Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Bài giảng luật hình sự việt nam 1 sl02 Đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.6 MB, 108 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật của một ngành luật độc lập.

<i>Như vây, có thể hiểu “Luật hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nào bị coi là tội phạm và trách nhiệm hình sự của chủ thể thực hiện hành vi đó” </i>

Các quy phạm pháp luật hình sự được chia làm hai loại:

Loại quy phạm quy định những nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật hình sự, những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt;

Loại quy phạm quy định dấu hiệu pháp lý của những tội phạm cụ thể; hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm.

<b>1.1.2. Đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của của luật hình sự </b>

Đối tượng điều chỉnh của m ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm PLHS tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra, đó là

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội và từ đó làm phát sinh quan hệ PLHS

<i>Vậy, Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. </i>

Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời điểm người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm. Trong cả quá trình này xuất hiện đồng thời quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, quan hệ pháp luật dân sự…

Trong quan hệ pháp luật hình sự ln có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau.

<i>1. Nhà nước: Có quyền truy tố, xét xử người phạm tội, buộc họ phải </i>

chịu những biện pháp trách nhiệm hình sự nhất định để bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của tồn xã hội. Nhà nước thực hiện quyền này bằng cách thể hiện ý chí của mình trong Bộ luật hình sự với các quy phạm pháp luật cụ thể. Mặt khác, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội mà theo pháp luật quy định.

<i>2. Người phạm tội: Có nghĩa vụ phải chấp hành các biện pháp cưỡng </i>

chế mà Nhà nước áp dụng đối với mình. Mặt khác, họ có quyền u cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

<b>1.1.3. Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự </b>

Xuất phát từ chức năng điều chỉnh và địa vị pháp lý của các chủ thể

<i>tham gia quan hệ pháp luật này, luật hình sự sử dụng phương pháp quyền uy - </i>

phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự. Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội mà không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Người phạm tội phải phục tùng những biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng với họ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>1.2. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT HÌNH SỰ </b>

1. Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản nhất và quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Đó là, bảo vệ chế độ xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN.

<i>Ngành luật hình sự là cơng cụ pháp lý “góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an tồn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”. </i>

Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, quan hệ xã hội bảo vệ của luật hình sự là độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật. Để thực hiện tốt chức năng bảo vệ của mình, ngành luật hình sự cần phải xác định đúng, đầy đủ và kịp thời những hành vi có thể gây nguy hiểm cho các đối tượng bảo vệ để quy định là tội phạm. Có như vậy, ngành luật hình sự mới có thể trở thành cơng cụ pháp lý hữu hiệu bảo vệ các quan hệ xã hội đã được xác định qua việc chống và phịng ngừa một cách tồn diện tất cả các tội phạm, khơng có hành vi nào nguy hiểm (ở mức tội phạm) mà không bị xử lý.

2. Với một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu và sắc bén của Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Phòng ngừa tội phạm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhằm ngăn ngừa không để cho tội phạm xảy ra và đều có quan hệ mật thiết với hoạt động chống tội phạm. Chống tội phạm có hiệu quả khơng chỉ có tác dụng răn đe,

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

ngăn ngừa tội phạm mà cịn có thể định hướng cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Do vậy, hoạt động chống tội phạm cũng được coi là hoạt động phòng ngừa tội phạm đặc biệt. Hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm phải dựa trên cơ sở pháp lý chung hay nói cách khác là đều phải sử dụng công cụ pháp lý chung là luật hình sự. Hiệu quả của chống và phòng ngừa tội phạm phụ thuộc một phần quan trọng vào độ hoàn thiện của luật hình sự. Do vậy,

<i>luật hình sự đã được coi “là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…”. Chức năng chống và phịng </i>

ngừa tội phạm của luật hình sự được khẳng định rõ tại Điều 1 Bộ luật Hình sự. Để thực hiện tốt chức năng chống và phịng ngừa tội phạm địi hỏi luật hình sự phải ln ln được hồn thiện theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm, đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm.

3. Luật hình sự cịn có nhiệm vụ giáo dục mọi người nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự được xác định cụ thể tại Điều 1 Bộ luật

<i>Hình sự, nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự quy định: “… giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”; và Điều 31. Mục đích của hình phạt quy định: “… mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, …giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”). </i>

<b>1.3. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM </b>

<i><b>Khái niệm </b></i>

<i>Các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự trong cơng cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. </i>

Các nguyên tắc của luật hình sự được chia làm 2 loại: Các nguyên tắc chung và các ngun tắc có tính đặc thù.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Các ngun tắc có tính đặc thù của luật hình sự như: Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc có lỗi, ngun tắc cá thể hố hình phạt được đề cập cụ thể, chi tiết trong toàn bộ chương trình của mơn học.

<i><b>Một số ngun tắc của luật hình sự Việt Nam </b></i>

<i>a. Nguyên tắc pháp chế </i>

Nguyên tắc pháp chế được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự, thể hiện sự triệt để tuân thủ pháp luật từ phía Nhà nước, các tổ chức và tất cả công dân trong xã hội.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp

<i>2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật….” </i>

<i>Xuất phát từ quy định trên, Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” </i>

Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: bất kỳ hành vi nào chỉ bị coi là tội phạm và bị trừng phạt bằng chế tài pháp lý hình sự và các hậu quả pháp lý hình sự khác của việc thực hiện hành vi đó chỉ và phải do BLHS quy định; việc thực hiện pháp luật hình sự nhất thiết phải trên cơ sở tuân thủ, chấp hành và áp dụng nghiêm chỉnh, nhất quán các quy phạm pháp luật hình sự...

Nguyên tắc pháp chế được biểu hiện ở Điều 2, khoản 1 Điều 7 BLHS

<i>b. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật </i>

<b>Đây là một nguyên tắc hiến định. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định: </b>

"Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thị, chia rẽ dân tộc… Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước."

Điểm b Khoản 1 và điểm b Khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định: “Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế”

Trong Luật hình sự, nội dung của nguyên tắc bình đẳng thể hiện ở các khía cạnh:

Luật Hình sự tơn trọng và bảo vệ quyền tự do dân chủ của các dân tộc Việt Nam tên các lĩnh vực của đời sống xã hội chủ nghĩa và có hiệu lực thi hành trên tồn phạm vi lãnh thổ Việt Nam, khơng phân biệt vùng miền.

Mọi công dân đều được đối xử công bằng như nhau, khơng có sự phân biệt dân tộc, giới tính nào và tơn giáo, tín ngưỡng khơng giống nhau.

Khi phạm tội mọi công dân, mọi pháp nhân thương mại, người phạm tội đều được xét xử như nhau theo quy định của pháp luật hình sự

<i>c. Nguyên tắc nhân đạo </i>

Nguyên tắc này là cách thể chế hóa quan điểm chính sách vì con người của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục nhân cách trong con người là chủ yếu. Thể hiện bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Nhà nước ta, bằng việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội mà không phải là biện pháp trả thù người phạm tội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Việc quyết định hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã thực hiện, không mang tính chất trả thù người phạm tội.

Cơ quan xét xử chú ý đến các đặc điểm nhân thân của người phạm tội khi quyết định hình phạt, cụ thể là nhóm đối tượng phụ nữ có thai, người chưa thành niên, người già yếu, bệnh tật, người đang trong thời kỳ ni con nhỏ, người có hồn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn...

<i>d. Ngun tắc hành vi và nguyên tắc lỗi </i>

Nguyên tắc hành vi là nguyên tắc thấu suốt trong quá trình xây dựng luật hình sự, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mọi tội phạm cụ thể phải được xây dựng dựa trên cơ sở hành vi của người phạm tội. Luật hình sự khơng truy cứu TNHS dựa trên tư tưởng con người.

Nguyên tắc hành vi luôn đi liền với nguyên tắc lỗi. Nếu hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà khơng có lỗi thì khơng bị coi là tội phạm và tất nhiên không bị truy cứu TNHS.

Việc xác định nguyên tắc lỗi là xuất phát từ chức năng cải tạo giáo dục con người của ngành luật hình sự. Luật hình sự khơng truy tội khách quan.

<i>Ví dụ, K bị tâm thần, mất khả năng nhận thức đã đốt nhà hàng xóm, gây thiệt hại tài sản 3 tỷ đồng. K khơng bị truy cứu TNHS vì K việc gây thiệt hại khơng có điều kiện có lỗi. Hoặc Q lái xe chở khách khi xuống dốc mà xe mất phanh (mất thắng) do trục trặc kỹ thuật, nên Q buộc phải lao xe vào sườn núi gây bị thương và chết người đang đi dọc đường phía sườn núi (đây là trường hợp bất khả kháng – Q khơng có lỗi, nên khơng bị coi là tội phạm. </i>

Nguyên tắc lỗi thể hiện mục đích cải tạo giáo dục người phạm tội khi áp dụng trách nhiệm hình sự, chỉ đạt được mục đích này nếu áp dụng hình phạt đối với người có lỗi. Nếu khơng có lỗi thì việc áp dụng trách nhiệm hình sự, hình phạt khơng đạt được mục đích cải tạo giáo giục và phòng ngừa tội phạm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i> e/ Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự </i>

Luật hình sự chỉ phát huy hiệu quả cao nhất trong đấu tranh chống tội phạm, trong đó buộc người phạm tội phải chịu TNHS phù hợp với tình chất mức độ nguy hiểm mà tội phạm họ đã thực hiện, cũng như phù hợp với đặc điểm nhân thân người phạm tội. Do đó, trong luật hình sự đã phân chia nhóm tội phạm, phân loại tội phạm, quy định cụ thể từng loại tội phạm với loại và mức hình phạt khác nhau…Trong nguyên tắc xử lý, luật hình sự quy định nghiêm trị ké chủ mưu, cầm đầu, khoan hồng với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng bọn…

<b>1.4. Nguồn của Luật hình sự </b>

Về nguồn của Luật hình sự Việt Nam, hiện nay có hai cách hiểu.

Theo nghĩa rộng, nguồn của Luật hình sự Việt Nam là tất cả những căn cứ có giá chỉ đạo thực hiện việc áp dụng chính sách hình sự, lập pháp hình sự, áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng hình sự; xây dựng và củng cố ý thức pháp luật của mọi cơng dân. Qua đó thấy rằng, nguồn của Luật hình sự Việt Nam rất rộng, bao gồm: chủ trương, đường lối của Đảng; các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết; Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật có liên quan đến pháp luật hình sự...

Theo nghĩa hẹp, nguồn của luật hình sự chỉ bao gồm những căn cứ trực tiếp tạo cơ sở cho việc xác định tội phạm và áp dụng hình phạt. Đa số các tài liệu nghiên cứu hiện nay cũng như các giáo trình luật hình sự đều hiểu nguồn của Luật hình sự Việt Nam theo nghĩa này. Theo đó, nguồn của luật hình sự Việt Nam chỉ có thể là văn bản quy phạm pháp luật (là quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành). Những luật được coi là nguồn của Luật hình sự phải có các quy định liên quan trực tiếp đến tội phạm và hình phạt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Trước đây, chúng ta có khái niệm đạo luật để phân biệt văn bản không phải là bộ luật với bộ luật. Hiện nay, theo Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chỉ có khái niệm luật (bao gồm cả bộ luật) mà khơng có khái niệm đạo luật.

Luật hình sự Việt Nam là ngành Luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nào bị coi là tội phạm và trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi đó.

BLHS là luật mà trong đó tập hợp đầy đủ hoặc tương đối đầy đủ các quy định về tội phạm và hình phạt, đồng nghĩa với việc BLHS có tất cả hoặc hầu hết các quy phạm pháp luật hình sự. Trong trường hợp có BLHS, mỗi văn bản luật hình sự có thể giữ vai trị bổ sung cho BLHS; nếu khơng có BLHS thì mỗi văn bản đó là một bộ phận và cùng với các văn bản khác hợp thành nguồn của ngành luật hình sự <small>1</small>.

<b>1.5. Hiệu lực của Luật hình sự </b>

<i><b>Hiệu lực của luật hình sự là giá trị thi hành của luật hình sự đối với tội </b></i>

phạm nên nó phải gắn với hành vi phạm tội. Nói đến hiệu lực của luật hình sự là nói đến hiệu lực của luật hình sự đối với hành vi phạm tội xảy ra khi nào (hiệu lực về thời gian…) và đối với hành vi phạm tội xảy ra ở đâu và đối với ai (hiệu lực về không gian).

Nguyên tắc chung xây dựng hiệu lực của luật hình sự theo một số nguyên tắc: + Chủ quyền quốc gia về lãnh thổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i><b> Hiệu lực về thời gian của luật hình sự (Điều 7 BLHS năm 2015) </b></i>

<i> Khi đã chấp nhận nguyên tắc pháp chế mà trước hết là nguyên tắc “Nullum crimen sine lege” (khơng có tội khi khơng có luật) thì vấn đề hiệu lực về thời </i>

gian phải được xác định theo ngun tắc: Luật hình sự chỉ có hiệu lực để truy cứu TNHS đối với hành vi được thực hiện sau khi luật được ban hành và có hiệu lực thi hành. (khoản 1 Điều 7 BLHS)

+ Luật hình sự khơng có hiệu lực trở về trước trong các trường hợp sau: đó là trường hợp bất lợi cho người phạm tội: quy định tội mới hoặc xác định tội nặng hơn, mức hình phạt nặng hơn….(khoản 1 Điều 7 BLHS)

+ Luật hình sự có hiệu lực trở về trước trong các trường hợp sau: Nếu việc áp dụng luật mà có lợi đối với người phạm tội: xóa bỏ tội phạm, giảm nhẹ TNHS, giảm nhẹ hình phạt….(Khoản 2 Điều 7 BLHS)

Ở đây có hai điểm cần chú ý:

<i>+ Khi nói khơng có hay có hiệu lực trở về trước thì có thể là đối với tồn </i>

bộ các quy định hoặc chỉ đối với một hoặc một số quy định của luật hình sự. + Trong trường hợp giữa thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm với thời điểm tội phạm kết thúc là khoảng thời gian dài và luật hình sự có hiệu lực thi hành trong khoảng thời gian đó, thì vẩn đề hiệu lực theo thời gian được giải

<i>quyết theo nguyên tắc: Thời điểm thực hiện tội phạm được tính là thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm vì như vậy mới đảm bảo được nguyên tắc “cớ lợi cho người phạm tội”. </i>

<i><b> Hiệu lực về không gian của luật hình sự </b></i>

Hiệu lực về khơng gian của luật hình sự trả lời câu hỏi: Luật hình sự có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra ở đâu và kèm theo là câu hỏi do ai thực hiện. Giải quyết vấn đề này, ngành luật hình sự dựa trên một sổ nguyên tắc được thừa nhận chung. Đó là nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc quốc tịch, nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia và nguyên tắc phổ cập (universal).

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Điều 5. Hiệu lực của BLHS trên lãnh thổ Việt Nam….Mọi hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có thể áp dụng BLHS để xét xử, trừ các trường hợp cụ thể người phạm tội có thể được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hay có các thỏa thuận khác.

Điều 6. Hiệu lực của BLHS ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Công dân Việt Nam, pháp nhân thương mại Việt Nam ở nước ngoài phải chấp hành pháp luật Việt Nam, nếu có hành vi phạm tội vẫn có thể bị xét xử theo pháp luật Việt Nam.

Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ngồi lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHS Việt Nam nếu hành vi phạm tội xâm hại đến quyền , lợi ích của nhà nước Việt Nam, của công dân Việt Nam hoặc theo quy định của Điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

<i>Ví dụ. A là cơng dân Campuchia có hành vi gây nổ phá hoại Đại sứ quán của Việt Nam tại Viêng Chăn – Lào thì theo khoản 2 Điều 6 BLHS Việt Nam có thể áp dụng xử lý đối với A vì đã gây hại cho lợi ích của nhà nước Việt Nam tại nước ngoài (nguyên tắc đảm bảo an ninh quốc gia) </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CÂU HỎI ÔN TẬP </b>

1. Luật hình sự là gì? Vì sao phải nghiên cứu luật hình sự? 2. Luật hình sự Việt Nam có các nhiệm vụ gì?

3. Hãy trình bày nội dung và biểu hiện của các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự Việt Nam?

4. Anh/chị hãy làm rõ khẳng định sau: "Luật hình sự Việt Nam là ngành luật độc lập và rất quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

<b>Chúc các anh/chị học tập tốt! </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>BÀI 2 </b>

<b>TỘI PHẠM VÀ CÁC YẾU TỐ CỦA TỘI PHẠM </b>

<b>2.1. KHÁI NIỆM VÀ DẤU HIỆU (ĐẶC ĐIỂM) CỦA TỘI PHẠM 2.1.1. Khái niệm tội phạm </b>

Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, khái niệm tội phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 8 như sau:

<i>“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” </i>

<b>2.1.2. Các đặc điểm của tội phạm </b>

Về bản chất pháp lý thì tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự nên nó phải chứa đựng đầy đủ các đặc điểm của vi phạm pháp luật nói chung. Song bên cạnh đó nó cịn mang các đặc điểm có tính đặc thù riêng của nó để dựa vào đó có thể phân biệt được tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Các đặc điểm đó đã được thể hiện trong khái niệm tội phạm,

Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm có 5 dấu hiệu (đặc điểm) là :

- Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội; - Đặc điểm có lỗi;

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

- Đặc điểm được quy định trong luật hình sự. - Đặc điểm do người có năng lực TNHS thực hiện - Đặc điểm phải chịu hình phạt.

<i><b>Thứ nhất, đặc điểm nguy hiểm cho xã hội </b></i>

Bất kỳ một hành vi vi phạm nào cũng đều có tính nguy hiểm cho xã hội, nhưng đối với tội phạm thì tính nguy hiểm cho xã hội luôn ở mức độ cao hơn so với các loại vi phạm pháp luật khác. Nếu hiểu một cách đầy đủ thì tình nguy hiểm cho xã hội đã bao hàm cả tính có lỗi của tội phạm, nhưng để nhấn mạnh dấu hiệu lỗi nên có thể tách riêng nghiên cứu thành dấu hiệu độc lập của tội phạm.

Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về nội dung của tội phạm nó quyết định các dấu hiệu khác như tính được quy định trong BLHS của tội phạm. Chính vì vậy, việc xác định dấu hiệu này có ý nghĩa như sau:

- Là căn cứ quan trọng để phân biệt giữa các tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.

- Là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định các dấu hiệu khác của tội phạm. - Là căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt.

Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chúng ta phải cân nhắc, xem xét, đánh giá một cách tồn diện các yếu tố sau:

Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm phạm.

Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội. Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe doạ gây ra.

Hình thức và mức độ lỗi.

Động cơ và mục đích phạm tội. Nhân thân người phạm tội.

Hồn cảnh chính trị xã hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i><b>Thứ hai, đặc điểm có lỗi. </b></i>

Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý. Đây là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm.

Trong luật hình sự Việt Nam, ngun tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà cịn vì đã có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó, tức là con người này nhận thức được hành vi của mình, hiểu được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện.

<i><b>Thứ ba, đặc điểm được quy định trong luật hình sự. </b></i>

Đặc điểm được quy định trong luật hình sự cũng được thể hiện thơng qua Điều

<i>8 là: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…được quy định trong Bộ luật hình sự..”. </i>

Trong bộ luật hình sự, tính trái pháp luật hình sự không chỉ được thể hiện ở

<i>Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. Điều 2 quy định :”chỉ người nào phạm tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự…” </i>

Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Những hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Luật hình sự. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.

Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hộ là hai dấu hiệu có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lí phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.

<i><b>Thứ tư, đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện” </b></i>

<b> Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đủ tuổi chịu TNHS theo quy </b>

định của Luật Hình sự và không thuộc trường hợp mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Dấu hiệu có năng lực trách nhiệm hình sự phản ánh cơ sở để con người đó có lỗi và thể hiện chính sách hình sự của nhà nước ta áp dụng hình phạt khơng chỉ trừng trị mà còn nhằm cải tạo giáo dục người phạm tội.

Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

Điều 21 Bộ luật Hình sự quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.”

Đây là một đặc điểm về chủ thể của tội phạm mặc dù đặc điểm này đã được phản ánh gián tiếp qua đặc điểm được quy định trong Luật Hình sự.

+ Tuy mọi hành vi nói chung và hành vi nguy hiểm cho xã hội đều phải do cá nhân thực hiện và mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành đều thông qua hành vi của những cá nhân, nhưng theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì pháp nhân thương mại vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, khi những cá nhân đó nhân danh pháp nhân thương mại để thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, pháp nhân thương mại cũng được coi là chủ thể của tội phạm. Những quy định đối với pháp nhân thương mại được quy định tại Chương XI Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 75 quy định điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại 1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.

Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự khơng loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.

Điều 76 quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này.

<i><b>Thứ năm, đặc điểm phải chịu hình phạt </b></i>

<i> Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm trừng </i>

trị, giáo dục người phạm tội và giáo dục người khác ý thức tuân thủ pháp luật.

– Đặc điểm phải chịu hình phạt là đặc điểm của tội phạm nhưng khơng phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như đặc điểm nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm trái pháp luật hình sự.

Đây chỉ là đặc điểm kèm theo của đặc điểm nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm trái pháp luật hình sự. Do vậy, Điều 8 Bộ luật Hình sự khơng đề cập đặc điểm này trong khái niệm tội phạm.

Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội, khơng thể áp dụng hình phạt khi khơng có tội phạm xảy ra.

– Đặc điểm phải chịu hình phạt thể hiện là bất kì hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt.

Trong thực tế vẫn có trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt (người phạm tội đượcTNHS, được miễn hình phạth hoặc miễn chấp hành hình phạt Điều 25, 54, 57 và 60 Bộ luật Hình sự), khơng có nghĩa là hành vi phạm tội mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

họ thực hiện khơng có đặc điểm chịu hình phạt mà ngược lại khả năng đe dọa phải chịu hình phạt vẫn có.

<b>2.2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM (Điều 9 BLHS) </b>

− Việc phân loại tội phạm là thể hiện chính sách phân hóa TNHS và có ý nghĩa lớn trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Trách nhiệm hình sự của các chủ thể vi phạm được xác định ngay tại giai đoạn đầu và từ đó định hướng được các chế tài xử lý phù hợp.

− Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:

(1) Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội (dấu hiệu định tính). Theo dấu hiệu này, tội phạm được phân thành 4 mức độ:

- Tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, lớn, rất lớn và đặc biệt lớn

(2) Hậu quả pháp lý - khung hình phạt (dấu hiệu định lượng) và dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt

- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt….đến 3 năm tù

- Tội phạm nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt trên 3 năm tù đến 7 năm tù.

- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt trên 7 năm tù đến 15 năm tù.

- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

- Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định nếu trên và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật Hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cụ thể: Đối với tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện không chỉ căn cứ vào khung hình phạt mà cịn căn cứ vào từng tội phạm cụ thể do pháp nhân thương mại thực hiện để phân chia tội phạm đối với pháp nhân phạm tội. Đối với pháp nhân phạm tội, tuy khơng áp dụng hình phạt tù nhưng các tội mà pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng là những tội phạm mà người phạm tội có thể phạm và tội đó cũng có khung hình phạt. Ví dụ: Nếu pháp nhân thương mại phạm tội buôn lậu quy định tại Điều 188 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 là tội ít nghiêm trọng, tại khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng, khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng, còn khoản 4 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù pháp nhân thương mại chỉ được áp dụng hình phạt tiền.

- Phân loại tội phạm có ý nghĩa trong việc quy định các nguyên tắc xử lý, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp,..

- Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa trách nhiệm hình sự, quy định khung hình phạt, đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt. Ngồi ra, việc phân loại tội phạm cịn có ý nghĩa đối với việc quy định một số chế định tạm giam, tạm giữ trong Bộ luật Tố tụng hình sự

<b>2.3. PHÂN BIỆT TỘI PHẠM VỚI CÁC VI PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC </b>

<i><b>- Về nội dung: </b></i>

Tội phạm và vi phạm pháp luật khác đều có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng khác nhau ở mức độ nguy hiểm. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đáng kể, vi phạm pháp luật khác có mức độ nguy hiểm chưa đáng kể. Khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý

<i><b>bằng các biện pháp khác.” </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Trong Bộ luật hình sự hiện hành, có những tội phạm mà ranh giới giữa mức độ nguy hiểm đáng kể và chưa đáng kể thể hiện rất rõ ràng như tội giết người (Điều 123), tội cướp tài sản (Điều 168), việc thực hiện hành vi giết hay cướp cho phép xác định được ngay đó là tội phạm. Tuy nhiên, có những tội phạm ranh giới giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác không thể hiện rõ ràng. Ví dụ Điều 155 Bộ luật hình sự quy định tội làm nhục người khác, Điều 156. Tội vu khống .v.v…

Thực tiễn ở nước ta hiện nay việc giải thích thường được đưa ra ở các thông tư liên ngành của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.

Việc xác định tính chất nguy hiểm cho xã hội đáng kể hay chưa đáng kể dựa vào các yếu tố:

+ Tính chất của QHXH bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại; + Tính chất và mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe gây ra; + Tính chất và mức độ lỗi;

+ Tính chất và mức độ của hành vi, trong đó bao gồm cả phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội;

+ Nhân thân của người có hành vi phạm tội…

<i><b>– Về hình thức pháp lý: </b></i>

Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, các loại vi phạm pháp luật khác được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc ngành luật khác. Khi một hành vi nào đó được thực hiện mà lúc đó Bộ luật hình sự chưa quy định hành vi đó là tội phạm thì khơng thể có cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể của hành vi ấy.

<i><b>– Về hậu quả pháp lý: Tội phạm gắn liền với hậu quả pháp lý là hình phạt – </b></i>

biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước, ngoài ra một số trường hợp áp dụng các biện pháp tư pháp được quy định ở Điều 46 Chương VII Bộ luật hình sự. Các vi phạm pháp luật khác bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt, được quy định trong chế tài của các ngành luật khác. Bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

cạnh đó, áp dụng hình phạt đối với người thực hiện tội phạm dẫn đến hậu quả người đó bị coi là đã can án (án tích), (trừ trường hợp đã được xố án tích); người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khác khi bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế khác khơng bị coi là mang án tích.

<b>2.4. CÁC YẾU TỐ CỦA TỘI PHẠM </b>

Tội phạm là hiện tượng tiêu cực của xã hội, là hiện tượng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội, tồn tại khách quan bên ngoài xã hội. Về mặt khoa học, có thể phân tích hiện tượng tội phạm bao gồm các yếu tố hợp thành sau đây:

<b>2.4.1. Khách thể của tội phạm a) Khái niệm </b>

<i>Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. </i>

Việc quy định những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm nó phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường thì nó là các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội.

Khách thể của tội phạm là đối tượng bảo vệ của luật hình sự được quy định ở Khoản 1, Điều 8 của BLHS và bị tội phạm gây thiệt hại.

Ý nghĩa của việc xác định khách thể của tội phạm thể hiện ở các phương diện như sau:

<b>b) Phân loại khách thể của tội phạm </b>

<i><b>- Khách thể chung của tội phạm </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. </i>

Phạm vi khách thể chung (đối tượng bảo vệ) của luật hình sự được quy định ở Khoản 1, Điều 8 BLHS.

Ý nghĩa của việc xác định khách thể chung của tội phạm là nhìn vào khách thể chung chúng ta thấy được phạm vi các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ cũng như thấy được chính sách hình sự của Nhà nước ta trong mỗi một giai đoạn cách mạng.

<i><b>- Khách thể loại của tội phạm </b></i>

<i>Khách thể loại của tội phạm là một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm. </i>

Ý nghĩa của việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong BLHS thành từng chương.

<i><b>- Khách thể trực tiếp của tội phạm </b></i>

<i>Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể trực tiếp xâm hại, thể hiện đầy đủ được bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó. </i>

Khi có một tội phạm xảy ra có thể xâm hại tới một hoặc nhiều quan hệ xã hội. * Nếu tội phạm đó chỉ xâm hại tới một quan hệ xã hội thì đó chính là khách thể trực tiếp của tội phạm.

* Nếu tội phạm đó xâm hại tới nhiều quan hệ xã hội thì:

Tội phạm đó chỉ có một khách thể trực tiếp nếu một trong số các quan hệ xã hội bị xâm hại đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

Trường hợp tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp nếu bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ thể hiện đầy đủ trong tổng thể các quan hệ xã hội bị xâm hại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<b>c) Đối tượng tác động của tội phạm - Khái niệm </b>

<i>Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho </i>

<i><b>những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. </b></i>

Thứ nhất: Về mặt nội dung thì đối tượng tác động của tội phạm là cái thông qua sự tác động lên nó tội phạm trực tiếp gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội…và là quan hệ xã hội thì bao gồm 3 bộ phận hợp thành: chủ thể của quan hệ xã hội; nội dung của quan hệ xã hội và đối tượng của quan hệ xã hội.

Như vậy, tội phạm có thể tác động đến một trong các bộ phận nêu trên hoặc tác động đến cả 3 bộ phận hợp thành quan hệ xã hội. Những bộ phận đó được gọi là đối tượng tác động của tội phạm.

Ví dụ 1: Đối với tội phạm giết người.

A dùng dao đâm chết B. Trong trường hợp phạm tội này, tội phạm xâm hại quan hệ nhân thân của B và chỉ có thể thơng qua sự tác động lên cơ thể của B mới có thể gây thiệt hại đến tính mạng của B. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là con người B - B là chủ thể của quan hệ nhân thân.

Thứ hai: Xét về mặt cấu trúc đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm.

Khách thể của tội phạm chính là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, các bộ phận hợp thành của khách thể của tội phạm cũng chính là các bộ phận hợp thành của các quan hệ xã hội. Các bộ phận hợp thành của quan hệ xã hội đó là: Con người chủ thể của quan hệ xã hội, các đối tượng vật chất là lợi ích mà các chủ thể hướng tới là khách thể của quan hệ xã hội và quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Ý nghĩa khi nghiên cứu đối tượng tác động: phản ánh cơ chế gây thiệt hại của tội phạm, đồng thời là yêu tố định tội danh trong nhiều trường hợp. Sự biến đổi của đối tượng tác động là hình thức phản ảnh mức độ gây thiệt hại của tội phạm.

<b>2.4.1. Mặt khách quan của tội phạm a) Khái niệm </b>

<i>Mặt khách quan (MKQ) của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội. </i>

Hành vi khách quan và một số dấu hiệu khác trong MKQ của tội phạm như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn phạm tội được phản ảnh là dấu hiệu bắt buộc. Việc nghiên cứu, xác định chúng có ý nghĩa về mặt định tội hoặc xác định các tình tiết tăng nặng TNHS.

Trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội, một số các biểu hiện trong MKQ như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn, công cụ...được phản ảnh là dấu hiệu định khung. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt.

Một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một số biểu hiện trong MKQ của tội phạm. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

<b>b) Các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm + Hành vi khách quan của tội phạm </b>

<i><b>- Khái niệm </b></i>

Hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn.

Theo khái niệm này thì hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là hành vi của con người nói chung bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp. Chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

có xuất phát từ việc nghiên cứu, chỉ ra các đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm mới có thể đưa ra khái niệm này thể hiện tính khoa học.

Khi so sánh hành vi của con người là hành vi hợp pháp với hành vi vi phạm pháp luật là hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác có thể chỉ ra hành vi khách quan của tội phạm có các đặc điểm sau:

Hành vi khách quan của tội phạm có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội

Hành vi khách quan của tội phạm có tính trái pháp luật hình sự (được quy định trong BLHS phần các tội phạm cụ thể).

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi có thức và có ý chí tức là người thực hiện hành vi có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi, và có khả năng kiềm chế khơng thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội phạm phải được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển.

Một người thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bức về tinh thần - bị đe doạ (bị khống chế về tư tưởng) có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc có thể không phải chịu TNHS tùy vào mức độ bị cưỡng bức.

Để xác định tính chất mãnh liệt của hành vi đe doạ phải đánh giá một cách khách quan, tồn diện các tình tiết như: thời gian, hồn cảnh địa điểm, công cụ, thái độ, cường độ của sự đe doạ, đối tượng bị đe dọa….

Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bức thân thể khơng phải chịu trách nhiệm hình sự vì thực tế họ chỉ là cơng cụ trong tay kẻ cưỡng bức. Việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoàn toàn do sức mạnh bạo lực bên ngồi.

Từ những nội dung đã phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về hành vi khách quan của tội phạm như sau: Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi được quy định trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và là hành vi có ý thức kiểm sốt và có ý chí điều khiển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<b>- Các hình thức của hành vi khách quan của tội phạm </b>

<i><b>Hành động phạm tội </b></i>

<i>Hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật hình sự cấm. </i>

<i><b>Không hành động phạm tội </b></i>

<i>Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật hình sự yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. </i>

Không hành động phạm tội phải thoả mãn các điều kiện như sau: - Chủ thể phải có nghĩa vụ hành động.

- Trong hoàn cảnh cụ thể chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ này. Nghĩa vụ pháp lý phát sinh trong trường hợp sau:

- Do luật định: Phải cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, hoặc phải tố giác tội phạm.

- Do quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: Như quyết định nhập ngũ.

- Do nghề nghiệp. - Do hợp đồng.

Với khái niệm trên tội ghép có 3 đặc điểm sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i><b>Tội kéo dài </b></i>

<i>Là loại tội phạm mà hành vi khách quan có khả năng diễn ra không gián đoạn trong một khoảng thời gian dài. </i>

Ví dụ: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, Tội tàng trữ hàng cấm....

Đặc điểm của tội kéo dài là thời điểm hoàn thành tội phạm và thời điểm kết thúc tội phạm ln có khoảng cách về thời gian. Tội kéo dài chỉ chấm dứt khi tội phạm bị phát hiện hoặc khi người phạm tội tự thú

<b>c. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm Khái niệm </b>

<i>Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<i>tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. </i>

Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định mới được quy định trong CTTP. Song mức độ thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm ln mang tính trừu tượng. Do đó, để xác định mức độ hậu quả của tội phạm phải thơng qua một yếu tố khác mang tính xác định

Hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở các dạng như: - Thiệt hại vật chất

- Thiệt hại về thể chất - Thiệt hại tinh thần

Ý nghĩa của việc xác định hậu quả của tội phạm thể hiện ở các phương diện sau:

- Việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa trong việc xác định có tội hay khơng có tội và tội đó đã hồn thành hay chưa ;

- Dấu hiệu hậu quả được phản ảnh trong một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm. cho nên nó là yếu tố định khung hình phạt.

- Hậu quả của tội phạm còn là căn cứ để quyết định hình phạt

<b>d) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm </b>

<i>Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm). </i>

Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm trù nhân quả trong phép biện chứng có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm như sau:

- Hành vi phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian.

- Trong bản thân hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

- Nếu hậu quả xảy ra phải là hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi.

<b>e) Những biểu hiện khác trong mặt khách quan của tội phạm </b>

<i>Công cụ, phương tiện phạm tội: Là những đối tượng vật chất được chủ thể </i>

sử dụng để tác động vào đối tượng tác động của tội phạm trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.

<i>Thủ đoạn phạm tội: Là cách thức thực hiện tội phạm một cách tinh vi khơn </i>

khéo, có sự tính tốn.

Trong đa số các tội danh trong BLHS, công cụ, phương tiện phạm tội và phương pháp, thủ đoạn phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng. Thủ đoạn phạm tội là tình tiết định tội của tội ngược đãi, hành hạ cha mẹ vợ chồng con cái.

<i>Thời gian phạm tội: Thời gian phạm tội là căn cứ xác định tái phạm hay tái </i>

phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng.

<i>Địa điểm phạm tội: Là tình tiết định tội của một số tội như: Tội trốn khỏi </i>

nơi giam, tội gây rối trạt tự cơng cơng…

<i>Hồn cảnh phạm tội: Là tình tiết định tội của tội đầu cơ như phạm tội trong </i>

hoàn cảnh thiên tai, chiến tranh, và là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>CÂU HỎI ÔN TẬP </b>

1. Phân tích khái niệm và đặc điểm của tội phạm theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự 2015. So sánh khái niệm tội phạm theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự 1999.

2. Nêu cơ sở pháp lý quy định về phân loại tội phạm. Có mấy loại tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam?

3. Phân tích các dấu hiệu định tính và định lượng của mỗi loại tội phạm. 4. Phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật khác.

5. Phân tích khách thể của tội phạm

6. Phân tích mặt khách quan của tội phạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

phạm là người có năng lực TNHS.

Bên cạnh đó, điều luật này cũng quy định chủ thể thứ hai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là pháp nhân thương mại. Theo đó, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS khi thỏa mãn điều kiện chịu TNHS được quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015, có nghĩa cũng bị coi là đã thực hiện tội phạm. Và theo luật định, pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm. Các dấu hiệu về pháp nhân thương mại và điều kiện bị truy cứu TNHS theo quy định tại Điều 75 BLHS nêu trên. Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, đòi hỏi 2 dấu hiệu: Năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định

Đối với một số tội phạm, chủ thể của tội phạm ngoài các dấu hiệu trên cịn địi hỏi phải có thêm các dấu hiệu khác (dấu hiệu đặc biệt - gọi là chủ thể đặc biệt) Ví dụ: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (điều 124); Tội tham ô tài sản

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

(điều 353BLHS), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng người khác để trục lợi (điều 357 BLHS)

<i><b> b) Năng lực trách nhiệm hình sự </b></i>

Năng lực TNHS là năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi khi họ thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực TNHS là một dạng năng lực pháp lý, là khả năng gánh chịu những biện pháp cưỡng chế mà nhà nước có thể áp dụng đối với họ.

Để có năng lực nêu trên, con người phải đạt đến độ tuổi nhất định và mặc nhiên sẽ có được khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (năng lực tự nhiên của con người)

Trường hợp đặc biệt, tuy đạt độ tuổi nhất định nhưng vẫn có thể khơng có khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi. Đây là các trường hợp cần phải kiểm tra năng lực TNHS. Do vậy, tuy dấu hiệu độ tuổi là điều kiện cần để có NLTNHS và gắn liền với dấu hiệu năng lực TNHS nhưng nó vẫn có tính độc lập tương đối.

Người có năng lực TNHS phải là người có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi xã hội. Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì con người có tự do ý chí đã lựa chọn xử sự gây thiệt hại cho xã hội.

Bộ luật hình sự hiện nay khơng quy đinh thế nào là người có năng lực TNHS, mà chỉ quy định tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy, một người khơng ở trong tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS) và đạt độ tuổi theo luật định thì mặc nhiên được coi là có năng lực TNHS.

+ Tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự

Điều 21 BLHS đã quy định về tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự:

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.” </i>

Điều kiện cần và đủ để một người được coi là khơng có NLTNHS: - Dấu hiệu y học: xác định người đó mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh

khác liên quan đến hoạt động tâm thần

- Dấu hiệu tâm lý: Mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi.

Như vậy, trong trường hợp bình thường người được coi là người có NLTNHS là người khơng nằm trong tình trạng mất năng lực TNHS theo Điều 21 BLHS.

+ Tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác

<i>Theo Điều 13 BLHS năm 2015: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.” </i>

Lý do mà pháp luật vẫn đặt ra trách nhiệm hình sự là vì trong trường hợp này, việc mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người dùng rượu, bia, chất kích thích mạnh khác là do lỗi của chính bản thân người đó tự đặt mình vào trạng thái như vậy (do nguyên nhân chủ quan của con người). Việc mắc bệnh tâm thần, bệnh khác, người bệnh khơng thể phịng tránh được, đây là do yếu tố khách quan; Do vậy, mất khả năng nhận thức…do mắc bệnh….thì khơng phải chịu TNHS. Cịn trường hợp say rượu…do lỗi của con người sử dụng rượu, bia….nên người đó phải chịu TNHS khi gây thiệt hại cho xã hội

<b> c) Tuổi chịu trách nhiệm hình sự </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 thì “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. Các “quy định khác” này được cụ thể hóa tại Điều 145, 146, 147, 325, 329 BLHS với điều kiện về độ tuổi chủ thể của những tội phạm này là người “đủ 18 tuổi trở lên”.

Khoản 2 của điều luật này cũng quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS khi: - Phạm một trong các tội được liệt kê tại Điều 12 BLHS và

- Phạm tội thuộc trường hợp tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng

Ví dụ, A 18 tuổi cùng B đủ 15 tuổi thực hiện việc trộm cắp tài sản thuộc khoản 2 Điều 173 BLHS mức phạt cao nhất đến 7 năm tù. Trường hợp này B không bị coi là phạm tội, không bị truy cứu TNHS vì B đủ 15 tuổi (trong độ tuổi đủ 14 đến dưới 16 tuổi) phạm tội theo khoản 2 Điều 173 BLHS có mức phạt tù cao nhất đến 7 năm. Đây là tội phạm nghiêm trọng, theo Điều 12 BLHS thì B khơng phải chị TNHS.

Kết luận: Chủ thể của tội phạm là người đạt độ tuổi theo luật định (Điều 12) và có năng lực TNHS (khơng ở trong tình trạng mất năng lực TNHS (Điều 21) đã thực hiện hành vi phạm tội.

<b> d) Chủ thể đặc biệt của tội phạm </b>

CTTP của tất cả các tội phạm đều địi hỏi chủ thể phải có hai dấu hiệu như đã trình bày ở các phần trên. Tuy nhiên, đối với những tội phạm cụ thể cần phải có những dấu hiệu bổ sung khác mà từ đó có điều kiện thực hiện một số

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tội phạm nhất định. Những chủ thể đòi hỏi dấu hiệu bổ sung như vậy gọi là chủ thể đặc biệt. Dấu hiệu đặc biệt có thể là chức vụ, quyền hạn; quan hệ về gia đình hay nghề nghiệp….

Theo quy định của BLHS, những dấu hiệu đặc biệt có thể thuộc một trong các dạng sau:

+ Các dấu hiệu liên quan đến chức vụ, quyền hạn.

Ví dụ, tội tham ơ tài sản (Điều 353 BLHS) đòi hỏi dấu hiệu đặc biệt của chủ thể phải là người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp quản lý tài sản.

+ Các dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp, cơng việc.

Ví dụ, tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều 277 BLHS) yêu cầu chủ thể phải là người chỉ huy, điều khiển tàu bay.

+ Các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ.

Ví dụ, tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 332 BLHS) yêu cầu chủ thể phải là người đang ở tuổi mà theo quy định của pháp luật phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.

+ Các dấu hiệu liên quan đến gia đình, quan hệ họ hàng.

Ví dụ, tội loạn luân (Điều 184 BLHS) phải là người cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha với nạn nhân.

+ Các dấu hiệu liên quan đến tuổi.

Ví dụ, tội dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS) phải có dấu hiệu người đủ 18 tuổi trở lên có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

+ Các dấu hiệu khác.

Ví dụ, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124) đòi hỏi chủ thể phải là người mẹ mới sinh con

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b> e) Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự </b>

Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội mà những đặc điểm này có ảnh hưởng đối với việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự hay hình phạt. Những đặc điểm đó có thể là nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ làm việc, lối sống, thái độ trong quan hệ với những người khác, thái độ chính trị, trình độ văn hóa, tiền án, tiền sự, tơn giáo…

- Đặc điểm mang tính chất xã hội của người phạm tội…. - Đặc điểm mang tính chất sinh học…

Những đặc điểm nhân thân nêu trên có ảnh hưởng đến tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và phản ánh khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội.

Việc nghiên cứu về nhân thân người phạm tội có ý nghĩa to lớn trong việc xác định mức độ TNHS của người phạm tội. Đó là những tội phạm mà cấu thành tội phạm cơ bản hoặc cấu thành tội phạm tăng nặng hay giảm nhẹ của những tội này có dấu hiệu phản ánh đặc điểm nào đó về nhân thân của người phạm tội.

<b>3.2. Mặt chủ quan của tội phạm a) Khái niệm </b>

<i>Mặt chủ quan (MCQ) của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. </i>

Trong mặt chủ quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh trong mọi CTTP, dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội được phản ánh là dấu hiệu định tội của một số tội, nhưng đa số chúng được phản ánh là tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng TNHS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi yếu tố có ý nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.

- Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi đó.

- Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội.

- Động cơ phạm tội là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.

Cấu trúc trong quan hệ tâm lý của con người nói chung và của người phạm tội nói riêng được hợp thành bởi 2 bộ phận là lý trí và ý chí đối với các biểu hiện của mặt khách quan là hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm. Cụ thể:

<i> - Lý trí: Là khả năng nhận thức tính chất nguy hiểm của hành vi và khả </i>

năng đánh giá (thấy trước) hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra trong tương lai.

<i> - Ý trí: Là khả năng điều khiển hành vi của con người, thể hiện con </i>

người mong muốn đạt đến cái gì, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Dựa vào cấu trúc trong yếu tố lỗi, hình thức lỗi được chia làm 2 loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý

- Lỗi cố ý được chia thành 2 hình thức: Cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (Điều 10 BLHS).

Lỗi cố ý trực tiếp (khoản 1 Điều 10 BLHS) Lỗi cố ý gián tiếp (khoản 2 Điều 10 BLHS)

Ví dụ, A thấy B bị tai nạn giao thơng có điều kiện đã không cứu giúp dẫn đến B chết. Tội phạm A bị truy tố theo Điều 132. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…tâm lý của A ở đây là có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. A được coi là có lỗi cố ý gián tiếp. - Lỗi vô ý được chia thành 2 hình thức : Vơ ý vì q tự tin và lỗi vơ ý vì cẩu thả biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội (Điều 11 BLHS).

Lỗi vơ ý vì q tự tin (khoản 1 Điều 11 BLHS Lỗi vơ ý vì cẩu thả (khoản 2 Điều 11 BLHS

Ví dụ, A dẫn B đi tập bơi tại sông của quê của A….Khi B sắp biết bơi, A đưa B ra giữa sông, để B tự bơi vào bờ…Khi thấy B sắp chìm thì A bơi ra kéo B và bờ…hai lần như vậy, lần 3 thì A bơi ra khơng kịp, B bị dịng nước xoáy cuốn đi, hậu quả B chết. A coi là phạm tội vô ý làm chết người. Trường hợp này A có lỗi vơ ý vì q tự tin.

Hoặc Chị H là y tá bệnh viện đã không kiểm tra đầy đủ…phát nhầm thuốc cho ông K uống dẫn đến ơng K chết. Chị H có lỗi vơ ý vì cẩu thả….

<b>c) Động cơ và mục đích phạm tội </b>

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý (trực tiếp)

Cần phân biệt khái niệm động cơ phạm tội và động cơ xử sự hành vi. Hành vi của con người trong trạng thái bình thường nói chung đều được thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

hiện do sự thúc đẩy của một hoặc một số động cơ nhất định. Không những trong trường hợp phạm tội do cố ý mà cả trong trường hợp phạm tội vô ý, người phạm tội cũng đều xuất phát từ những động cơ nhất định

Cần phân biệt mục đích phạm tội với hậu quả của tội phạm. Mục đích phạm tội hình thành trước khi người đó bắt đầu thực hiện tội phạm. Hậu quả của tội phạm là một hiện tượng khách quan có quan hệ với mục đích phạm tội. Nó là kết quả thực tế mà người phạm tội đạt được sau khi đã thực hiện hành vi

Động cơ, mục đích phạm tội được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong một số tội phạm.

<b>d) Trường hợp hỗn hợp lỗi: Tội phạm bao gồm cả lỗi cố ý và vô ý với </b>

các dấu hiệu khách quan khác nhau. Trường hợp này chỉ xảy ra đối với tội do cố ý mà hậu quả xảy ra là do vô ý trong các cấu thành tăng nặng. Hiện nay, cấu thành cơ bản có một số trường hợp có cả lỗi cố ý và lỗi do vô ý (Tội đua xe trái phép. Điều 266 BLHS)

Cần phân biệt “hỗn hợp lỗi” với “lỗi hỗn hợp”. Lỗi hỗn hợp là trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng đó là kết quả của nhiều bên có lỗi, có thể có lỗi của người phạm tội, người bị hại hoặc của những người thứ ba.

<b>đ) Sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đối với TNHS. Về nguyên tắc </b>

người sai lầm trong pháp luật hình sự có thể vẫn phải chịu TNHS trong những trường hợp nhất định.

Sai lầm là quan niệm (nhận thức) không đúng đắn của một người về hiện tượng khách quan nào đó. Sai lầm trong luật hình sự được hiểu là quan niệm khơng đúng đắn của con người về tính chất pháp lý và về những tình tiết thực tế khác của hành vi mà người đó đã thực hiện. Có hai dạng sai lầm là sai lầm về pháp luật và sai lầm về sự việc.

<i>+ Sai lầm về pháp luật là sự hiểu lầm của một người về tính chất pháp lý của hành vi của mình. </i>

</div>

×