Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

. Chính sách phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.87 KB, 34 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Trong xã hội hiện đại, phát triển giáo dục gắn với phát triển kinh tế - xã hội là một trong những mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển ở mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: giáo dục, đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho chiều sâu và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Nhận thức trên, trước hết bắt nguồn từ vai trò to lớn của giáo dục trong việc tái sản xuất sức lao động lành nghề, hoàn thiện chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ tái sản xuất trong các ngành kinh tế xã hội. Giáo dục không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ có giáo dục mà mỗi con người có năng lực trí tuệ, hiểu biết kỹ năng nghề nghiệp vận dụng sáng tạo vào trong cuộc sống và lao động sản xuất qua đó nâng cao hiệu quả, chất lượng lao động và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục, ngay từ năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng hệ thông giáo dục quốc dân mới. Phát động phong trào xoá mù chữ, coi diệt giặc dốt như diệt giặc đói, diệt giặc ngoại xâm. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào quá trình lãnh đạo nền giáo dục Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác

<i>định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quantrọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, là điều kiện để pháthuy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởngkinh tế nhanh và bền vững”<small>1</small></i>.

Đối với giáo dục đại học Việt Nam, sau hơn hai thập kỉ tiến hành công cuộc đổi mới cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế- xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam cũng đã và đang trong quá <small>1</small><i><b><small> Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 108 - 110</small></b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

trình tự đổi mới. Giáo dục đại học đã triển khai nhiều chủ trương, chinh sách và biện pháp quan trọng như: thực hiện dân chủ hóa nhà trường; điều chỉnh mục tiêu, cấu trúc lại chương trình đào tạo; xây dựng các trường đại học kiểu mới; thực hiện quy trình đào tạo mới, áp dụng học chế tín chỉ; đa dạng hóa các loại hình đào tạo, kết gắn các hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất… Mặc dù đã có những cố gắng nhưng sự chuyển biến của chính sách phát triển giáo dục đại học còn chậm so với các yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguyên nhân của những yếu kém trước hết phải kể đến trên thực tế việc thấu triệt và thực hiện quan điểm “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” chưa được tiến hành đầy đủ; tư duy về xây dựng các chính sách phát triển giáo dục-đào tạo đại học cịn chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Việc quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước, của các ngành và địa phương trong các chính sách phát triển giáo dục đại học làm căn để xác định mục tiêu, kế hoạch, quy mô, cơ cấu và chất lượng giáo dục, đào tạo còn chậm và tiến hành chưa hiệu quả. Nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp trong đó từng bước xây dựng, hồn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học khoa học, chính xác, thiết thực là một yêu cầu quan trọng, cấp thiết của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.

<b>NỘI DUNG</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1. Quan niệm chung về chính sách phát triển giáo dục đại học và vấnđề hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thịtrường ở Việt Nam</b>

<i><b>1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị chính sách phát triển giáo dục đạihọc trong nền kinh tế thị trường</b></i>

Để tiến hành các hoạt động của mình có hiệu quả, mỗi cá nhân hoặc tổ chức ngoài việc phát huy tối đa khả năng sẵn có của bản thân cịn phải tận dụng có hiệu quả những thuận lợi và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực do điều kiện khách quan tác động. Vì vậy, khi tiến hành các hoạt động, các cá nhân hoặc tổ chức thường phải có những giải pháp, chiến lược, sách lược, kế hoạch, phương pháp hoặc những cách thức xác định theo một cách nhất định nào đó nhằm thực hiện bằng được các mục đích đã định sẵn. Muốn vậy, mỗi cá nhân, tổ chức hoặc xã hội phải có một chuỗi chương trình hay một tập hợp các nguyên tắc hành động định trước để hướng dẫn thực hiện. Người ta gọi chung đó là chính sách.

Chính sách có thể được hiểu là một chuỗi các trình tự diễn ra, hoặc tập hợp các hoạt động diễn ra theo một trật tự nhất định, kèm theo phương tiện bao gồm các giải pháp, biện pháp và điều kiện vừa có tính khuyến khích, vừa có tính cưỡng bức để truyền đạt, triển khai và thực hiện những ý tưởng, mục đích, mục tiêu và thái độ của một tổ chức, một thế lực hay một đại diện của nhóm lợi ích cụ thể nào đó đối với các tổ chức, các cá nhân hay các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Nói cách khác, chính sách là sự truyền đạt ý định của người ra quyết định theo một ý nghĩa thông thường, hướng người thực hiện vào những hành động cụ thể của một vấn đề nào đó nhằm đạt được mục đích dự kiến. Chính sách cũng có thể được hiểu là một kế hoạch, chương trình hay dự án có tính chất quyết định về định hướng những hành động; là sản phẩm của một nhà nước, một tổ chức, một nhóm người hay của mỗi cá

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

nhân. Q trình chính sách là quá trình xác định, xếp đặt những lựa chọn và ưu tiên khác nhau để đưa ra những quy tắc và quy định về các vấn đề chính trị, quản lý, tài chính và hành chính nhằm đạt được những mục đích cụ thể. Mục tiêu của chính sách thường được xác định theo những chủ đề xã hội, bao gồm việc xác định các sự kiện hay vấn đề cần xử lý; thiết kế công cụ xử lý; chuẩn bị tổ chức, nhân lực và tài chính để thực hiện; điều chỉnh hoặc thay đổi nội dung khơng cịn phù hợp và đánh giá các vấn đề tiếp tục phát sinh từ các chính sách hiện hữu. Chính sách có thể được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi cách phân loại nhằm phục vụ cho một ý đồ phân tích nhất định.

Đối với lĩnh vực giáo dục đại học, phát triển là quá trình lớn lên, tăng lên, mở rộng ra về mọi mặt của hệ thống giáo dục đại học trong một quốc gia. Nó bao gồm sự tăng trưởng về quy mơ, sự hoàn chỉnh về cơ cấu, thể chế và sự tăng tiến về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Phát triển giáo dục đại học thuộc nội dung của phạm trù phát triển bền vững. Đó khơng chỉ là sự phát triển trong hiện tại, mà còn là những đảm bảo cho quá trình tiếp tục trong tương lai xa. Sự phát triển đòi hỏi phải đạt được cả về hiệu quả kinh tế, công bằng xã hội và sự bảo vệ, gìn giữ mơi trường văn hóa. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các nhóm lợi ích, giai tầng xã hội và mỗi người dân... phải bắt tay nhau thực hiện dung hòa những vấn đề chính trị-kinh tế-xã hội-văn hóa của đất nước. Phát triển giáo dục đại học bền vững là mục tiêu hướng tới của tất cả các quốc gia trên thế giới, nhưng mỗi quốc gia dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phát triển phù hợp nhất với quốc gia đó. Phát triển giáo dục đại học là một q trình tiến hóa diễn ra theo thời gian và do những nhân tố bên trong của hệ thống quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó. Như vậy, chính sách phát triển giáo dục đại học là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu,

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

nguyên tắc và các biện pháp nhằm phát triển quy mô, cơ cấu chất lượng và hiệu quả các sản phẩm giáo dục đại học.

Chính sách phát triển giáo dục đại học thường được xuất phát từ các yếu tố thực tiễn, kết hợp với việc vận dụng và sử dụng những lý luận đa dạng trong từng trường hợp cụ thể để tạo ra sự cân đối cần thiết và sự gắn bó hữu cơ với thực tế kinh tế-xã hội, đáp ứng yêu cầu luôn luôn thay đổi của người dân. Chính sách phát triển giáo dục đại học chính là sự thể chế hóa đường lối, quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền về việc giải quyết các vấn đề phát sinh từ mối quan hệ giữa trường đại học với xã hội.

Chính sách phát triển giáo dục đại học thể hiện sự tương tác giữa xã hội với giáo dục đại học và mối liên hệ giữa các nhóm lợi ích cùng quan tâm tới giáo dục đại học. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách phát triển giáo dục đại học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là một trong các điều kiện cơ bản quyết định đến cơ chế hoạt động của thị trường dịch vụ giáo dục đại học.

Chính sách phát triển giáo dục đại học có cấu trúc phức tạp và ảnh hưởng rộng trong xã hội. Chính sách phát triển ảnh hưởng tới những điều kiện cơ bản của giáo dục đại học bằng cách thay đổi khuôn khổ pháp luật và giá trị mà trong đó các cơ sở đào tạo đại học hoạt động và cấu trúc thị trường dịch vụ giáo dục đại học chủ yếu thơng qua hệ thống cơng cụ có ảnh hưởng tới việc định ra giá cả hàng hóa và dịch vụ (thuế và trợ cấp, học phí, tự do hố thị trường thơng qua q trình tự điều tiết và tư nhân hố, kích thích thị trường bằng việc hình thành thị trường ảo... nhằm thúc đẩy quá trình tự do hố, đồng thời kích thích sự phát triển của thị trường dịch vụ giáo dục đại học). Ngoài ra, nó ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi của người bán và người mua, chủ yếu thông qua hoạt động điều tiết giá cả, số lượng cung-cầu, cung cấp thông tin gián tiếp và trực tiếp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Giống như các loại chính sách cơng, chính sách phát triển giáo dục đại học tồn tại và phát triển khách quan song hành với bộ máy cai trị khi xã hội có sự khơng bình đẳng trong việc phân chia quyền sở hữu dẫn đến xuất hiện các nhóm lợi ích khác nhau và là sản phẩm của con người. Vì vậy, nó có một số đặc điểm chung sau đây:

Có mối quan hệ biện chứng và sự phụ thuộc lẫn nhau với chính sách kinh tế nhưng độc lập tương đối với chính sách kinh tế. Chính sách phát triển giáo dục đại học bao giờ cũng chịu sự chi phối và ràng buộc của các điều kiện kinh tế. Tuy nhiên, bản thân chính sách phát triển giáo dục đại học cũng có sự độc lập tương đối với những điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu thực hiện q trình phân tích chính sách phát triển giáo dục đại học một cách thường xuyên nhằm phát hiện những bất cập giữa chính sách với chính sách kinh tế-xã hội, cũng như thực tiến đời sống xã hội. Đặc biệt, khi đưa ra các chính sách phát triển giáo dục đại học dài hạn phải dựa trên các dự báo khoa học về phát triển kinh tế -xã hội, và cần có sự tham vấn các đối tượng xã hội thông qua phản biện xã hội. Mặt khác, đặc điểm này cũng địi hỏi chính sách phát triển giáo dục đại học cần có tính ổn định tương đối, tính hệ thống và tính tiên tiến (gắn kết và định hướng sự phát triển kinh tế-xã hội).

Chính sách phát triển giáo dục đại học là quá trình nhận thức đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Do chính sách phát triển giáo dục đại học có nguồn gốc, nội dung, nguyên nhân xã hội và cả sự tồn tại, phát triển của nó cũng mang tính chất xã hội nên nó chính là sản phẩm của q trình nhận thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp về các vấn đề, hiện tượng và sự vật bao gồm cả những thuộc tính bên trong và bên ngoài của giáo dục đại học đặt trong các mối quan hệ xã hội. Chính sách phát triển giáo dục đại học luôn gắn với từng giai đoạn lịch sử

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

nhất định. Chính sách phát triển giáo dục đại học là tổng thể các biện pháp và thủ pháp kinh tế, quản lý của nhà nước nhằm tác động vào hệ thống giáo dục đại học theo những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định. Khi tình hình kinh tế, xã hội và chính trị thay đổi thì chính sách phát triển giáo dục đại học cũng thay đổi theo. Nó có thể được nhà nước sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện sau khi đã được ban hành. Trong xã hội hiện đại, các chính sách phát triển giáo dục có xu hướng hướng tới cơng bằng và hiệu quả. Chính sách phát triển giáo dục đại học bao giờ cũng phù hợp với quan hệ sản xuất mà nó đang vận động và ln phản ánh nội dung chính trị và kinh tế của quan hệ sản xuất đó. Chính vì thế, chính sách phát triển giáo dục trong các nền kinh tế khác nhau cũng có sự khác biệt.

Từ các cách triếp cận trên đây, chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm sản phẩm giáo dục đại học vừa là một loại hàng hố đặc biệt, vừa khơng phải là hàng hố. Tính hai mặt này của giáo dục đại học không mẫu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Vì vậy, một mặt chính sách phải làm cho giáo dục đại học đáp ứng nhiều hơn với nhu cầu của thị trường để hoạt động của trường đại học trở lên hiệu quả hơn và nói chung, giáo dục đại học có khả năng thích nghi và sáng tạo hơn. Mặt khác, chính sách phải phát huy được vai trò định hướng và hỗ trợ của nhà nước đối với phát triển giáo dục đại học. Vai trị quan trọng của chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường là ở chỗ, trong cùng một lúc phải tối đa hố được tất cả các lợi ích. Để đạt được điều đó, chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường, trước hết, phải thể hiện là phương tiện để xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục đại học nói riêng; đồng thời nó cũng là một trong các yếu tố quan trọng xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế trong môi trường biến động. Nó thừa nhận

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

một cách tự nhiên và tơn trọng các lợi ích cá nhân với những mục tiêu kinh tế độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng.

Chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường là không gian để nhà nước triển khai áp dụng hệ thống thể chế định hướng cho giáo dục đại học phát triển theo đúng mục tiêu và tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển giáo dục đại học; đồng thời nó cịn là cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng, rộng rãi cho các đối tác trong toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học.

Chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường có vai trị tạo lập mơi trường giáo dục đại học thuận lợi, an tồn và bình đẳng. Nó được biểu hiện thơng qua các yếu tố như: hạ tầng cơ sở tốt, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định, nền hành chính rõ ràng và bộ máy công quyền trong sạch, lành mạnh... Những yếu tố trên đều do nhà nước tạo dựng nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước đáp ứng mục tiêu phát triển giáo dục đại học. Môi trường giáo dục đại học thuận lợi còn thể hiện ở sự lành mạnh, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong lĩnh vực giáo dục đại học; xóa bỏ sự độc quyền dù là độc quyền nhà nước hay độc quyền tư nhân.

Chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trị bảo hộ hệ thống giáo dục đại học. Để thị trường dịch vụ giáo dục đại học phát triển, nhà nước cần có sự bảo hộ hợp lý đối với một số lĩnh vực và ngành, nghề đào tạo. Thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật và bộ máy hành chính, nhà nước có trách nhiệm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đại học như: quyền sở hữu, quyền tự do đào tạo theo pháp luật quy định, bảo vệ bản quyền, thương hiệu nhà trường... Theo nghĩa bao quát hơn, hình thức bảo hộ còn được thể hiện ở sự bảo hộ hệ thống giáo dục đại học trong nước trước sự cạnh tranh từ bên ngoài, bảo vệ những quyền lợi của công dân, các tổ chức trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nước khi có sự tranh chấp với các tổ chức, các cơ sở đào tạo nước ngoài, trong xu thế tồn cầu hóa và quốc tế hóa giáo giáo dục đại học ngày càng tăng.

<i><b>1.2. Nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển giáodục đại học trong nền kinh tế thị trường</b></i>

Có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu nội dung của chính sách phát triển giáo dục đại học. Hiện nay dưới góc độ kinh tế học giáo dục, chính sách phát triển giáo dục đại học trên ba phương diện là chính sách tăng trưởng, chính sách cơ cấu và chính sách chất lượng giáo dục đại học.

Chính sách tăng trưởng giáo dục đại học là chính sách đảm bảo tăng quy mô sản phẩm giáo dục đại học. Nó được đo lường bằng chỉ tiêu tăng số sinh viên đại học hàng năm.

Chính sách cơ cấu giáo dục đại học là chính sách đảm bảo tỷ lệ của hệ thống giáo dục đại học. Nó thường được đo lường bằng các chỉ tiêu tỷ lệ giữa các trình độ, ngành nghề, xã hội, địa bàn hoạt động vùng miền... của nhân lực. Chính sách chất lượng giáo dục đại học là chính sách đảm bảo đáp ứng nhu cầu và khả năng cung ứng chất lượng sản phẩm của hệ thống giáo dục đại học.

Giữa các nhóm vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau; chính sách này vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là kết quả của chính sách kia. Chính sách tăng trưởng giáo dục đại học là mục tiêu hàng đầu mà chính sách phát triển giáo dục đại học phải hướng tới. Muốn có phát triển phải có tăng trưởng. Tuy nhiên, phát triển khơng chỉ có tăng về quy mơ mà cịn phải đảm bảo sự cân đối trong cơ cấu theo những tỷ lệ phù hợp. Theo đó, việc đổi mới cơ cấu tạo nên một mạng lưới các cơ sở đào tạo đại học đa dạng và phân hóa về mục tiêu, sở hữu; có sự liên thơng và liên kết làm cho hệ thống được mềm dẻo, vừa đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao, vừa gia tăng khả năng lựa chọn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của đông đảo người dân, kể cả ở những địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, góp phần

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

giải quyết tính cơng bằng xã hội, sự bình đẳng giới, bình đẳng giữa các dân tộc về hưởng thụ giáo dục đại học. Do vậy đòi hỏi phải chú trọng tới chính sách cơ cấu. Đồng thời muốn có sự tăng trưởng lâu dài, bền vững, phải có được chính sách đảm bảo chất lượng. Chính sách chất lượng được dựa trên quan điểm: chất lượng phải đa dạng và được chuẩn hóa, hiện đại hóa cho từng phương thức đào tạo trên các mặt chương trình, nội dung, khả năng liên thông, chuyển tiếp; phát triển năng lực tự học, học suốt đời, chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ và giao tiếp ứng xử. Chất lượng giáo dục đại học có liên quan chặt chẽ đến chương trình, phương pháp đào tạo; kiểm tra đánh giá; chất lượng đội ngũ giảng viên và các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng cho yêu cầu đào tạo. Một trong những nội dung quan trọng trong chính sách chất lượng là triển khai hệ thống đảm bảo chất lượng với những tiêu chí đánh giá và quy trình kiểm định chất lượng, được thực hiện dựa trên quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo đại học. Kèm theo chính sách chất lượng là các chính sách về tuyển chọn người học, công bằng xã hội và xây dựng đội ngũ giảng viên.

Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách phát triển giáo dục đại học gồm: Môi trường luật pháp. Hệ thống luật pháp là một công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo cho tăng trưởng, cơ cấu và chất lượng của phát triển giáo dục đại học. Là kiến trúc thượng tầng đứng trên những quan hệ kinh tế đã hình thành, pháp lý đến lượt mình là nhân tố thúc đẩy và định hướng cho các mối quan hệ tương hỗ trong xã hội, hệ thống pháp luật có thuộc tính củng cố, cũng như thúc đẩy, kích thích, tạo điều kiện, dù là ít nhất, cho sự phát sinh của các mối quan hệ tương hỗ mà những người lập chính sách đang hướng tới. Môi trường luật pháp với khung pháp lý hoàn chỉnh và hệ thống các văn bản pháp quy minh bạch điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường dịch vụ sản phẩm giáo

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

dục đại học sẽ đảm bảo và giúp cho thị trường này hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường đồng thời sẽ hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất cơng trong xã hội nói chung, trong lĩnh vực giáo dục đại học nói riêng. Chỉ có dựa trên một hệ thống các công cụ luật pháp đầy đủ và vững chắc, nhà nước mới có thể điều tiết xã hội thực hiện phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm lợi ích bình đẳng trước cơ hội nhập học; mặt khác, chỉ khi có một hệ thống luật pháp vững chắc thì nhà nước mới có thể xây dựng được những cơ chế, chính sách tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương cho các chủ thể tham gia quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục đại học để huy động và phát huy các nguồn lực xã hội phát triển giáo dục đại học. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một môi trường luật pháp phù hợp giúp mọi công dân có quyền tự do đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, cũng như trong cung cấp và tiếp nhận thơng tin; giúp xóa bỏ độc quyền và đặc quyền của các trường đại học công lập và bảo đảm cho các trường đại học công lập được thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đào tạo, cạnh tranh và chấp nhận rủi ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của đội ngũ cán bộ giảng dạy, quản lý với kết quả hoạt động của trường đại học.

Chính sách đầu tư là vấn đề nền tảng để thực hiện chính sách phát triển giáo dục đại học. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách tăng trưởng, cơ cấu và chất lượng giáo dục đại học. Đầu tư phát triển cho giáo dục đại học phải bao gồm cả ba yếu tố cơ bản đó là điều kiện cơ sở vật chất, đầu tư tài chính và đầu tư về đội ngũ giảng viên. Thiếu một trong ba yếu tố này không thể có

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

được sản phẩm giáo dục đại học như mong muốn. Đầu tư cơ sở vật chất bao gồm cả về đất đai, cơ sở vật chất như trường lớp, hệ thống học liệu, thư viện, phịng thí nghiệm, nhà ở sinh viên và nhà làm việc,... cho các cơ sở giáo dục đại học. Đầu tư về tài chính nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động thường xuyên của các cơ sở giáo dục đại học. Đầu tư đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý. Chính sách này địi hỏi các cơ sở giáo dục đại học phải có trách nhiệm đào tạo đội ngũ giảng viên và quản lý cơ hữu của mình.

Cơng tác tổ chức quản lý. Công tác tổ chức quản lý cả tầm vĩ mơ và vi mơ có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển giáo dục đại học. Ở tầm vĩ mô, phát triển giáo dục đại học phải cần đến một thể chế tổ chức phù hợp; thừa nhận tính độc lập và sự bình đẳng của các tổ chức, đơn vị bằng việc tôn trọng và xác nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động và mối quan hệ giữa chúng; giảm bớt việc kiểm soát mang tính tập trung của chính quyền theo truyền thống đối với việc phê duyệt các chương trình đào tạo và giáo trình giảng dạy. Chính sách quản lý thể hiện vai trò, chức năng, mối quan hệ tác động qua lại giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan hoạch định chính sách với hệ thống giáo dục đại học và sự chấp hành của các cơ sở đào tạo với các quy định quản lý, bao gồm công tác điều hành, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động của cả hệ thống, cũng như trong từng cơ sở đào tạo về các mặt: quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở đào tạo đại học; cơng tác tài chính-kế tốn và hiệu quả sử dụng nguồn lực; cơng tác xã hội hóa và huy động nguồn lực đầu tư giáo dục đại học; phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo tư thục. Ở tầm vi mô, năng lực tổ chức quản lý của các cơ sở thực thi chính sách phát triển giáo dục đại học là điều kiện cho chính sách phát triển giáo dục đại học được triển khai thành cơng. Để thực hiện vấn đề này thì các cơ sở giáo dục đại học phải tuân thủ những quy định luật pháp và các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, phải chủ động năng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

khoa học của giảng viên, cán bộ nghiên cứu và sinh viên. Ngoài ra, phải quan tâm đến đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đào tạo, phải bảo đảm sự cân bằng giữa đào tạo đại cương, đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề nghiệp. Do đặc trưng của kinh tế thị trường, chương trình giáo dục đại học cần đưa nội dung giáo dục định hướng phát triển vào giảng dạy cùng với những kiến thức công nghệ và kỹ năng thực hành nghề nghiệp; phải đáp ứng được yêu cầu mở rộng quy mơ đào tạo, nâng cao vai trị của giáo dục thường xuyên, thúc đẩy phương pháp đào tạo mở; tạo điều kiện cho việc học từ xa và học lưu động; giúp cho sinh viên tự chuẩn bị trình độ ngoại ngữ để tham gia vào quá trình công nhận học thuật đa phương đối với các loại bằng cấp và chứng chỉ của các cơ sở đào tạo ở ngoài nước, hoặc để được làm việc ở các thị trường lao động khác nhau.

Môi trường quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách phát triển giáo dục đại học. Nó có vai trị thúc đẩy q trình hiện đại hố và nâng vị thế của cả hệ thống giáo dục đại học. Thông qua hội nhập và mở cửa hợp tác quốc tế từng bước điều chỉnh cấu trúc và cải cách giáo dục đại học theo hướng cạnh tranh quốc tế; phấn đấu đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng đào tạo và học thuật. Các trường đại học được tự chủ hơn và các chương trình giảng dạy, cũng như các hoạt động nghiên cứu khoa học được đổi mới và thúc đẩy hơn để vươn tới trình độ toàn cầu. Đội ngũ giảng viên, các học giả và nhà nghiên cứu có động cơ vươn lên đáp ứng các tiêu chuẩn học thuật quốc tế và thường xuyên tham gia vào các quan hệ và hoạt động quốc tế. Các sinh viên được giáo dục về các hiểu biết và sự thích ứng trong thị trường lao động quốc tế.

<i><b>1.3. Quan điểm hồn thiện chính sách phát triển giáo dục đại họctrong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Hơn 25 năm qua, cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển chung của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng tiếp tục phát triển. Đầu tư cho giáo dục-đào tạo ngày càng tăng. Quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng. Chất lượng dạy nghề có nhiều chuyển biến tích cực. Việc xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập đã thu được kết quả bước đầu. Về thành tựu của phát triển giáo

<i>dục, đào tạo, Đại hội XI của Đảng đánh giá "Đổi mới giáo dục đạt được mộtsố kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trên 20%tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đàotạo, phát triển… Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển… Tỷ lệ lao độngqua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc"<small>2</small>. Tuy</i>

nhiên, nằm trong xu thế chung của nền giáo dục Việt Nam bên cạnh những thành tích và tiến bộ đã đạt được, giáo dục và đào tạo đại học những năm qua vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập kéo dài, chậm được khắc phục. Trong đó, đặc biệt là chất lượng, hiệu quả giáo dục-đào tạo thấp và công tác quản lý nhà nước về giáo dục-đào tạo còn nhiều yếu kém, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Văn kiện Đại hội XI

<i>của Đảng đánh giá "Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầuphát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cịn hạn chế; chưachuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mốiquan hệ giữa tăng số lượng, quy mơ với nâng cao chất lượng,… Chươngtrình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáodục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dụctoàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cơngnghiệp hố, hiện đại hoá…."</i><small>3</small>.

<small>2</small><i><b><small> Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr 153</small></b></i>

<small>3</small><i><b><small>Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr167-168 </small></b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Giáo dục đại học Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI phát triển trong bối cảnh và xu thế đất nước đang trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực hiện mục tiêu đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Sự phát triển tăng tốc của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông đang mang lại những thay đổi lớn lao trong cách thức truyền thông, lưu giữ và tái tạo tri thức. Công nghệ thông tin và truyền thông cũng đang ảnh hưởng đến phương pháp dạy và học cũng như việc quản lý giáo dục đại học và quản trị trường trường đại học. Công nghệ thông tin và truyền thông cho phép liên kết các trường đại học và viện nghiên cứu trên toàn thế giới nhằm đẩy mạnh những hoạt động hợp tác quốc tế; xây dựng các chương trình đào tạo đa quốc gia một cách thuận lợi. Tồn cầu hóa và quốc tế hố đã trở thành xu hướng không thể đảo ngược trong cuộc sống xã hội hiện đại. Thực hiện tốt quá trình quốc tế hố và tồn cầu hóa giáo dục đại học có thể sẽ mang lại ý nghĩa quyết định cho những thành công về giáo dục của đất nước. Giáo dục đại học thế giới đã bước vào một giai đoạn thay đổi nhanh và thậm chí mang tính cách mạng. Hệ thống giáo dục đại học ngày càng mang tính cạnh tranh cao. Yêu cầu cải cách và đổi mới xã hội vẫn tiếp tục tăng lên trong môi trường xung đột chính trị thế giới cả ở phạm vi khu vực và toàn cầu. Đặc biệt với việc là thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam sẽ hội nhập một cách toàn diện và ngày càng sâu, rộng vào các quá trình phát triển của thế giới. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới đối với chính sách phát triển giáo dục đại học trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Chính sách phát triển giáo dục đại học phải tạo ra một sự thay đổi căn bản để khắc phục những yếu kém bất cập; thể hiện hệ tư duy đổi mới, xố bỏ thói quen bao cấp đối với giáo dục đại học, chuyển hướng giáo dục đại học từ sự nghiệp cơng ích thuần túy sang cơ chế dịch vụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền giáo dục đại học tiên tiến, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao dân trí; tác động đến sự phát triển của khoa học và công nghệ, làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo tồn và phát huy những tinh hoa của dân tộc, góp phần tạo nên sự phát triển nhanh chóng và bền vững của đất nước trong một thế giới hội nhập.

Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam phải thực hiện tốt các quan điểm sau đây:

<i>Thứ nhất, đa dạng hóa mơ hình hệ thống giáo dục đại học. Chuyển hệ</i>

thống giáo dục đại học từ chỗ chỉ đào tạo hàn lâm hoặc chủ yếu hàn lâm sang hoạt động theo mơ hình vừa đào tạo hàn lâm, vừa kết hợp với mô hình doanh nghiệp. Chính sách phát triển giáo dục đại học phải hướng đến việc đào tạo con người Việt Nam có sức khỏe tốt, phát triển tồn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức; có năng lực tự học, tự đào tạo, năng động, chủ động và sáng tạo; có tri thức và có kỹ năng làm việc tồn cầu; khả năng thích nghi nhanh chóng với mơi trường việc làm khơng ngừng biến đổi. Chính sách phát triển giáo dục đại học phải đặt trọng tâm vào việc tăng cường đào tạo các kỹ năng về công nghệ, thực hành kỹ thuật; những kiến thức cơ bản để có thể hiểu biết vững chắc về khoa học, công nghệ; nâng cao kỹ năng về tư duy để làm sao có được tư duy phê phán và phân tích logic sáng tạo, mở rộng, linh hoạt và biết sử dụng các kết quả phân tích vào trong thực tiễn để tìm ra các giải pháp và đưa ra các quyết định; rèn luyện kỹ năng giao tiếp và năng lực ngoại ngữ hiệu quả. Người học được học và hiểu biết, tôn trọng và tiếp thụ các nền văn hố khác nhau để có đủ khả năng hoà nhập với các cộng đồng, dân tộc khác trên thế giới. Chính sách phát triển giáo dục đại học khuyến khích và thúc đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy tại các trường đại học; áp dụng phương thức đào tạo hướng nghiệp và vừa học vừa làm cho giảng viên để họ

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

thực hiện được sứ mạng của người hướng dẫn sinh viên, thay vì vai trị trung tâm trong việc truyền tải thông tin và kiến thức; tăng cường đầu tư tài chính vào trang thiết bị, bao gồm phần cứng và phần mềm và quan trọng nhất là nguồn nhân lực; cải thiện và tăng cường năng lực tổng thể của cơ sở đào tạo; xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa học và quản lý đại học có tri thức và kỹ năng đạt đẳng cấp quốc tế; xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất hiện đại; phát triển hệ thống dịch vụ công trong giáo dục đại học. Cần tạo ra bước chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô đào tạo; đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao trí tuệ của dân tộc; xây dựng đội ngũ nhân lực đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; nâng cao sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và nền kinh tế đất nước; tạo môi trường cởi mở cho sinh viên thuận lợi chuyển đổi học tập và nghiên cứu giữa các trường đại học trong nước và nước ngoài. Mở cửa và hội nhập để đưa giáo dục đại học Việt nam đến với các nền giáo dục đại học trên thế giới; trên cơ sở đó tăng cường tính minh bạch và tính cạnh tranh của giáo dục đại học Việt Nam. Chính sách phát triển giáo dục đại học cần có sự chuẩn bị tốt nhất để chủ động tiếp nhận xu thế giáo dục xuyên biên giới. Chính phủ cần có chính sách ưu tiên đổi mới tài chính giáo dục đại học khơng chỉ trong việc giao ngân sách đào tạo, mà còn ban hành khung pháp lý cho các trường đại học mở rộng các phương thức huy động nguồn thu.

<i>Thứ hai, chuyển hệ thống giáo dục đại học từ chỗ đào tạo theo diện hẹpsang đào tạo theo diện rộng. Áp dụng quy trình giáo dục liên thơng trong hệ</i>

thống giáo dục chính thống; tạo điều kiện để mở rộng giáo dục sau trung học đáp ứng nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế-xã hội của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; khắc phục tình trạng mất cân đối về phát triển giáo dục đại học giữa các vùng, miền; sự bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề đào tạo; tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, năng

</div>

×