Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực tiễn và vai trò và Ý nghĩa phương pháp luận Đối với việc khắc phục bệnh giáo Điều của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.87 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>Chủ đề: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với lý luận? Ý nghĩa</b></i>

<b>phương pháp luận đối với việc khắc phục bệnh giáo điều của đội ngũ cánbộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta? Liên hệ bản thân.</b>

<b>A. MỞ ĐẦU</b>

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là linh hồn của triết học Mác – Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ giữa nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là cơ sở, chất liệu để bổ sung phát triển lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là có tính biện chứng sâu sắc. Sự vi phạm nguyên tắc này, sẽ dẫn đến những sai lầm cực đoan trong nhận thức cũng như trong thực tiễn, đó là bệnh giáo điều.

Sau khi được học, được hướng dẫn và nghiên cứu, bản thân tơi xin được trình bày những đã nhận thức về thực tiển và vai trò của thực tiễn đối với lý luận và ý nghĩa phương pháp luận đối với việc khắc phục bệnh giáo điều của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta. Trên cơ sở đó, liên hệ bản thân về việc khắc phục bệnh giáo điều trong đánh giá thành tích của các tập thể, cá nhân.

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>B. NỘI DUNG1. Khái niệm</b>

<b>1.1. Phạm trù thực tiễn</b>

<i><b>1.1.1. Định nghĩa</b></i>

<i>Thực tiễn, theo tiếng Hy Lạp cổ là Practica, nghĩa là hoạt động tích cực. - Các nhà triết học duy tâm cho rằng, hoạt động nhận thức, hoạt động</i>

của ý thức, hoạt động của tinh thần nói chung là hoạt động thực tiễn.

Hêghen - nhà triết học duy tâm khách quan điển hình người Đức cho rằng, “hoạt động có ý chí của ý niệm”, hoạt động của tinh thần thế giới “tha hóa” thành giới tự nhiên, xã hội, lịch sử, con người là thực tiễn - tức hoạt động tinh thần là hoạt động thực tiễn.

<i>- Các nhà triết học tôn giáo cho rằng, hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của</i>

thượng đế, của những lực lượng siêu nhiên là hoạt động thực tiễn.

<i>- Các nhà triết học duy vật trước C.Mác đã có nhiều đóng góp choquan điểm duy vật về nhận thức. Tuy nhiên, chưa một đại biểu duy vật nào</i>

trước Mác hiểu đúng bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của họ cịn mang tính trực quan.

Nhà triết học duy vật người Pháp thế kỷ XVIII, Điđờrơ (1713-1784) đã thấy được vai trị to lớn của thực nghiệm khoa học đối với nhận thức và coi thực nghiệm khoa học là thực tiễn. Đây là quan niệm đúng, nhưng chưa đầy đủ, chưa thực sự khoa học, chưa bao quát hết các hình thức của hoạt động thực tiễn.

Nhà triết học duy vật lỗi lạc trước Mác người Đức là Phoiơbắc cũng “chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, cịn thực tiễn chỉ được ơng xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thơi”<small>1</small>.

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>- Các nhà triết học thực dụng đã quan tâm nhiều tới hoạt động thực</i>

tiễn của con người, tuy nhiên, thực tiễn được họ hiểu là phản ứng của con ng-ười trước hoàn cảnh một cách hiệu quả nhất. Hệ quả là để phản ứng một cách hiệu quả trước hồn cảnh, con người khơng cần quan tâm tới chân lý hay sai lầm, thiện hay không thiện, đẹp hay không đẹp, mà chỉ cần quan tâm tới hiệu quả hay không hiệu quả. Quan niệm này dễ dẫn tới việc lấy mục tiêu biện hộ cho hành động, dễ dẫn tới chủ nghĩa thực dụng.

- Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho triết học của các ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ các trường phái triết học khác.

<i>=> Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, thực tiễn là toàn bộ</i>

<i>những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con ngườinhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.</i>

<i><b>1.1.2. Đặc trưng của thực tiễn</b></i>

- Từ quan niệm về thực tiễn trên của triết học Mác-Lênin, có thể thấy,

<i>nếu xem xét thực tiễn theo chiều ngang thì thực tiễn gồm những đặc trưng</i>

sau:

<i>Thứ nhất, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con ngườimà chỉ là những hoạt động vật chất - cảm tính, như lời của C.Mác, đó là</i>

những hoạt động vật chất cảm giác được. Nghĩa là, con người có thể quan sát trực quan được các hoạt động vật chất này. Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan và biến đổi chính bản thân mình.

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i>Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội củacon người. Nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự</i>

tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong thực tiễn, con người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm thực tiễn từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, thực tiễn ln bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể.

<i>Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiênvà xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ. Khác với hoạt động có tính bản năng, tự</i>

phát của động vật nhằm thích nghi thụ động với thế giới, con người bằng và thông qua thực tiễn, chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới. Như vậy, nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng thụ động của động vật.

<i>- Nếu cắt theo chiều dọc, thực tiễn bao giờ cũng bao gồm mục đích,</i>

phương tiện và kết quả. Mục đích được nảy sinh từ nhu cầu và lợi ích, nhu cầu xét đến cùng được nảy sinh từ điều kiện khách quan. Lợi ích chính là cái thỏa mãn nhu cầu. Để đạt mục đích, con người trong hoạt động cải tạo thế giới khách quan phải lựa chọn phương tiện, công cụ để thực hiện. Kết quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng trước hết là phụ thuộc vào mục đích đặt ra và phương tiện mà con người sử dụng để thực hiện mục đích.

=> Dù xem xét theo chiều dọc hay chiều ngang thì thực tiễn là hoạt động thể hiện tính mục đích, tính tự giác cao của con người, chủ động tác động làm biến đổi tự nhiên, xã hội, phục vụ con người, khác với những hoạt động mang tính bản năng thụ động của động vật, nhằm thích nghi với hồn cảnh. Rõ ràng, thực tiễn là hoạt động cơ bản, phổ biến của con người và xã hội loài người, là phương thức cơ bản của mối quan hệ giữa con người với thế giới. Nghĩa là, con người quan hệ với thế giới bằng và thơng qua thực tiễn. Khơng có thực tiễn thì bản thân con người và xã hội lồi người không thể tồn

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

tại và phát triển.

<i><b>1.1.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn</b></i>

Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực

<i>khác nhau, nhưng gồm những hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất;</i>

<i>hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. </i>

<i>- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ</i>

bản nhất, quan trọng nhất. Bởi lẽ, ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người, con người đã phải tiến hành sản xuất vật chất dù là giản đơn để đáp ứng nhu cầu tồn tại. Sản xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên và là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội lồi người. Khơng có sản xuất vật chất, con người và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.

Ví dụ về hoạt động sản xuất vật chất ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, như trồng lúa, trồng khoai, dệt vải, sản xuất giày dép, ô tô, xe máy… Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì: Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; Đồng thời, dạng hoạt động này quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, là cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.

<i>- Hoạt động chính trị - xã hội là hình thức thực tiễn thể hiện tính tự</i>

giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội,v.v.. Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm các hoạt động, như: đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh cho hịa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội, nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi cho con người và xã hội phát triển. Thiếu hình thức thực tiễn này, con người và xã hội lồi

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

người cũng khơng thể phát triển bình thường.

Ví dụ về hoạt động chính trị – xã hội là: Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.; Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri; Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa.

<i>- Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn.</i>

Bởi lẽ, trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện khơng có sẵn trong tự nhiên, xã hội để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất, vào cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội. Ngày nay, khi cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, “tri thức xã hội phổ biến

<i>[wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất</i>

<i>trực tiếp”</i><small>2</small> thì hình thức thực tiễn này ngày càng đóng vai trị quan trọng. Dạng hoạt động này ra đời cùng với sự xuất hiện của các ngành khoa học. Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay (cách mạng 4.0), hoạt động thực nghiệm khoa học ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.

<i>=> Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh</i>

<i>hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trị quan trọng,</i>

quyết định hai hình thức thực tiễn cịn lại. Tuy nhiên, hai hình thức thực tiễn cịn lại có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất. Điều này thể hiện rõ ở chỗ, nếu xã hội khơng ổn định thì sản xuất vật chất cũng không thể phát triển. Thực nghiệm khoa học phát triển sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất vật chất.

<i>=> Ngồi ba hình thức cơ bản trên, thực tiễn cịn được thể hiện ở một</i>

<i>số lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, nghệ thuật, thể thao,v.v.. Nhưng xét đến</i>

cùng, những hình thức thực tiễn trong các lĩnh vực trên lại thuộc về các hình

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thức cơ bản của thực tiễn.

<b>1.2. Phạm trù lý luận</b>

<i><b>1.2.1. Định nghĩa</b></i>

- Con người muốn cải tạo được thế giới cần phải có những hiểu biết về nó, nhưng những hiểu biết ấy khơng có sẵn trong con người. Muốn có hiểu biết (tri thức), con người phải tác động vào thế giới khách quan bằng và thông qua thực tiễn. Trên cơ sở đó, con người tích lũy được những tri thức kinh nghiệm, nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt riêng lẻ, bề ngoài của sự vật. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”<small>3</small>. Để hiểu được tính tất yếu, bản chất của sự vật, con người phải khái quát những tri thức kinh nghiệm thành lý luận.

- Trên thực tế, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đưa ra quan niệm về lý luận, Hồ Chí Minh trong các bài viết, bài nói chuyện của mình đã đưa ra một số quan niệm về lý luận với những cách diễn đạt cụ thể khác nhau.

<i>Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc Hồ Chí Minh chỉ dẫn: “Lý luận</i>

là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”<small>4</small>. Đồng thời, theo Người, “kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp, phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành ra lý luận”.

<i>Trong Diễn văn Khai mạc lớp học lý luận khóa I của trường Nguyễn</i>

Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) ngày 7-9-1957,

<i>Hồ Chí Minh quan niệm “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài</i>

người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử”<small>4</small>. Còn “lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết kinh

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước”<small>5</small>.

<i>> Như vậy, Hồ Chí Minh quan niệm lý luận đã bao hàm sự thống nhất</i>

<i>giữa lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ, lý luận phải được tổng kết từ kinh nghiệm</i>

thực tiễn. Khơng có kinh nghiệm thực tiễn, rõ ràng là khơng thể thể có lý luận. Nhưng kinh nghiệm thực tiễn tự thân chúng chưa phải là lý luận. Những kinh nghiệm thực tiễn này phải được tổng kết thành những kết luận mang tính khái qt cao có vai trị chỉ đường, dẫn dắt cho thực tiễn. Điều quan trọng nữa, theo Hồ Chí Minh là khi khái quát được những kết luận rồi thì phải đem lý luận “chứng minh với thực tế”. Nghĩa là, lý luận phải được kiểm tra bởi thực tiễn, chứng minh bằng thực tế. Đó mới là lý luận chân chính<small>6</small>.

- Rõ ràng, lý luận được hình thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn, nhưng không phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận.

<i>Lý luận được hình thành thơng qua hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,khái quát lý luận của các nhà lý luận. Vì vậy, lý luận khơng thể ra đời một</i>

cách tự phát và luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bằng tổng kết

<i>những kinh nghiệm thực tiễn mới, phong phú bởi các nhà lý luận. Do tính độc</i>

<i>lập tương đối của mình, lý luận có thể phản ánh vượt trước các dữ liệu thựctiễn. Nhưng xét đến cùng, lý luận không thể không dựa trên cơ sở của kinh</i>

nghiệm thực tiễn.

=> Từ những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh có thể

<i>hiểu, lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh</i>

<i>nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tínhquy luật của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý,quy luật, phạm trù.</i>

<i><b>1.2.2. Đặc trưng của lý luận</b></i>

<i>Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái qt cao, tính lơgíc chặtchẽ. Bởi lẽ, bản thân lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ kinh</i>

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nghiệm thực tiễn. Nó khác với tri thức kinh nghiệm là loại tri thức mà nội dung cơ bản của nó là thu được từ kinh nghiệm, từ quan sát và thực nghiệm khoa học. Cho nên tri thức kinh nghiệm nhìn chung cịn rời rạc, đã có tính hệ thống nhưng tính hệ thống chưa chặt chẽ. Tri thức kinh nghiệm đã có tính khái quát nhưng chưa cao, chưa sâu sắc; tính khái qt của tri thức kinh nghiệm cịn ở trình độ thấp. Tính lơgíc của tri thức kinh nghiệm cũng còn hạn chế.

<i>Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.</i>

Khơng có tri thức kinh nghiệm thực tiễn thì khơng có cơ sở để khái quát thành lý luận. Tuy nhiên, không phải mọi tri thức kinh nghiệm đều có thể khái quát thành lý luận. Từ những tri thức kinh nghiệm thông thường, vụn vặt, cục bộ không thể khái quát thành lý luận khoa học.

<i>Thứ ba, lý luận có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượng. Bởi</i>

vì, lý luận phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Khác với kinh nghiệm - mới phản ánh được từng mặt riêng lẻ, bề ngồi, thậm chí cịn mang tính ngẫu nhiên của sự vật.

<i>=> Do có được những đặc trưng trên mà lý luận có phạm vi ứng dụng</i>

<i>rộng hơn, phổ biến hơn so với tri thức kinh nghiệm. Mặc dù, tri thức kinh</i>

nghiệm đóng vai trị rất quan trọng trong đời sống thường ngày của con người, nhưng rõ ràng, vai trò của tri thức kinh nghiệm bị hạn chế ở những giới hạn, phạm vi cụ thể xác định.

<b>2. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận</b>

Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn đó, nếu khơng lý luận đó sẽ là lý luận suông, lý luận thuần túy sách vở, xa rời cuộc sống dễ trở thành lý luận ảo tưởng, không có căn cứ, giáo điều, kinh viện.

<i>- Thực tiễn có vai trị to lớn đối với lý luận, thể hiện ở chỗ:</i>

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. </i>

<i>+ Các hình thức thực tiễn của con người, ngay từ đầu, đã bị quy định</i>

bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên và xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Như vậy, con người quan hệ với thế giới xung quanh bắt đầu bằng và thơng qua thực tiễn. Cũng chính bằng và thơng qua thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật của mình. Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết (tri thức) về sự vật và dần dần có cơ sở để khái quát những hiểu biết (tri thức) này thành lý luận. Như vậy, chính thực tiễn đã cung cấp “vật liệu” cho nhận thức, cho lý luận. Có thể nói, mọi tri thức của con người xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nói khác đi, thực tiễn là cơ sở của nhận thức, của lý luận.

<i>+ Thực tiễn còn là cơ sở đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi con người</i>

<i>trong đời sống của mình phải giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức, lý</i>

luận phát triển. Thực tiễn còn quy định khuynh hướng phát triển của lý luận. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, ln địi hỏi phải được khái qt, tổng kết để làm giàu kinh nghiệm, phát triển lý luận, định hướng cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Vì thế, thực tiễn luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học mới, của các lý luận mới.

<i>+ Thực tiễn cịn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người,</i>

<i>làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hồn thiện hơn. Trên cơ sở đó, giúp con</i>

người nhận thức hiệu quả hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua thực tiễn, con người cũng cải biến ln chính bản thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ của mình.

<i>Ph.Ăngghen đã viết: “...chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ</i>

không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã

<small>10</small>

</div>

×