có hiệu lực thi hành ngay chứ xét về hiệu lực pháp luật thì nó chưa có hiệu luật pháp luật do vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị do Luật định.

<b>Phần 2. Bài tập</b>

<b>Bài tập 1: </b>

Ông Nguyễn Ngọc M cho rằng, ngày 14/5/2017 ơng M có bán cho ơng Nguyễn Văn Đ 10 con bò trưởng thành và 01 con bê mới đẻ với giá 180.000.000 đồng. Khi bán bị, hai bên có làm Giấy bán bị viết tay ngày 14/5/2017, nội dung Giấy bán bò ngày 14/5/2017 thể hiện giá bán bò là 180.000.000 đồng nhưng hai bên đã thỏa thuận miệng giảm giá chỉ còn 170.000.000 đồng. Ngày 06/11/2017, ông Đ đã viết cho ông M một giấy biên nhận nợ tiền mua bị 170.000.000 đồng. Ơng Đ đã trả cho ông M tổng cộng 150.000.000 đồng, cịn nợ lại ơng M 20.000.000 đồng. Sau nhiều lần u cầu nhưng ơng Đ khơng trả khoản nợ cịn lại, ơng M đã khởi kiện u cầu Tịa án buộc ơng Đ trả cho ơng 20.000.000 đồng cịn nợ và 3.015.000 đồng tiền lãi.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông M, buộc ông Đ phải trả cho ông M số tiền 20.000.000 đồng và 3.015.000 đồng tiền lãi.

Ngày 26/11/2018, ông Đ làm đơn kháng cáo với nội dung không đồng ý trả cho ông M số tiền 20.000.000 đồng.

Ngày 04/12/2018, ông Đ làm đơn kháng cáo bổ sung nộp cho Tòa án với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hợp đồng mua bán bị giữa ơng M và

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

ông Đ vô hiệu; Giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, cụ thể là: Yêu cầu ông M trả lại cho ơng 150.000.000 đồng tiền mua bị và trả tiền cơng thuốc chăm sóc, thức ăn, số tiền 200.000 đồng/con/tháng cho đến khi ông M trả tiền cho ông.

<b>1. Anh chị hãy cho biết hướng giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối với yêucầu kháng cáo bổ sung của ơng Đ.</b>

<b>- Hướng giải quyết của Tịa án cấp phúc thẩm đối với yêu cầu bổ sungnày:</b>

+ Tịa án cấp phúc thẩm sẽ khơng xem xét nội dung kêu cầu kháng cáo bổ sung này của ông Đ do trong quá trình giải quyết vụ án tại Tịa án cấp sơ thẩm, ơng Đ khơng có u cầu tuyên hợp đồng vô hiệu và yêu cầu ông M trả lại cho ơng 150.000.000 đồng tiền mua bị và trả tiền cơng thuốc chăm sóc, thức ăn, số tiền 200.000 đồng/con/tháng cho đến khi ông M trả tiền cho ông. Điều này cho thấy nội dung kháng cáo bổ sung này của ông Đ đã vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm theo Điều 293 BLTTDS 2015 và nó sẽ khơng được Tịa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết.

<b>2. Giả sử tại phiên tịa phúc thẩm, ơng M và ông Đ thỏa thuận với nhau theo hướng số tiền 20.000.000 đồng mà ông Đ nợ ông M sẽ được ơng Đ trả dần trong vịng 05 tháng, mỗi tháng 4.000.000 đồng. Anh chị hãy cho biết hướng giải quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong trường hợp này.</b>

-Theo quy định tại khoản 1 Điều 300 BLTTDS 2015, trong trường hợp này nếu thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và khơng trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

<b>Bài tập 2: </b>

<b>Bà Nguyễn Thị Th cho rằng, từ năm 2002 đến năm 2014, ông K’H và vợ là</b>

bà Ka M nhiều lần vay tiền của bà Th, đến ngày 26/8/2014 hai bên viết giấy chốt nợ số tiền 157.500.000 đồng, có chữ ký của ơng K’H. Ngày 22/01/2016, vợ chồng ông K’H và bà Ka M đã trả cho bà Th được 35.000.000 đồng, còn nợ lại 122.500.000 đồng. Nay bà Th khởi kiện yêu cầu Tịa án buộc vợ chồng ơng K’H và bà Ka M phải trả số tiền còn nợ là 122.500.000 đồng, khơng u cầu tính lãi. Ơng K’H khơng đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Th và cho rằng chữ ký K’H trong giấy nợ tiền ngày 26/8/2014 khơng phải là chữ ký của ơng vì ơng không biết chữ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Tại Bản án sơ thẩm, Tịa án cấp sơ thẩm quyết định bác tồn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Th về việc yêu cầu ông K’H và bà Ka M phải trả số tiền còn nợ là 122.500.000 đồng.

Ngày 28/9/2017, bà Th kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu cầu giám định chữ ký của ông K’H.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 05/12/2017, nguyên đơn bà Th có đơn xin rút tồn bộ u cầu khởi kiện, không yêu cầu giám định chữ ký của

<b>1. Bà Th rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nêu trên.</b>

- Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay khơng đồng ý với u cầu này của nguyên đơn bởi một trong những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong BLTTDS 2015 là nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự. Tuỳ vào việc đồng ý hay không đồng ý việc rút yêu cầu khởi kiện của bị đơn mà Hội đồng xét xử sẽ giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 299 BLTTDS 2015. Theo đó, nếu ơng K’H và bà Ka M khơng đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ không chấp nhận việc rút yêu cầu khởi kiện của bà Th.

<b>- Trong trường hợp ông K’H và bà Ka M đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc</b>

thẩm sẽ chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của bà Th, đồng thời ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 quy định về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp:

- Đối với trường hợp này, ta thấybị đơn là ông K’H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Vì vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự thì khơng có cơ sở để chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Th.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>2. Ông K’H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà nhưng vắng mặt nêu trên.</b>

- Đối với trường hợp này ta thấy theo quy định tại khoản 3 Điều 296 BLTTDS 2015 thì ơng K’H là người khơng kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tịa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

<b>Phần 3. Phân tích án </b>

- Đọc Quyết định GĐT số 07/2022/HNGĐ-GĐT ngày 18/8/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

- Thực hiện các công việc sau:

<b>1. Nêu và bảo vệ cho quan điểm của Tòa án các cấp liên quan đến việc xác định phạm vi xét xử phúc thẩm.</b>

- Về phạm vi xét xử phúc thẩm thì Tịa án thành phố Hà Nội cho rằng việc xác định lại toàn bộ nhà đất là tài sản chung của ông B, bà A là không vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm và điều này phù hợp với quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Đầu tiên ta thấy theo quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm tại Điều 293 BLTTDS 2015:

Từ quy định này ta thấy rằng Tịa án cấp Phúc thẩm sẽ khơng vượt q phạm vi xét xử của mình hay nói cách khác là có quyền xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị hoặc cũng có quyền xem xét lại phần của bán án sơ thẩm, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm mà bản thân nó tuy rằng không bị kháng cáo, kháng nghị nhưng việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị có liên quan đến nó.

- Tiếp theo ở Bản án này ta thấy:

+ Ngày 09/8/2019, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị S1 kháng cáo đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp mang tên ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị A và bác toàn bộ yêu cầu chia tài sản chung của bà A. Và Ngày 12/8/2019, ông Nguyễn Văn B đã kháng cáo toàn bộ bản án và đề nghị bác đơn yêu cầu chia tài sản chung của bà A. Tại Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 106/2020/HNGĐ-PT ngày 07&09/7/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Nội đã quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn B; không chấp nhận kháng cáo của các bà Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị S1; không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị S đối với Bản án sơ thẩm số 39/2020/HNGĐ-ST ngày 30/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện GL, thành phố Hà Nội.

=> Từ nội dung trên ta nhận thấy rằng, đối với toàn bộ kháng cáo của các bà S, Th, T, S1 thì Tịa án cấp Phúc thẩm đã không chấp nhận, điều này thể hiện rằng với phần kháng cáo có nội dung bác tồn bộ u cầu chia tài sản chung của bà A đã không được Tịa phúc thẩm chấp nhận. Từ đó ta thấy được rằng trong tồn bộ nội dung kháng cáo của ơng B bao gồm kháng cáo toàn bộ bản án và bác đơn yêu cầu chia tài sản chung của bà A thì Tịa án cấp Phúc thẩm chỉ chấp nhận một phần kháng cáo của ông và một phần kháng cáo ở đây chính là phần kháng cáo tồn bộ bản án, còn phần bác đơn yêu cầu chia tài sản chung của bà A của ơng thì Tịa án phúc thẩm khơng chấp nhận. Bởi lẽ như đã nói ở trên, đối với nội dung kháng cáo về bác bỏ yêu cầu chia tài sản chung của bà A đã khơng được chấp nhận rồi thì khơng có lý gì mà một phần kháng cáo của ơng B được Tòa phúc thẩm chấp nhận lại là phần bác bỏ đơn yêu cầu chia tài sản chung của bà A. Do đó ta thấy được rằng phần kháng cáo về tồn bộ bản án của ơng A đã được Tịa phúc thẩm chấp nhận và khi xem xét kháng cáo này (kháng cáo về tồn bộ bản án) thì Tịa phúc thẩm đương nhiên có quyền xác định lại tồn bộ nhà đất là tài sản chung của ông B, bà A cho dù trước đó nó được Tịa sơ thẩm xác định là di sản của cụ Nguyễn Văn B và cụ Nguyễn Thị Th2 (tài sản của các đồng thừa kế). Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy định Tịa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét lại phần Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo. + Và ngoài ra nếu quan điểm của phía Tịa Giám đốc thẩm cho rằng việc

Tịa cấp phúc thẩm khơng chấp nhận kháng cáo của các bà S, Th, T, T1 (Kháng cáo về nội dung bác toàn bộ yêu cầu chia tài sản chung của bà A) là vì nội dung này đã được chấp nhận trong phần kháng cáo của ông B. Cứ cho rằng như quan điểm của phía Tịa Giám đốc thẩm là đúng như vậy. Thì nội dung kháng cáo được chấp nhận ở đây chính là bác yêu cầu chia tài sản chung của bà A. Mà trong yêu cầu chia tài sản chung này của bà A (Bà xác định tài sản chung của bà và ông B là nhà đất tại xóm 3, xã NH, huyện GL, thành phố Hà Nội do bố mẹ ông B để lại và yêu cầu được chia đôi tài sản trên; bà yêu cầu được chia bằng hiện vật vì hiện tại bà đang phải đi ở nhờ và khơng có chỗ ở nào khác.) Như vậy có thể thấy rằng để xem xét nội dung kháng cáo về bác yêu cầu chia tài sản chung của bà A thì Tịa án phúc thẩm phải xem xét, xác định xem rằng đối với tài sản là đất 192,5m2 đất thuộc thửa số 21, tờ bản đồ số 17, xã NH trên có 01 nhà cấp 4, 01 nhà vệ sinh lợp mái proximăng, 01 bể nước 2,4m3, 01 sân gạch 29,5m2, mái vẩy, tổng giá trị 6.745.703.920 đồng có phải

</div>

×