Tải bản đầy đủ (.pdf) (206 trang)

Sách chuyên khảo: Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại lý luận và thực tiễn - Thái Vĩnh Thắng (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.99 MB, 206 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

nghị sĩ và một số cơ quan, tổ chức theo quy định của luật.

Nhân dân thực hiện quyền sáng kiến pháp luật nếu dự luật

thu thập được ít nhất là 50.000 chữ ký của cử tri ủng hộ.

Tổng thống phê chuẩn các đạo luật trong vòng 30 ngàykể từ ngày dự luật được Nghị viện thông qua. Trong thờigian phê chuẩn dự luật, Tổng thống có quyển gửi thơng

điệp u cầu Nghị viện thảo luận lại dự luật với những lýdo nhất định. Nếu sau khi thảo luận lại, Nghị viện vẫn

quyết định thơng qua dự luật thì Tổng thống buộc phải phêchuẩn. Nếu cả hai viện của Nghị viện với đa số tuyệt đốituyên bố luật có hiệu lực khẩn cấp thì Tổng thống phải phêchuẩn luật đó theo thời hạn quy định trong đạo luật đó.Các đạo luật được cơng bố lập tức sau khi được phê chuẩnvà có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày công bố trừ trường

hợp ngày phát sinh hiệu lực đã quy định rõ trong văn bản(Điều 73). Nếu có từ 500.000 cử tri trở lên hoặc có từ 5 Hội

đồng vùng trở lên yêu cầu thì cuộc trưng cầu dân ý sẽ đượctiến hành nhằm bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ đạo luậthoặc văn bản có hiệu lực của luật. Đối với các vấn đề vềthuế và ngân sách, vấn đề ân xá và đặc xá, vấn đề thẩmquyền phê chuẩn điều ước quốc tế thì khơng tổ chức trưng

cầu dân ý (Điều 75). Các cuộc trưng cầu dân ý chỉ có hiệu

lực khi có trên 50% cử tri bỏ phiếu và có trên 50% cử tri bỏ

phiếu thuận cho vấn dé được đặt ra. Nghị viện có thể uy

quyền lập pháp cho Chính phủ trong những lĩnh vực nhấtđịnh và trong những thời gian nhất định. Với sự uy quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

của Nghị viện, Chính phủ có thể ban hành những sắc lệnhcó hiệu lực như luật. Trong trường hợp cần thiết và khẩncấp Chính phủ có thể ban hành những sắc lệnh có hiệu lựccủa luật, tuy nhiên những sắc lệnh này sau đó phải đượcNghị viện phê chuẩn trong vịng 60 ngày kể từ ngày cơng

bố. Nếu sau thời han nay mà không được Nghị viện phê

chuẩn thì sắc lệnh Chính phủ sẽ mất hiệu lực.

Nghị viện phê chuẩn ngân sách hàng năm và thông qua

luật về thực hiện ngân sách do Chính phủ đệ trình. Luật

về phê chuẩn ngân sách không thể đặt ra các loại thuế mới

cũng như các khoan chi tiêu mới. Tất ca các luật kéo theo

sự chi tiêu mới hoặc tăng các khoản chi tiêu đều phải chirõ nguồn để bù đắp sự gia tăng chi phí đó. Theo quy địnhtại Điều 82 của Hiến pháp 1947 các viện của Nghị viện cóquyền tổ chức điều tra về những vấn đề liên quan đến lợi

ích quốc gia.

Mỗi viện của Nghị viện có 13 Uỷ ban thường trực, mỗi

Uy ban chuyên về một hoặc một số lĩnh vực tương ứng với

các bộ trong Chính phủ. Có một số Uy ban liên kết giữa haiviện của Nghị viện như Uy ban điều tra các vụ việc liênquan đến lợi ích quốc gia. Trong các Uy ban có đại diện củacác dang phái chính trị khác nhau tương ứng với ty lệ đại

diện của các đảng phái trong Nghị viện. Các thành viên

của Nghị viện có thể là thành viên của Uỷ ban theo sự lựa

chọn của mình, tuy nhiên mỗi thành viên tối đa chỉ có thể

tham gia vào hai Uy ban.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

Các nghị sĩ trong mỗi viện tham gia vào các nhóm nghịsĩ khác nhau, phụ thuộc vào Dang phái chính trị của mình,tuy nhiên cũng có những nhóm nghị sĩ gồm nhiều đẳngphái. Thơng thường ở Hạ viện mỗi nhóm nghị sĩ khơng íthơn 20 thành viên, ở Thượng viện mơi nhóm nghị sĩ khơng

<small>ít hơn 10 thành viên.</small>

II. CHÍNH PHU

Chính phủ Italia được gọi là Hội đồng bộ trưởng, baogầm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các Bộ trưởng. Chủ

tịch Hội đồng Bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm, cácthành viên khác của Chính phủ cũng do Tổng thống bổ

nhiệm theo để nghị của Chu tịch Hội đồng Bộ trưởng (Điều

92 Hiến pháp 1947).

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các Bộ trưởng trước khi

nhậm chức phải thực hiện lễ tuyên thệ trước Tổng thống.Chính phủ do Tổng thống thành lập phải được sự tín

nhiệm của Thượng viện và Hạ viện. Sự tín nhiệm hoặc

khơng tín nhiệm của hai viện được thể hiện bằng nghịquyết của hai viện. Nghị quyết được thông qua với đa sốphiếu thuận của Nghị sĩ ở Hạ viện và Thượng viện. Khôngmuộn hơn 10 ngày sau khi thành lập Chính phủ, Tổng

thống phải đệ trình danh sách Chính phủ lên hai viện của

Nghị viện để đề nghị Nghị viện phê chuẩn. Việc Nghị viện

bác bỏ một kiến nghị nào đó của Chính phủ khơng buộcChính phủ phải giải tán. Chính phủ chịu trách nhiệm

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

chính tri trước mỗi viện của Nghị viện

Vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ được đặt ra

khi có ít nhất 1/10 nghị sĩ của một trong hai viện đề nghị

và ký vào dự thảo Nghị quyết bất tín nhiệm Chính phủ.

Việc thảo luận về dự thảo Nghị quyết bất tín nhiệm chỉ có

thể thực hiện sau 03 ngày kể từ khi dự thảo được đưa ra(Điều 94 Hiến pháp 1947).

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh đạo và chịu tráchnhiệm về đường lối chính trị chung của Chính phủ; đảm

bảo sự thống nhất giữa chính trị và hành chính, điều hồ

hoạt động của các Bộ trưởng. Các Bộ trưởng chịu tráchnhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ và chịu tráchnhiệm cá nhân về lĩnh vực mình phụ trách. Theo quy định

tại Điều 95 Hiến pháp 1947, Nghị viện sẽ ban hành một

đạo luật riêng về tổ chức Hội đồng Bộ trưởng trong đó sẽquy định rõ về Chủ tịch đoàn Hội đồng Bộ trưởng, về sốlượng, chức năng và tổ chức của các bộ. Trong khi thực hiệnchức năng, nhiệm vụ của mình nếu Chủ tịch Hội đồng Bộ

trưởng và các Bộ trưởng phạm tội hình sự sẽ bị tồ án tư

pháp xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường với sự đồng

ý của Thượng viện hoặc Hạ viện theo quy định của Hiếnpháp và luật. Việc truy cứu và xét xử cũng có thể được tiếnhành sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các Bộ

trưởng đã mãn nhiệm (Điều 96 Hiến pháp 1947).

Cơ quan nhà nước (công sở) được thiết lập theo quy định

của luật nhằm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

mình và dam bảo một nền hành chính trong sạch. Trong

luật về tổ chức công sở sẽ xác định thẩm quyền, chức năng

và trách nhiệm cá nhân của các nhà chức trách. Các chức

<small>vụ trong bộ máy hành chính nhà nước sẽ được xác lập theo</small>

nguyên tắc thi tuyển, trừ khi luật có quy định khác. Nhiệm

vụ của cơng chức là phục vụ lợi ích quốc gia (Điều 98 Hiến

pháp 1947). Nếu công chức là thành viên của Nghị viện họ

chỉ có thể được nâng chức vụ khi đã hết nhiệm kỳ của Nghịsĩ. Đối với các thẩm phán, cán bộ (sĩ quan) quân sự tại chức,

các sĩ quan và nhân viên cảnh sát, các quan chức và nhânviên ngoại giao, các đại diện lãnh sự quan ở nước ngoài có

thể bị hạn chế quyền tham gia các đảng phái chính trị.Tham quyển của Chính phủ khơng được quy định cuthể trong Hiến pháp, tuy nhiên trên thực tế Chính phủ với

tư cách cơ quan hành chính nhà nước cao nhất có tồn

quyền thực hiện chức năng hành phap”. Theo Điều 76 va

77 Hiến pháp 1947 Chính phủ có quyền lập pháp nếu đượcNghị viện uy quyền. Khi được Nghị viện uỷ quyền Chính

phủ có quyền ban hành sắc lệnh có hiệu lực của luật.

Chính phủ Italia có 20 Bộ bao gồm: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại

giao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Ngânkhố, Bộ Kế hoạch kinh tế, Bộ Nơng nghiệp và lâm nghiệp,

<small>. © Xem Luật hiến pháp nước ngoài, tập 3 (phần riêng) doStrashun V. A chủ biên, Nxb. BEK 1997, tr.311 (tiếng Nga).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Bộ Công thương, Bộ Ngoại thương, Bộ Du lịch, Bộ Dịch vụcông, Bộ Giao thông và hàng khơng dân dụng, Bộ Hàng

hải, Bộ Bưu chính và viễn thông, Bộ Giáo dục, Bộ Lao

động và an sinh xã hội, Bộ Y tế và sức khoẻ, Bộ Văn hoá

Hệ thống toa án tư pháp bao gồm các tồ an thẩmquyền chung giải quyết các vụ án hình sự và dân sự bao

gồm cả các toà hoà giải - giải quyết các vụ dân sự nhỏ

(Court of Peace), tồ án quận, tồ án tỉnh; tồ đại hình

(100 tồ đại hình) và 36 tồ phúc thẩm đại hình và cao

nhất là tồ phá án. Ngồi ra, cịn có các toà án đặc biệt như

toà án vị thành niên, toà án về giải quyết các vụ việc sửdụng nguồn nước cơng cộng, tồ án qn sự.

Các tồ án hoạt động ở 23 khu vực, các khu vực này

không trùng với các đơn vị hành chính lãnh thổ.

<small>Toa hồ giải</small>

Tịa hồ giải giải quyết các vụ án dân sự nhỏ, chủ yếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

là hoà giải. Tham phan ở Tồ hồ giải khơng được trảlương và khơng cần phải có bằng luật. Ở mỗi cơng xã có một,thẩm phán hồ giải được lựa chọn từ những người trongcơng xã, từ 25 tuổi trở lên có khả năng độc lập thực hiệnchức năng giải quyết các tranh chấp dân sự nhỏ. Thamphán toà hoà giải do Hội đồng thẩm phán trung ương bổnhiệm với nhiệm kỳ 03 năm và có thể được tái bổ nhiệm.

<small>Toa an quận (gọi la Pretura)</small>

Toà án quận xử phúc thẩm các vụ việc mà Toa hoà giảiđã xét xử sơ thẩm, đồng thời xét xử sơ thẩm các vụ án dân

sự có giá trị tài sản khơng lớn, các tranh chấp lao động, các

tranh chấp về bảo hiểm xã hội, các vụ án hình sự mà hìnhphạt khơng q 03 năm tù giam va phạt tiền. Ở Italia có

khoảng 1000 tồ án quận.

<small>Toà an tinh (gọi là Tribunal)</small>

Toà án tỉnh xét xử phúc thẩm các bản án bị kháng

nghị, kháng cáo do toà án quận xét xử đồng thời xét xử sơ

thẩm một khối lượng lớn các vụ án dân sự và hình sựkhơng thuộc thẩm quyền của tồ án quận và tồ đại hình.Trong các phiên tồ của tồ án tỉnh có 03 thẩm phán. Cácthẩm phán hàng năm thay phiên được bổ nhiệm làm thẩmphán điều tra, thẩm phán xét xử và thẩm phán áp dụng

hình phạt. Trong các Tồ án tỉnh (Tribunal) có các phân

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

tồ hình sự, dân sự, lao động. Trên lãnh thổ Italia có 150

tồ án tỉnh.

Tồ phúc thẩm

Tồ phúc thẩm được đặt ở các khu vực để xét xử phúcthẩm cho các bản án toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm bịkháng nghị, kháng cáo. Các phiên toà của Toà phúc thẩm

bao gồm ba thẩm phán. Toà phúc thẩm có các phân tồhình sự, dân sự, lao động, chi nhánh điều tra. Trong các toàphúc thẩm từ năm 1934 thành lập thêm Toà vị thành niênđể xét xử các vị thành niên vi phạm pháp luật.

Tồ đại hình va Tồ phúc thẩm dại hình

Trong các khu vực (Region) một hoặc một số tồ đại

hình và phúc thẩm đại hình được thành lập để xét xử cácvụ đại hình thơng thường là các vụ án giết người. Tồ đạihình có 2 thẩm phán chuyên nghiệp và 06 thẩm phán nhândân. Các thẩm phán nhân dân phải là công dân Italia, ở độ

tuổi từ 30 đến 65, ít nhất phải tốt nghiệp phổ thơng trung

học, có đạo đức tốt. Những luật gia chuyên nghiệp, các sĩ

quan quân đội, các công chức ngành cảnh sát, các cố đạo,các bộ trưởng, thứ trưởng, các thành viên của Hội đồng địa

phương và các nghị sĩ và một số chức vụ khác theo quy

định của luật khơng thé là thẩm phán nhân dân. G Italia

có 100 Tồ đại hình và 36 Tồ phúc thẩm đại hình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - ly luận và thực tiễn

<small>Toa pha an</small>

Toà án cấp cao nhất ở Italia là Toa phá án. Tồ phá án

có khoảng 300 thẩm phán. Tồ phá án có chức năng đảm bảosự xét xử thống nhất trong tổ chức và hoạt động của toà án,giai quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các toà. Toà pháán có thể xem xét các kháng nghị, kháng cáo các bản án củatồ phúc thẩm. Tồ phá án có 03 phân tồ hình sự và 03

phân tồ dân sự. Các phiên toà của toà phá án bao gồm một

hội đồng 07 thẩm phán, các vụ việc phức tạp có thể được xemxét bởi hội đồng 15 thẩm phán. Trong Toà phá án có sự tham

dự của Viện trưởng và các Phó viện trưởng Viện cơng tố",

2. Tồ án Hiến pháp

Đạo luật về tổ chức Toà án Hiến pháp được ban hành

năm 1953. Toà án Hiến pháp bao gồm 15 thẩm phán, trong

đó 1/3 do Tổng thống bổ nhiệm, 1/3 do Nghị viện bổ nhiệm

và 1/3 do Toà án tư pháp và hành chính tối cao bổ nhiệm.

Nhiệm kỳ của thẩm phán Tồ án Hiến pháp là 09 năm vàkhơng thể được tái bổ nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp,

Chánh án Toà án Hiến pháp do các thẩm phán Toà án Hiến

pháp bầu ra với nhiệm kỳ 03 năm và có thể được bầu lại cho

đến khi hết nhiệm kỳ của thẩm phán Toà án Hiến pháp.

Thẩm phán Toà án Hiến pháp có thể được lựa chọn từ cácthẩm phán Tồ án tư pháp hoặc hành chính đương

<small>® Sách đã dan, tr. 327.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

chức hoặc đã về hưu, các giáo sư luật, các luật sư trên 20

năm thâm niên nghề nghiệp. Các thẩm phán Toà án Hiếnpháp không thể đồng thời là nghị sĩ, thành viên của cácHội đồng địa phương hành nghề luật sư hoặc giữ các chức

<small>vụ khác”',</small>

Tồ án Hiến pháp Italia có thẩm quyền giải quyết các

vu Uiệc sau đây:

- Xem xét tính hợp hiến của các luật và các văn bản có

hiệu lực như luật. Theo Điều 136 Hiến pháp năm 1947 khi

Toà án Hiến pháp tuyên bố một đạo luật hoặc văn bản có

hiệu lực của luật nào đó vi hiến thì văn bản đó chấm dứt

hiệu lực kể từ thời điểm Tồ án Hiến pháp cống bố quyết

định của mình;

- Giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các nhánh

quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp và xung đột

thẩm quyển giữa chính quyền trung ương và chính quyền

vùng, giữa chính quyền các vùng với nhau;

- Xem xét việc đàn hạch Tổng thống theo quy định của

Hiến pháp;

- Xem xét, giải quyết yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý

về bãi bỏ một đạo luật.

<small>® Sách đã dan, tr.317.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - l luận và thực tiễn

<small>3. Toa án hành chính</small>

Tồ án hành chính ở Italia được thành lập trên cơ sở

Luật về Hội đồng nhà nước năm 1924 và Luật về tổ chức

<small>tồ án hành chính vùng năm 1974.</small>

Hội đồng nhà nước

Theo Luật về Hội đồng nhà nước năm 1924 và Điều 100

Hiến pháp năm 1947, Hội đồng nhà nước là cơ quan thammưu cho Chính phủ trong lĩnh vực tư pháp và hành chính,

đồng thời là cơ quan xét xử hành chính tối cao.

Với tư cách là cơ quan tham mưu của Chính phủ, Hội

đồng nhà nước đưa ra kết luận về các dự thảo luật và dự

thảo các văn bản pháp luật khác. Các kết luận về các dự luật

Hội đồng nhà nước gửi cho Chính phủ và các bộ. Theo yêucầu của Chính phủ, Hội đồng nhà nước có thể soạn thảo một

số dự luật và dự thảo các văn bản pháp luật khác. Trong

trường hợp các dự luật và du thao sắc lệnh do các cơ quan

khác soạn thảo được Hội đồng nhà nước xem xét và cho ýkiến thơng thường các văn bản đó khi chỉnh lý lại thường có

cơng thức bắt buộc: “theo ý biến của Hội đồng nha nước”),

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhà nước được thựchiện theo Luật 1924, tuy nhiên tổ chức này được thành lập

<small>® Sách đã dan, tr. 391.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Tố chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

ở Italia từ năm 1859. Hội đồng nhà nước của Italia hiệnnay có 74 cố vấn nhà nước do Tổng thống bổ nhiệm.

Cúc tồ án hành chính sơ thẩm

Các tồ án hành chính sơ thấm được thành lập ở cấpvùng bắt đầu hoạt động từ năm 1974. Các Tồ án hànhchính vùng gồm có Chánh án và 05 thẩm phán. Các phiên

tồ hành chính bao gồm 03 thẩm phán chuyên nghiệp. Các

bản án sơ thẩm của tồ hành chính có thể được xét xử phúcthẩm bởi Hội đồng nhà nước - Toà án hành chính tối cao.

4. Tồ kiểm tốn

Theo quy định tại khoản 2 Điều 100 Tồ kiểm tốn cóchức năng kiểm tra trước tính hợp pháp của các văn bảncủa Chính phủ và kiểm tra sau q trình thực hiện ngân

sách nhà nước. Trong các trưởng hợp và theo các hình thức

mà luật quy định Tồ kiểm tốn tham gia thực hiện kiểm

tra hoạt động tài chính của các cơ quan nhà nước và báo

cáo kết quả kiểm tra với hai viện của Nghị viện. Tồ kiểmtốn khơng những kiểm tra hoạt động tài chính của cd

quan nhà nước trung ương mà cịn kiểm tốn hoạt động của

các cơ quan nhà nước địa phương. Từ năm 1982 Tồ kiểm

tốn kiểm tra hoạt động tài chính của các tỉnh và các cơng

xã có dân số từ 8.000 dân trở lên. Tồ kiểm toán được tổchức và hoạt động theo Luật về tổ chức Tồ kiểm tốn1934. Tồ kiểm tốn gồm có 20 phân toà xét xử và 31 phân

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

tồ kiểm tra trong đó có 10 phân tồ xét xử được tổ chức

theo phương pháp tan quyền (cơ quan của trung ương đặttại địa phương), họ hoạt động ở các vùng và các tỉnh. Một

nửa số phân toà thực hiện chức năng kiểm tra cũng đượctổ chức theo phương pháp tản quyền đặt trụ sở tại cácthành phố chính của vùng. Tồ kiểm tốn có biên chế 3400cơng chức trong đó có 450 thẩm phan”.

V. CÁC CƠ QUAN BO TRỢ

1. Hội đồng quốc gia về kinh tế và lao động

Theo quy định tại Điều 99 Hiến pháp Itala năm 1947,

Hội đồng quốc gia về kinh tế và lao động là cơ quan tham mưu

cho hai viện của Nghị viện và Chính phủ và có quyền sáng

kiến lập pháp về các vấn dé kinh tế và xã hội. Chức năng của

Hội đồng quốc gia về kinh tế và xã hội được quy định trong

Luật tổ chức Hội đồng quốc gia về kinh tế và xã hội 1986. Theoquy định của Luật này, Hội đồng có chức năng:

- Tham mưu cho Nghị viện và Chính phủ các chính

sách về kinh tế và xã hội;

- Trình các dự luật về kinh tế và xã hội;

- Theo yêu cầu của Nghị viện hoặc theo sáng kiến của

mình tiến hành điều tra các vấn đề về kinh tế, xã hội;

® Sách đã dẫn, tr. 322.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

- Xem xét, thẩm tra các báo cáo liên quan đến chi tiêu

ngân sách nhà nước trong lĩnh vực kinh tế - xã hội của cácbộ ngành và Chính phủ.

Cơ cấu của Hội đồng kinh tế va xã hội bao gồm các chuyêngia và những người đại diện cho các thành phần kinh tế trongsố đó có 19 chuyên gia do Tổng thống bổ nhiệm, 04 chuyên giado Thủ tướng bổ nhiệm, 99 thành viên còn lại của Hội đồng

đại diện cho quyền lợi của công nhân, nông dân, công chức

thuộc các thành phần kinh tế công và tư. Trong số đó có 44

người đại diện cho những người lao động (công nghiệp, nông

nghiệp, thương mại, ngân hàng và lĩnh vực tín dụng, bảo

hiểm); 18 người đại diện cho các nghề nghiệp độc lập (05 người

đại điện cho các chu sở hữu đất tư nhân, 05 người đại diện cho

lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, 04 người đại diện cho các hợptác xã sản xuất và tiêu dùng, 4 người đại diện cho nghề tự do.

Khối đại diện cho các doanh nghiệp cũng được phân chia theo

các thành phần kinh tế (04 người đại diện cho nông nghiệp,

14 người đại diện cho công nghiệp, 07 người đại diện cho lĩnh

vực du lịch, thương mai và các lĩnh vực khác, 01 người dai

diện cho các công ty cực lớn đặt dưới sự kiểm tra của nhà nước

và người cuối cùng đại diện cho trẻ mồ côi.

Các thành viên Hội đồng kinh tế được bể nhiệm với

nhiệm kỳ 05 năm, các thành viên này không thể đồng thờilà nghị sĩ, thành viên của Chính phủ, thành viên của Hội

đồng vùng hoặc thành viên cơ quan hành chính vùng?',

<small>® Xem: Sách đã dân, tr. 323.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

2. Hội đồng thẩm phán téi cao

Hội đồng thẩm phán tối cao ở Italia được thành lập lầnđầu tiên vào năm 1907. Địa vị pháp lý của Hội đồng thẩm

phán tối cao được quy định tại Điều 104 và Điều 105 của

Hiến pháp 1947 và Luật về Hội đồng thẩm phán tối cao1975. Hội đồng thẩm phán tối cao quản lý và thiết lập kỷluật đối với toàn bộ đội ngũ thẩm phán và công tố viên.

Chức năng của Hội đồng thẩm phán tối cao là bổ nhiệm,thay đối vị trí công tác, thăng giáng chức vụ, địa vị công táccủa các thẩm phán. Hội đồng thẩm phán tối cao có quyềnđệ trình dự án luật về lĩnh vực của mình. Hội đồng thẩmphán cũng có quyền đề cử các giáo sư, các luật sư để bổnhiệm thẩm phán toà phá án.

Khi mới thành lập, Hội đồng thẩm phán tối cao chỉ có

24 thành viên, trong đó có 03 thành viên theo chức vụ của

mình là thành viên đương nhiên gồm Tổng thơng nướccộng hồ giữ chức Chủ tịch Hội đồng thẩm phán tối cao,

<small>hai thành viên đương nhiên khác là Chánh án toà phá án</small>

(Toà án tối cao) và Viện trưởng Viện cơng tố của Tồ án tốicao, các thành viên còn lại là thành viên bầu. Sau cải cách1975, thành viên được bầu của Hội đồng thẩm phán tối cao

được tăng từ 21 lên 30, trong đó 20 thành viên do các thẩmphán bầu và 10 thành viên do Nghị viện bầu. Nhiệm kỳ

của Hội déng thẩm phán tối cao là 04 năm, các thành viêncủa Hội đồng có thể được bầu lại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Chương VI

CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO HIẾN

CUA NHÀ NƯỚC TU SAN|. KHÁI NIEM CO QUAN BẢO HIẾN

Bất ky quốc gia nào xây dung nhà nước pháp quyềncũng phải bảo vệ Hiến pháp vì đó là đạo luật cơ bản của

nhà nước, được xây dựng với một thủ tục đặc biệt, quy định

những vấn đề cơ bản nhất mang tính nguyên tắc của toàn

bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia.

Trên thế giới có nhiều mơ hình cơ quan bảo hiến, tuy

nhiên chúng ta có thể sắp xếp chúng thành ba mơ hình cơ

bản sau đây:

- Tồ dn tơi cao va tồ an các cấp có chức năng bao vé

Hiến pháp - Mơ hình Hoa ky (Hoa Ky, Argentina, Mexico,

Hy Lap, Uc, An Độ, Nhật Ban, Thuy Điển, Dan Mach...).

Trong mơ hình này một số nước quy định chỉ có Tồ án tốicao mới có chức năng bảo vệ Hiến pháp (Gana, Namibia,Papua New Guinea, Srilanka, Estonia...);

- Thanh lập Toa dn Hiến pháp (Constitutional court)

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

hoặc Hội đồng bảo hiến (Constitutional Counsil) để bảo uệHiến pháp - Mơ bình lục địa châu Âu (Áo, Italia. Đức, Nga,

<small>Pháp, Ukrain, Ba Lan, Thái Lan, Campuchia...). Tuy</small>

nhiên, trong các nước lục dia châu Âu có Bồ Dao Nha,

Switzerland là hai nước kết hợp ca mơ hình của Hoa Ky và

lục địa châu Âu...);

- Cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bdo hiến (Việt

Nam, Trung Quốc, Cu Ba...).

II. MƠ HÌNH TOA ÁN TƠI CAO VA TOA ÁN CÁC CAP CĨ

CHỨC NANG BẢO HIẾN (MƠ HÌNH HOA KY)1. Lịch sử hình thành và phát triển

Đây là mơ hình bao hiến phi tập trung (Decentralisedconstitutional control). Mơ hình bảo hiến phi tập trungđược xây dựng trên cơ sở học thuyết phân chia và kiểm chếđốt trọng giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và

tư pháp. Theo quan điểm của học thuyết này, hệ thống cáccơ quan toà ân khơng những có chức năng xét xử các hành

<small>vi vi phạm pháp luật của các cơng dân mà cịn có chức năng</small>

kiểm sốt, hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp và

hành pháp. Theo đó, khi Tổng thống ban hành một sắc

lệnh, Chính phủ ban hành một nghị định, Nghị viện banhành một văn bản luật trái với nội dung hay tỉnh thần củaHiến pháp thì phải có một cơ quan nào đó làm vơ hiệu hốcác văn bản này. Cơ quan làm được chức năng này phải là

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

<small>một cơ quan độc lập với lập pháp và hành pháp. Theo tư</small>

duy lơgíc có thể thấy ngay rằng chỉ có tồ án mới có thể

gánh vác được cơng việc này. Là một quốc gia xây dựng bộ

máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực mộtcách rạch ròi, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế giới trao

cho các toà án quyền phán quyết về tính hợp hiến của cácvăn bản luật và văn bản dưới luật. Mặc dù trong Hiến phápHoa Kỳ khơng có quy định nào trao cho Tồ án quyền giámsát tính hợp hiến của các văn bản luật và dưới luật, tuynhiên quyền giám sát Hiến pháp của Toà án tối cao Hợp

chủng quốc Hoa Ky là một trong những nét đặc sắc của nềnchính trị Hoa Kỳ”. Việc tồ án phán quyết tính hợp hiến

của các văn bản luật và văn bản đưới luật được xác định

sau vụ án nổi tiếng của nước Mỹ - vụ án Marbury và

Madison năm 1803. Ngay trước khi rời khỏi vị trí tháng 3

năm 1801, Tổng thống John Adam đã cố gắng bổ nhiệm

những người của đảng mình vào những vị trí mới trong

ngành tư pháp. Tổng thống mới, Thomas Jefferson đã rấtbất bình với hành động mà ơng cho là đã lạm dụng quyềnlực, Sau khi phát hiện ra một số bổ nhiệm chưa được thực

hiện, ông đã ra lệnh cho Bộ trưởng ngoại giao của mình là

James Madison bãi bỏ các sự bổ nhiệm đó. WilliamMarbury, một trong những người được bổ nhiệm bị bãi bỏ,

đã kiện yêu cầu tồ án buộc ơng James Madison tn thủ

<small>© Xem: La presidence americain - Marie - France Toinet,</small>

<small>Montrestien E.J.A 1991, p. 7.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - l luận và thực tiễn

các quyết định bổ nhiệm họ làm thẩm phán của Tổng thốngJohn Adams. Ông cho rằng Đạo luật tư pháp năm1789 đã

trao cho Toà án tối cao liên bang quyền ban hanh lệnh yêucầu một quan chức chính quyền thực hiện nghĩa vụ của họ.

Ơng mn Tồ án tối cao buộc Madison chấp nhận việc bổ

nhiệm chính đáng của mình. Vụ ân này đã đặt Tồ án tốicao vào tình trạng tiến thối lưỡng nan. Nếu Tồ án u

cầu cơ quan hành pháp trao quyền cho Marbury thì rất có

thể Tổng thống sẽ từ chối và uy tín của Tồ án tối cao vìthế có thể sẽ giảm sút. Cịn ngược lại, nếu Tồ án khước từu cầu này thi vơ hinh chung đã cơng khai thừa nhận tư

pháp khơng có quyền gì đối với hành pháp. Tuy nhiên,

trong tình thế tưởng chừng bế tắc đó, Chánh án Tồ án tối

cao John Marshall (1755-1835) với sự thông thái của minh

đã đưa ra một quyết định sáng suốt với sự giải thích mà

sau này đã trở thành một dấu ấn trong lịch sử Hiến phápHoa Ky. Marshall đã tuyên bố Toà án t6i cao hiên bangkhơng có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù Mục 13 của

Đạo luật tư pháp liên bang trao cho tồ án thẩm quyền

trong lĩnh vực đó nhưng quy định này trái với Điều 3 của

Hiến pháp Hoa Kỳ 1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật

cơ bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý tối cao, vì vậykhi một đạo luật thơng thường trái với Hiến pháp thì đạoluật đó phải bị tun bố là vơ hiéu”.

<small>® Xem: TS. Vũ Đăng Hinh (Chủ biên); Hệ thống chính tri Mỹ,</small>

<small>Nxb. Khoa học xã hội, H. 2001, tr.184.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Giải quyết vụ án Marbury - Madison 1803, Chdnh an Tồan tơi cao Marshall đã đưa ra các tuyên bố sau:

- Hiến pháp là luật tối cao của đất nước;

- Những luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quanlập pháp là một bộ phận của Hiến pháp và không được tráivới Hiến pháp;

- Thấm phán, người đã từng tuyên thé bảo vệ Hiến

pháp, phải tuyên bố huỷ bỏ những luật, lệ quy định nào

của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp”.

Ba tuyên bố trên đây đã xác lập chức năng bảo hiến của

toà án và quyền tài phần của toà án về các quyết định củalập pháp và hành pháp liên quan đến Hiến pháp. Vớinhững tuyên bố trên đây và những đóng góp lớn lao cho

ngành tư pháp, John Marshall được coi là Chánh án toà tốicao vĩ đại nhất của Hoa Ky®. Bằng những ý kiến sinh động,đầy sức thuyết phục và quyết tâm xây dựng cho bằng được

một chính quyền liên bang vững mạnh, ơng đã có cơng đưaTồ án tối cao liên bang trở thành một bộ phận thứ ba,

quan trọng trong bộ ba kiểm soát và cân đối mọi vấn đề củađất nước, không bị rơi vào tình trạng chỉ như một hình

<small>® Xem: TS. Lê Vinh Danh, Chính sách cơng cua Hoa Kỳ giai</small>

<small>đoạn 1935- 2001, Nxb. Thơng kê, H. 2001, tr. 42.</small>

® Xem: 42 đời Tổng thống Hoa Kỳ - William A Degregorio, Nxb.

<small>Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 88.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - l luận và thực tiễn

bóng, tồn tại mà như khơng tổn tai”.

Ơng đã củng cố và tăng cường thêm ảnh hưởng của Tồ

án khi quyết định xố bỏ thơng lệ mỗi thẩm phán đều nêu

ra một ý kiến riêng, thay vào đó, ơng quyết định chỉ chọn

lấy một thẩm phán duy nhất phát ngôn cho ý kiến đa số,mặc dù có những ý kiến bất đồng. Ơng đã đóng góp 2 trong

số những quyết định quan trọng nhất mà Toà án tối cao

<small>Hoa Ky đã đưa ra: Vụ án Marbury v. Madison 1803 đã tạo</small>

ra tiền lệ là Toà án tối cao liên bang có quyền xem xét lạivà tuyên bố một đạo luật nào đó do Quốc hội thơng qua làvi hiến và làm vơ hiệu hố đạo luật đó. Với vụ án Me

Culloch v. Maryland (1819) ơng đã khẳng định Ngân hàngHợp chủng quốc Hoa Ky (Bank of United States) nam dưới

sự lãnh dao của Quốc„hội Hoa Ky là không trái với Hiến

pháp và quyết định này đã góp phần tạo nên nền tảng Hiến

pháp cho chế độ phúc lợi xã hội của thế ky XX sau này.Năm 1850, trên cơ sở tiền lệ của vụ án Marbury V.Madison, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Toà án tối cao

Hoa Ky đã tuyên bố bác bỏ những biểu quyết của Quốc hội

nhằm duy trì chế độ nô lệ cho miền Nam. Trong giai đoạn

1861 - 1937, Toà án tối cao Hoa Kỳ đã tiếp tục làm vơ hiệuhố 72 dự luật của Quốc hội và hàng trăm luật khác của các

tiểu bang. Tính tối cao của Hiến pháp được bảo vệ ngay

trong cả giai đoạn nước Mỹ tiến hành cơng nghiệp hố,

<small>Ð Xem: Sách đã dẫn, tr. 89.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Tổ chức và hoạt động của bộ máu nhà nước tư sản

hiện đại hoá đất nước. Một số văn bản luật trong thời kỳ

này mâu thuẫn với Hiến pháp cũng bị Toà án tối cao HoaKỳ tuyên bố là vi hiến như Luật phục hồi công nghiệp quốc

gia, Luật điều chỉnh nông nghiệp và nhiều dự án luật kháctrong chương trình ca gói do F. D. Roosevelt khởi xướng!'.

Quyền bảo hiến của Toà án Hoa Kỳ không những được

thể hiện bởi việc xem xét và tuyên bố bất kỳ một đạo luậtnào đó do Quốc hội làm ra là vi hiến mà còn thể hiện ở việc

có quyền xem xét và tuyên bố bất kỳ một quyết định nào

đó của Tổng thống và Chính phủ là vi hiến. Năm 1952 Toà

án tối cao liên bang đã tuyên bố rằng việc Tổng thống

<small>Truman ra lệnh trưng dụng ngành cơng nghiệp thép là vì</small>

hiến vì đã vượt quá thấm quyền mà Hiến pháp xác định.

Toà án tối cao Hoa Kỳ cũng đã xem xét hành động trái

Hiến pháp của Tổng thống Nixon khi ông này quyết định

sử dụng trái mục đích những khoản tiền mà Quốc hội đã

phân bổ dé chi dùng cho việc ban hành những đạo luật đặc

biệt. Đặc biệt, năm 1974 trong vụ án Watergate vai trị của

Tồ án tối cao đã nổi bật trong việc ra quyết định buộcTổng thống Nixon phải nộp các tài liệu liên quan đến vụ

Watergate, mặc dù Nixon đã phải dùng đến chiêu bài cuối

cùng là đặc quyền của Tổng thống trong việc giữ bí mật các

<small>TM Xem: TS. Lé Vinh Danh, Chính sách cơng của Hoa Ky giai</small>

<small>đoạn 1935 - 2001, Nxb. Thống kê, H. 2001, tr. 42.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

tài liệu của mình theo quy định tại Chương II của Hiếnpháp. Chính quyết định này của Tồ án tối cao đã mởđường cho Quốc hội với thủ tục đàn hạch (impeachment)

cách chức Tổng thống trước thời hạn. Tồ án cũng có thẩm

quyền ban hành các bản án, quyết định chống lại các cơquan hành pháp khi họ vi phạm pháp luật. Năm 1971, Toaán tối cao liên bang đã xác nhận quyền của tờ báo “NewYork Times” được quyển xuất bản các bản báo cáo của Lầunăm góc do Daniel Ellsburg, nhân viên của Bộ Quốc phòngchấp bút, bất chấp sự phản đối từ phía Chính phú Hoa Kỳ.Mơ hình bảo hiến của Hoa Ky là một mơ hình giám sát

chính quyền bằng tư pháp (Judicial review) có hiệu quả cao,bởi sự giám sát này thường bắt đầu bằng việc giải quyếtmột vụ việc cụ thể tại toà án nên được gọi la Concrete judi-cial review (giám sát cụ thể). Dần dần mơ hình này đã xuất

hiện ở nhiều nước khác như Canada, Mexico, Argentina,

Ức, Hylạp, Nhật bản, Thụy Điển... Mô hình giám sát cụ thể

của Hoa Ky rất có hiệu quả bởi nó tạo ra các án lệ buộc cáctồ án cấp dưới phải thực hiện khi gặp trường hợp tương tu.

Cũng cần phải lưu ý rằng, trong một nhà nước áp dụngnguyên tắc phân chia quyền lực và kiểm chế đối trọng giữa

các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp như

Hoa Ky thì việc quán triệt nguyên tắc này chính là thực hiện

cơ chế chung để bảo vệ Hiến pháp. Khi một dự luật có nguycơ vi hiến thì Tổng thống có thể phủ quyết dự luật đó; khiTổng thống thực thi một chính sách phiêu lưu hoặc lạm dụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

quyền lực thì Quốc hội có thể kiểm chế Tổng thống bằng việckhơng thơng qua ngân sách để Tổng thống khơng có phươngtiện thực thi chính sách đó hoặc xét xử Tổng thống theo thủtục đàn hạch. Trung thành với quan điểm đảm bảo sự độc lập

của ngành tư pháp đối với lập pháp và hành pháp là điều

kiện tiên quyết để xây dựng cơ chế tư pháp giám sát chính

quyền. Charles De Secondat Mongtesquleu cha dé của

thuyết phân chia quyền lực đã hồn tồn đúng khi ơng viết

rằng: “Sẽ khơng có tự do nếu quyền tư pháp không tách biệt

khối ngành lập pháp va hành pháp”).

Khang định diéu này, Thomas Jefferson - một trongnhững nha lập hiến Hoa Ky cũng đã từng phát biểu: “Hiến

pháp xác lập sự phôi hợp nhưng độc lập cua ba nhánh

quyền lực nhà nước lập pháp, hành pháp va tư pháp. Trongqua trình hoạt động, khơng nhánh quyền lực nào quản ly

nhánh quyền lực nào, va điều này tạo nên những xây dựng

trên tinh than khac biệt va đối trọng. Chính từ những xâydung trên cơ sở của những hoạt động độc lập va có thể khdcbiệt, chính quyền hạn chế được điều ác hơn là khi có mộtthiết chế bao trùm quyền lực lên cdc thiết chế bhác”®,

<small>® Mongtesquieu Charles De Secondat. Tinh thần phúp luật (De</small>

<small>L, Esprit de lois), Nxb. Giáo dục, Trường đại học Khoa học xã hội</small>

<small>và Nhân văn - Khoa luật, 1996, tr. 101.</small>

<small>® TS. Lê Vinh Danh, Chính sách cơng cua Hoa Kỳ giai đoạn1935 - 2001, Nxb. Thống kê, H. 2001, tr. 42.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiến

Độc lập với nhau, nhưng có thể kiểm chế và đối trọng đểdam bao sự cần bằng quyền lực giữa các nhánh lập pháp,hành pháp và tư pháp là một trong những bí quyết đảmbảo cho Hiến pháp Hoa Kỳ có một sức sống bền bỉ. Để đảm

bảo cho tư pháp có thể độc lập với lập pháp và hành pháp,các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã đảm bảo cho các thẩm phánhai điều kiện cơ bản là được bố nhiệm suốt đời” và được“hưởng một khoản lương bồng ma sẽ không bao giờ bị sụt

- Tất ca các tồ án đều có quyền xem xét tính hợp hiên

của các đạo luật.

O Mỹ và những nước 4p dụng theo mơ hình của Mỹ tấtcả các cơ quan tồ án đều có quyền xem xét tính hợp hiến

” Điều II, khoản 4 Hiến pháp Hoa Kỳ quy định: “Các thẩm phán<small>của Tồ an tơi cao va các tồ dn liên bang cấp dưới trực thuộc sẽ giữ</small>

<small>chức vu của mình uĩnh vién trong suốt thời gian có hành vi chính</small>

<small>dang va chi bi cách chức khi bị bêt tội phan quốc, nhận hồi lộ hayphạm các tội phạm nghiêm trọng hoặc phạm tội ở mức độ nghiêm</small>

<small>trọng khúc”.</small>

<small>® Hiến pháp Hoa Ky, Điều 3, khoản 1.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

của một đạo luật khi trong một vụ việc họ phai áp dụng đạo

luật đó. Tồ án có quyền khơng áp dụng đạo luật đó khi cócơ sở chắc chắn rằng nó khơng phù hợp với Hiến pháp.

- Quyền bao hiến gan uới viéc giới quyết một vu viéc cụ

thé (Concrete judicial review).

Quyền giám sát tư pháp về tinh hợp hiến của một đạoluật dù được thực hiện ở Toà án tối cao hoặc toà án cấpthấp đều phải được thực hiện trong điều kiện của một vụkiện tụng cụ thể khi mà vấn đề hợp hiến của đạo luật cóliên quan và cần thiết trong việc giải quyết vụ việc đó.

- Quyền bao hiến chi được xem xét khi có sự liên quantrực tiếp đến quyền va lợi ích của đương sự đề nghị xem xéttính hợp hiến của đạo luật đó.

Quy định này được Tồ án tối cao giải thích là nếukhơng có những quy định này thì phạm vi quyền giám sátsẽ rất rộng và mang tính trừu tượng, sẽ kém hiệu qua.

- Toà an chỉ tuyên bố một đạo luật là vi hiến khi sự bất

hợp hiến của đạo luật đó được chứng minh rõ ràng va

không thể phủ nhận được.

Trong vụ án Fletcher v. Peck (1910) Chánh án Toà án

tối cao Hoa kỳ John Marshall đã khẳng định rang sự trái

ngược của Hiến pháp và một đạo luật chỉ được xem xéttrong điều kiện các thẩm phán thấy sự trái ngược đó mộtcách rõ ràng và toà án chỉ tuyên bố một đạo luật là vi hiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

khi sự tun bố đó là hồn tồn cần thiết để giải quyết vụ

án. Điều này cũng có nghĩa là Tồ án sẽ khơng xem xéttính hợp hiến của một đạo luật nếu Tồ án có cách kháclàm thoa mãn u cầu của đương sự.

- Tồ dn hhơng xem xét vén dé hợp hiến cua một daoluật khi đạo luật đó liên quan đến một số uấn đề chính trị

như tổ chức cơng qun va van dé ngoại giao...

Các tồ án ở Hoa Ky kể cả Toà án tối cao sẽ khơng xem

xét tính hợp hiến của một đạo luật, nếu đạo luật đó liênquan đến các vấn đề chính trị như cơng việc đối nội, đối

ngoại của Chính phủ, hình thức tổ chức quyền lực của các

tiểu bang, mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực của nhànước liên bang và các tiểu bang. Tuy nhiên, Toà án tối cao

của liên bang lại có quyền xem xét một vấn dé nào đó cóphai là vấn đề chính trị hay khơng, một hành vi chính trịnào đó có lạm quyền hay không.

- Khi một đạo luật bị tuyên bố là vi hiến thi đạo luật đó<small>hhơng cịn giú trị áp dụng.</small>

Theo nguyên tắc án lệ, khi Toà án tối cao tuyên bố một

đạo luật là vi hiến thì phán quyết này của Tồ án tối caosẽ có giá trị áp dụng đối với các vụ án tương tự sau này của

các tồ án cấp dưới. Do đó trên thực tế, có thể coi đạo luật

đó khơng cịn giá trị áp dụng nữa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Ill, MƠ HÌNH TOA ÁN HIẾN PHAP (CONSTITUTIONAL

COURT) HOẶC HỘI ĐỒNG BẢO HIẾN (CONSTITUTIONAL

COUNCIL) - MƠ HINH LUC BIA CHAU ÂU

Khác với mơ hình Hoa Ky, các nước lục địa châu Au

khơng trao cho Tồ án tư pháp thực hiện giám sát Hiến

pháp mà thành lập một toà án đặc biệt để thực hiện chức

năng này. Toà án này được gọi là Toà án Hiên pháp haặc

Hội đồng bảo hiến, Viện bảo hiến. Đây là mơ hình giám sát

tập trung (Concentrated system). Tồ án Hiến pháp được

thành lập ở Ao năm 1920, Italia năm 1947, Đức năm 1949,

Pháp năm 1958, Thổ Nhĩ Kỳ năm 1961, Nam Tư năm1963, Bồ Đào Nha năm 1976, Tây Ban Nha năm 1978, Hy

Lạp năm 1979, Ba Lan năm 1982, Hungari năm 1983, LiênXô cũ năm 1988, Nga năm 1993, Campuchia năm 1993,<small>Belarus năm 1994, Ukrain năm 1996, Thai Lan năm 1997,</small>

Czech năm 1997. Mơ hình này có thể gọi là mơ hình của Áo

vì Áo là nơi thành lập sớm nhất, nhưng thường gọi là mơ

hình lục địa châu Âu vì khu vực này là phổ biến nhất.1. Cơ cấu, cách thức thành lập và thẩm quyền của Toà án

Hiến pháp

Cơ cấu

Tồ án Hiến pháp thơng thường có từ 09 đến 15 thẩmphán. Những nước có 09 thẩm phán là Pháp, Italia,Campuchia, 11 thẩm phán như Belarus, 12 thẩm phán như

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễnTay Ban Nha, 15 tham phan nhu Ba Lan, Czech, Thai Lan,18 thẩm phán như Ukrain. Tồ án Hiến pháp có nhiều thẩm

phán nhất là Liên bang Nga - 19 thẩm phán. Nhiệm kỳ củathẩm phán Tồ án Hiến pháp thơng thường là 9 nam như

Pháp, Italha, Tây Ban Nha, Ukrain, Ba Lan, Campuchia...

<small>Cách thức thành lập</small>

Thông thường 1/3 số lượng thẩm phán Toà án Hiếnpháp do Tổng thống bổ nhiệm, 1/3 khác do Hạ viện bầu(hoặc Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm), 1/3 còn lại do Thượngviện bầu (hoặc Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm). Các thành

viên của Toà án Hiến pháp khơng thể đồng thời là thành

viên của Chính phủ, Nghị viện hoặc là thẩm phán của Toà

án tư pháp hay Tồ án hành chính, cũng khơng thể đảm

nhiệm bất cứ chức vụ gì của các cơ quan cơng quyền, hay

thực hiện các hoạt động kinh doanh.

- Các thẩm phán Tồ án Hiến pháp thơng thường đượclựa chọn từ các thẩm phán, các công tố viên, các luật sư,

các giáo sư đại học có danh tiếng, các chính khách, các

quan chức hành chính có uy tín. Một số nước như Pháp quyđịnh các cựu Tổng thống là thành viên đương nhiên của

Toà án Hiến pháp.

Về thẩm quyền

- Toà án Hiến pháp có thẩm quyền xem xét tính hợp

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

hiến của các văn bản luật, các điều ước quốc tế mà Tổngthơng hoặc Chính phủ đã hoặc sẽ tham gia ký kết, các sắclệnh của Tổng thống, các nghị định của Chính phủ, có thể

tun bố một văn bản luật, dưới luật là vi hiến và làm vơ

hiệu hố văn bản đó;

- Tham quyền xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầucử Tổng thống, bầu cử Nghị viện và trưng cầu dân ý:

- Tham quyền tư vấn về tổ chức bộ máy nhà nước, vềcác vấn để chính trị đối nội cũng như đối ngoại;

Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các

nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữachính quyền trung ương và địa phương;

- Giãm sát hiến pháp về quyền con người và quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

(hoặc 1/5 sô Nghị sĩ của một trong hai viện), Toà án tối cao,Toà án Hiến pháp sẽ xem xét tính hợp hiến của các dự luậtđã được hai viện thông qua nhưng chưa công bố. Các nước

thường quy định thời hạn này là 30 ngày, trường hợp khẩncấp theo yêu cầu của Chính phủ thời hạn này có thể ngắn

hơn (ví dụ như Pháp thì thoi hạn này là 08 ngày). Trong

trường hợp Hội đồng bảo hiến tun bố văn bản đó khơng

trái với Hiến pháp thì q trình cơng bố sẽ tiếp tục tiếnhành. Ngược lại, nếu Tồ án Hiến pháp tun bố văn bản vì

hiến thì văn bản đó khơng thể được cơng bố hay có hiệu lực.

Khi một hiệp ước có một hay nhiều điều khoản bị tuyên bốlà vi hiến, việc ký kết và ban hành hiệp ước đó lập tức bị

đình chỉ cho tới khi Hiến pháp được sửa đối hoặc hiệp ước đóđược các bên thoa thuận sửa đổi. Các quyết định của Tồ ánHiến pháp là quyết định có hiệu lực cuối cùng và không thể

bị kháng nghị hay kháng cáo, các cơ quan cơng quyền lậppháp, hành chính hay tư pháp đều phải tôn trọng.

Ở Pháp theo Hiến pháp năm 1958, Hội đông bảo hiến

được trao thẩm quyền xem xét các đạo luật trước khi công

bố. Điều 61 Hiến pháp 1958 quy định: “Những đạo luột vé

tổ chức, các quy tắc của hai uiện, trước khi ban hành đềuphai đệ trình lên Hội đồng bao hiến xem xét các van biệnđó có phù hợp uới Hiến phúp hay khơng. Dé phù hop voi

Hiến phúp, các đạo luật khúc trước khi thi hành cũng phai

đệ trình Hội đồng bảo hiến bởi Tổng thống, Thủ tướng hay

Chủ tịch của hai uiện”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

<small>Giám sút các van ban luật đã có hiệu lực</small>

<small>pháp luột (Repressive review)</small>

Hội đồng bảo hiến (hay Tồ án Hiến pháp) có thé dua

ra xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã có hiệu lực. Vi

dụ, ư Pháp một số đạo luật được thơng qua trước Hiến phápnăm 1958 nhưng theo quy định của Hiến pháp năm 1958thì những quan hệ xã hội do các đạo luật đó điều chính nay

thuộc lĩnh vực điều chỉnh của hành pháp. Trong trường hợp

này, Chính phủ có quyền tự do sửa đối các đạo luật đó bằng

cách thông qua các sắc lệnh tương đương sau khi đã thamkhảo ý kiến của Hội đồng nhà nước (Conseil d Etat). Tuy

nhiên, những đạo luật được ban hành sau năm 1958 có

những quy định khơng thuộc phạm vi cua lập pháp thì

Chính phủ chỉ có thể sửa đổi đạo luật đã ban hành bằng

một sắc lệnh tương đương nếu Hội đồng bảo hiến (Conseilconstitutionel) tuyên bố đạo luật đó có tinh cách lập quy(Điều 37 Hiến pháp). Thực hiện quyền bảo hiến, Hội đồngbảo hiến của Pháp ngày 16/7/1971 đã tuyên bố một đạo luậtđã được Nghị viện thông qua là vi hiến vì nó trái với quyềnhội họp đã được quy định trong Hiến pháp năm 1958.

3. Đặc điểm của giám sát Hiến pháp theo mơ hình lục địa

châu Âu

- Giám sát Hiến pháp theo mơ hình lục địa châu Âu là

mơ hình giám sát chủ yếu tập trung thơng qua thiết chếTồ án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

- Giám sát bảo hiến theo mơ hình lục địa châu Âukhông những là giám sát tư pháp cụ thé (Concrete judicial

review) mà còn là giám sát trừu tượng (Abstract judicialreview) vì vấn dé xem xét tính hợp hiến của một quy định

nào đó khơng nhất thiết phải gắn liền với một vụ việc nào

đó, mà nó có thé được đưa ra theo dé nghị của một cánhân, tổ chức có thẩm quyền, bao gồm Tổng thống, Thủ

tướng, Chú tịch Thượng viện hoặc Hạ viện, Thanh traNghị viện (Ombudsman), Chánh án Toà án tối cao hoặc

1/10 số đại biểu Nghị viện. Ngồi ra, Hội đồng địa phương,

Tỉnh trưởng cũng có quyền đề nghị xem xét tính hợp hiếncủa đạo luật vì lý do các quyền của địa phương bị vi phạm.

Đối với các đạo luật do Hội đồng địa phương ban hành vi

hiến, Bộ trương có quyền đề nghị xem xét tính hợp hiếncủa các đạo luật đó.

- Một số nước ở lục địa châu Âu như Bồ Đào Nha,

Switzerland tồn tại hệ thống giám sát hiến pháp hỗn hợp

vừa tập trung vừa phi tập trung. O Bồ Đào Nha vừa có Tồ

án Hiến pháp là cơ quan bảo hiến, mặt khác Hiến pháp1982 của Bồ Đào Nha tại Điều 207 cịn có quy định “cdc tod

án các cấp khơng được áp dụng các quy định uà các nguyên

tắc bất hợp hiến trong khi xem xét các uấn dé đưa ra trước

toa”. Các quy định của Hiến pháp trao cho toà án các cấp

quyền không áp dụng các quy định và các nguyên tắc bất

hợp hiến. Vấn đề xem xét tính hợp hiến có thể do một bên

trong đương sự hoặc do công tố viên đưa ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

- Hiệu lực của các quyết định của Toà hiến pháp theo

quy định của Hiến pháp có giá trị bắt buộc thực hiện đốivới tất ca các chủ thể pháp luật kể từ khi một quy phạm,

một chế định hoặc một văn bản nào đó bị Tồ hiến pháptun bế là vi hiến.

IV. MƠ HÌNH CƠ QUAN LẬP HIẾN ĐỒNG THỜI LÀ CƠQUAN BẢO HIẾN

Ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba và một số nước khác

khơng có cơ quan bảo hiến chuyên biệt. Các nước này đều

có quan điểm chung là Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan đại

diện cao nhất của nhân dân, không những là cơ quan lậphiến, lập pháp duy nhất mà còn là cơ quan quyền lực nhanước cao nhất. Với tư cách là cơ quan quyển lực nhà nước

cao nhất, Quốc hội phải tự quyết định tính hợp hiến củamột đạo luật. Nếu Quốc hội trao quyền này cho một cơquan khác phán quyết thì Quốc hội khơng cịn là cơ quanquyền lực nhà nước cao nhất nữa. Quan điểm trên đây có

hạt nhân hợp lý của nó, tuy nhiên cũng phải thừa nhận

rằng nếu một cơ quan vừa lập pháp vừa tự mình phán

quyết đạo luật do mình làm ra có vi hiến hay khơng thì

cũng chẳng khác gì tình trạng “vita đó bong vita thổi cdi”.

Ngay từ thời kỳ La Mã người ta đã khẳng định rằng

“Nemo jus sibi dicere potest” nghĩa là khơng ai có thé tu

minh phán xét mình được. Khơng phải chi riêng 6 nước ta,mà ở bất kỳ nước nào cũng vậy, mỗi đạo luật được ra đời là

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

một đứa con tinh thần của cơ quan lập pháp. Cơ quan lập

pháp phải ấp ủ bởi phải mang nang, đẻ đau những đứa contỉnh thần của mình. Người mẹ do quá yêu quý đứa con củamình nên dễ bo qua những khuyết tật của nó. Thiết nghĩ

rằng, việc thiết lập một cơ quan bảo hiến độc lập với Quốchội để xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và một số vănbản dưới luật là rất cần thiết cho Việt Nam trong điều kiện

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

<small>dan, do nhân dân, vì nhân dan.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Chương VII

NGHỀ LUẬT SƯ VÀ LUẬT SƯTHỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

CUA MOT SỐ NHÀ NƯỚC TƯ SAN

|. NGHE LUẬT SU VÀ LUAT SƯ THUC HIỆN TRỢ GIÚP

PHÁP LÝ Ở CÁC NƯỚC THEO HỆ THÔNG PHÁP LUẬT

ANGLO-SAXON (COMMON LAW)

Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anglo-saxon những

người theo nghề luật. (legal profession) bao gồm các luật sư

(lawyer), các cố vấn pháp luật của các công ty, của chính

phủ và các cơ quan cơng quyền (salaried legal counsellors

of companies, government and public bodies), các giáo su

luật (law professor) và các thẩm phan (judge). O Anh, luatsu được chia lam hai nhóm: luật su bào chữa tại tồ án gọi

la “barrister” và luật sư tư vấn gọi la “solicitor”. Ở Anh và

Bắc Ailen chỉ có các barrister mới có thể tranh tụng ở các

tồ án cấp cao. Các luật sư tư vấn (solicitor) thực hiện công

tác tư vấn pháp luật, chuẩn bị các văn bản pháp luật phục

vụ khách hàng như mua bán đất đai, nhà ở v.v... và có thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễn

tham gia tranh tụng ở các toà án cấp thap".

Ở Hoa Kỳ khơng có sự phân biệt rạch rịi giữa luật sư

bào chữa và luật sư tư vấn, họ đều có tên gọi chung làlawyer, tuy nhiên luật sư tham tụng ở toà án thường đượcgọi là attorney at law. Từ thời kỳ thuộc địa đến khoảngnăm 1900 hầu hết các luật su ở Hoa Ky rèn luyện kỹ năngcủa mình ở những văn phịng tư và khi đó khơng cần phải

tốt nghiệp đại học luật. Để có thể hành nghề luật sư chỉ cần

có xác nhận của một tồ án địa phương”. Trường luật đầu

<small>tiên (gọi là Judge Tapping Reeve’s School of Law) được</small>

thành lập ở Litchfield thuộc bang Connecticut vào năm1874. Chỉ sau một thời gian ngắn trường này đã có uy tíncao bởi có một chương trình dạy luật 14 tháng rất có hiệuquả. Trường đại học có giáo sư luật và dạy luật đầu tiên ở

<small>Hoa Ky là Đại hoc William & Mary (College of William &</small>

<small>Mary) do Thomas Jefferson thành lập năm 1799. Sau đó là</small>

các trường Đại học tổng hợp Colombia 1793, Đại học tổng

hợp Harvard 1816, Đại học tổng hợp Yale 1824. Tuy nhiên,

trong những năm đầu tiên, việc đào tạo luật còn chưa cótính tồn diện, chương trình đào tạo thường là ngắn và chỉ

trang bị những kiến thức tôi thiểu. Chương trình đào tạo

<small>TM Xem: Black,s law dictionary, Edition West Group, 1999, p.</small>

<small>® Xem: Frederic C. Kempin, Historical introduction to </small>

<small>Anglo-American law,Edition West Publishing, 1973, p. 69</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

luật day đủ và dam bao chất lượng đầu tiên là ở Dai học

tổng hợp Havard năm 1817.

<small>Năm 1878, Hội luật gia My được thành lập có tên gọi</small>

la American Bar Association (gọi tắt là ABA). ABA có mụcđích hoạt động của minh là: thúc đẩy khoa hoc luật, tang

cường nền hành chính tư pháp, thống nhất hoạt động lập

pháp, nâng đỡ, bảo vệ danh dự nghề nghiệp và khuyếnkhích sự giao tiếp, cộng tác giữa các thành viên của hội.

ABA là tổ chức tự nguyện của các luật sư, thẩm phán, vàgiáo sư luật. Tiêu chuẩn để có thể trở thành thành viên của

Hội luật sư Hoa Kỳ là có đạo đức tốt (thống qua tờ khai cócam đoan), tuyên thệ bảo vệ Nhà nước và Hiến pháp HoaKỳ, có chứng chỉ tốt nghiệp Đại học luật do các trường luậtcấp hoặc chứng chỉ luật do ABA cấp và phải vượt qua kỳ

thi viết do Hội luật sư tổ chức (Ở Hoa Kỳ sinh viên ở các

trường luật phải là người đã tốt nghiệp một trường đại họckhác). Đặc biệt ở 4 bang California, Vermont, Virginia và

Washington có thé lấy sự giám sat của một luật sư thay thế

cho chứng chỉ của các trường luật. Chỉ có hai bang là WestVirginia va Wisconsin là trực tiếp nhận những sinh viên

tốt nghiệp các trường luật thuộc bang của mình mà khơngcần một điều kiện nào khác. Mặc dù khơng có kỳ thi tuyển

của Hội luật sư toàn liên bang, nhưng có 44 bang và Quận

Columbia tổ chức các cuộc thi tuyển liên kết nhiều bang gọi

là Multi- State Bar Exam. Từ những năm 70 cua thé ky XX

các cuộc thi tuyển này bao quát các kiến thức pháp luật, là

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý luận và thực tiễnbài kiểm tra có thời gian dài trong một ngày yêu cầu ápdụng pháp luật của bang để giải quyết một loạt vấn đề

phức tạp. Thời gian gần đây Hội luật sư Hoa Kỳ còn bổ

sung thêm kỳ thi liên kết giữa các bang về trách nhiệm

nghề nghiệp (Multi-State Professional Responsibility

Exam) nhằm kiểm tra kiến thức liên quan đến các vấn đềthuộc đạo đức nghề nghiệp luật sư. Luật sư được kết nạpvào Hội luật sư của một bang cũng có thể được kết nạp vào

Hội luật sư của một bang khác nếu họ đáp ứng được các

chuẩn mực về đạo đức và đủ thời gian về kinh nghiệm nghề

nghiệp. Một số toà án liên bang và cơ quan nhà nước thiết

lập tiêu chí riêng cho luật sư của họ.

Một điểm cần đáng lưu ý trong tổ chức và hoạt động của

Hội luật sư Hoa Kỳ là vào năm 1908 họ đã xây dựng được Bộluật trách nhiệm nghề nghiệp (Code of Professional

Responsibility). Bộ luật này được bổ sung, sửa đổi thường

xuyên và gần đây nhất là vào năm 1976. Năm 1969 có 32 quy

định mang tính nguyên tắc được xem xét lại và năm 1979 Bộ

luật chú giải về trách nhiệm nghề nghiệp (Annotated Code of

<small>Professional Responsibility) đã được Hội luật su thông qua.</small>

Với bộ luật chú giải nay 09 yêu cầu mang tính nguyên tắc

dao đức nghề nghiệp đối uới luật su da được thiết lập:

1. Giữ gìn sự liêm khiết và phát huy năng lực củanghề luật;

2. Tư vấn pháp luật đúng là nghĩa vụ nghề nghiệp;3. Không thực hiện những hành vi không đúng thẩm quyển:

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

4. Giữ gìn sự tin cậy va bí mật của khách hàng;

<small>5. Tham gia tranh tụng một cách độc lập, nhân danhkhách hàng;</small>

6. Phải có đủ thâm quyền khi đại diện cho khách hang;

7. Chị bênh vực cho khách hàng trong vịng pháp luật;

8. Tham gia hồn thiện hệ thông pháp luật;

9. Tránh những biểu hiện trong diện mạo không phù

hợp với nghề nghiệp.

Thông qua Bộ luật trách nhiệm nghề nghiệp Hội luật sư

Hoa Ky (ABA) đóng vai trị quan trọng trong việc thiết lập ky

luật nghề nghiệp các thành viên của minh. Uy ban thường

trực về chuẩn mực nghề nghiệp của Hội luật sư Hoa Kỳ

(ABA’s Standing Committee on Professional Standards) hoạtđộng theo quy định của Bộ luật về trách nhiệm nghề nghiệp.

Mặc dù Hội luật sư Hoa Kỳ đã có nhiều cố gắng trong việcbảo vệ danh dự nghề nghiệp và tiêu chuẩn để tiếp nhận vào

trường luật và Hội luật sư rất cao, tuy nhiên, các luật sưvẫn ở dưới đáy trong bậc xếp hạng các nghề nghiệp được sự

tin cậy của xã hội, thấp hơn ca những người nhặt rác, sĩ

quan cảnh sat và những người làm nghề kinh doanh”.

<small>® Xem Law and Justice - An Introducton - Richard A. Myren,</small>

<small>Edition Brook/Cole Publishing Company, California 1988, p. 161.</small>

</div>

×