Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 96 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>THÁI NGUYÊN – NĂM 2022</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>Chuyên ngành: Nhi Khoa Mã số: 62721655 </b>
<i><b>Người hướng dẫn khoa học: S.TS. Nguyễn Văn Sơn </b></i>
<b>THÁI NGUYÊN – NĂM 2022 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tôi là: Trần Xuân Tuấn, học viên chuyên khoa II – K14 Trường Đại học Y dược Thái Nguyên, chuyên ngành Nhi khoa, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy: GS.TS Nguyễn Văn Sơn.
2. Cơng trình này khơng trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hồn tồn chính xác, trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
<i> Thái Nguyên, ngày tháng năm 2023 </i>
<b> N ƢỜ AM OAN </b>
<b> Trần Xuân Tuấn </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><i>Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các bạn đồng nghiệp và gia đình. </i>
<i>Tơi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn người Thầy tâm huyết đã tận tình hướng dẫn, động viên </i>
<i>khích lệ, dành nhiều thời gian trao đổi và định hướng cho tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn. </i>
<i>Tơi xin trân trọng cảm ơn Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Bệnh viện A Thái Nguyên và các khoa, phòng, trung tâm. Đặc biệt là khoa Nhi, các khoa xét nghiệm là nơi tôi học tập, nghiên cứu và thu thập số liệu. </i>
<i>Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Y dược Thái Nguyên, phòng Quản lý đào tạo Sau Đại học, Bộ môn Nhi đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. </i>
<i> Thái Nguyên, ngày tháng năm 2023 </i>
<b> N ƢỜ AM OAN </b>
<b> Trần Xuân Tuấn </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">CC/ T : Chiều cao/ Tuổi
ID <i>: Thiếu sắt (Iron deficiency) </i>
IDA <i>: Thiếu máu thiếu sắt (Iron deficiency aneamia) </i>
INACGCG : Nhóm tư vấn quốc tế về thiếu máu dinh dưỡng
<i>(International Nutritional Aneamia Consultative Group) </i>
MCH : Lượng huyết sắc tố trung bình trong một hồng cầu
<i>(Mean Corpuscular Hemoglobin) </i>
MCHC : Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu
<i>(Mean Corpuscular Hemoglobin Concentration) </i>
<i>(Mean corpuscular volume) </i>
<i>(Mental Development Index) </i>
<i>(Magnetic resonance imaging) </i>
<i>(Psychology Development Index) </i>
<i>(Red cell Distribution) </i>
<i>(United Nations International Children's Emergency Fund) </i>
<i>(World Health Organization)</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b> ẶT VẤN Ề ... 1 </b>
<b> ƯƠN 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ... 3 </b>
1.1. Sinh lý bệnh thiếu máu thiếu sắt ... 3
1.2. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt ... 11
1.3. Các nguyên nhân gây thiếu sắt ... 13
1.4. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt ... 15
<b> ƯƠN 2. Ố TƯỢN V P ƯƠN P P N N ỨU ... 22 </b>
2.1. Đối tượng nghiên cứu... 22
2.2. Thời gian nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu ... 23
2.3. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang ... 23
2.4. Các chỉ số, biến số trong nghiên cứu ... 23
2.5. Phương pháp thu thập số liệu ... 27
2.6. Xử lý và phân tích số liệu ... 29
2.7. Các biện pháp khống chế sai số ... 29
2.8. Đạo đức nghiên cứu ... 29
<b> ƯƠN 3. K T QUẢ NGHIÊN CỨU ... 31 </b>
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ... 31
3.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt ... 34
3.3. Một số yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt ở trẻ dưới 5 tuổi ... 41
<b> ƯƠN 4. BÀN LUẬN ... 47 </b>
4.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt ... 47
4.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt ... 53
<b>K T LUẬN ... 61 </b>
<b>KHUY N NGHỊ ... 62 </b>
<b>CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ TRÊN T P Í TRON NƯỚC CĨ LIÊN QUAN N LUẬN VĂN ... </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>PHỤ LỤC 2 ... PHỤ LỤC 3 </b> ...
<b>DANH SÁCH BỆNH NHÂN ... </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Hình 1.1. Sơ đồ cấu tạo phân tử Hb ... 5Hình 1.2. Sơ đồ cấu tạo HEM ... 6
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Bảng 1.1. Mức độ thiếu máu ... 4
Bảng 1.2. Nhu cầu sắt khuyến nghị cho trẻ em Việt Nam (mg/ngày) ... 7
Bảng 1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu sắt trong cơ thể ... 9
Bảng 1.1. Mức độ thiếu máu ... 26
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới ... 31
Bảng 3.2. Thông tin chung về trẻ ... 32
Bảng 3.3. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ theo nhóm tuổi ... 33
Bảng 3.4. Thơng tin chung bà mẹ ... 34
Bảng 3.5. Mức độ thiếu máu thiếu sắt theo nhóm tuổi ... 34
Bảng 3.6. Triệu chứng lâm sàng thiếu máu thiếu sắt theo nhóm tuổi ... 35
Bảng 3.7. Triệu chứng lâm sàng theo mức độ thiếu máu ... 36
Bảng 3.8. Đặc điểm cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt ... 37
Bảng 3.9. Nồng độ sắt huyết thanh theo nhóm tuổi ... 37
Bảng 3.10. Nồng độ sắt huyết thanh theo giới ... 38
Bảng 3.11. Thiếu máu thiếu sắt và tuổi thai... 41
Bảng 3.12. Thiếu máu thiếu sắt và cân nặng khi sinh... 42
Bảng 3.13.Thiếu máu thiếu sắt và ăn bổ sung sớm trước 6 tháng ... 42
Bảng 3.14.Thiếu máu thiếu sắt và uống bổ sung sắt ... 43
Bảng 3.15. Thiếu máu thiếu sắt và tẩy giun định kỳ... 43
Bảng 3.16. Thiếu máu thiếu sắt và số thứ tự con trong gia đình ... 44
Bảng 3.17. Thiếu máu thiếu sắt và địa dư ... 44
Bảng 3.18. Mức độ thiếu máu thiếu sắt và nhóm tuổi mẹ ... 45
Bảng 3.19. Thiếu máu thiếu sắt và trình độ học vấn của mẹ ... 45
Bảng 3.20. Thiếu máu thiếu sắt và nghề nghiệp của mẹ ... 46
Bảng 3.21. Thiếu máu thiếu sắt và bổ sung sắt khi mang thai ... 46
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Biểu đồ 3.1. Phân bố tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu ... 33
Đồ thị 3.1. Mối tương quan giữa nồng độ Fe huyết thanh và Hb ... 38
Đồ thị 3.2. Mối tương quan giữa nồng độ Fe huyết thanh và MCV ... 39
Đồ thị 3.3. Mối tương quan giữa nồng độ Fe huyết thanh và MCH ... 39
Đồ thị 3.4. Mối tương quan giữa nồng độ Ferritin và mức giảm Hb ... 40
Đồ thị 3.5. Mối tương quan giữa nồng độ Ferritin và mức giảm MCV ... 40
Đồ thị 3.6. Mối tương quan giữa nồng độ Ferritin và mức giảm MCH ... 41
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b> ẶT VẤN Ề </b>
Thiếu máu ở trẻ em là một vấn đề sức khỏe cộng đồng cần được quan tâm hiện nay. Có nhiều nguyên nhân gây thiếu máu, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là do thiếu sắt [28]. Khoảng 50% các trường hợp thiếu máu được coi là do thiếu sắt [41]. Thiếu máu do thiếu sắt (TMTS) nằm trong nhóm bệnh thiếu máu dinh dưỡng, là một bệnh lý rất thường gặp tác động đến một phần tư dân số trên thế giới và tập trung chủ yếu ở trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ có thai [28]. Nghiên cứu của Rafael Plessow ở Ấn Độ cho thấy, tỷ lệ chung của TMTS là 49,5% ở nhóm 6 - 23 tháng tuổi và 39,9% ở nhóm 24 - 59 tháng tuổi [59]. Theo kết quả nghiên cứu của Huang Yiwen tại Trung Quốc, tỷ lệ thiếu máu của trẻ em từ 6 - 23 là 59,1%, và hơn 80% trẻ em bị thiếu máu là do thiếu sắt (ID) [37]. Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ em từ 1 đến 5 tuổi tại Hoa Kỳ được ước tính là 1% đến 2% [70]. Tại Việt Nam, theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi năm 2015 là 27,8%, tỉ lệ thiếu sắt là 50,3%. Khi thiếu hụt sắt kéo dài dẫn đến thiếu máu, do vậy TMTS tiến triển thầm lặng, nhưng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của trẻ đặc biệt là phát triển của não bộ và hệ miễn dịch [78].
Triệu chứng lâm sàng của TMTS phong phú, đa dạng, phụ thuộc vào mức độ thiếu máu và khác nhau ở các nghiên cứu. Triệu chứng da xanh không được phát hiện ở khoảng 2/3 trẻ em thiếu máu nhẹ. Tuy nhiên, triệu chứng da xanh có giá trị nhất trong việc phát hiện thiếu máu nặng [71].Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà tại Quảng Ninh cho thấy triệu chứng lâm sàng của thiếu máu như da xanh, lòng bàn tay nhợt chiếm 100%, niêm mạc mắt nhợt chiếm 67% [6]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang cho thấy triệu chứng da xanh, niêm mạc nhợt là 92% [12]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tư thấy rằng triệu chứng niêm mạc mắt nhợt chiếm 69,5% [13].
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Tuổi thai, cân nặng khi sinh là những yếu tố liên quan đến TMTS ở trẻ em đã được đề cập…[16], [22]. Mẹ không uống bổ sung sắt khi mang thai, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp của mẹ… cũng góp phần làm tăng tỉ lệ TMTS ở trẻ [56]. Theo nghiên cứu của Berglund và cộng sự, trẻ sơ sinh nhẹ cân, cả sinh non và đủ tháng, có nguy cơ thiếu sắt (36%) và TMTS (9,9%) [22]. Akkermans và cộng sự cho thấy tình trạng thiếu sắt và TMTS ở trẻ sinh non lúc 6 tuần lần lượt là 38,2% và 30,9% [16]. Mẹ có nghề nghiệp ổn định nguy cơ bị thiếu máu thấp hơn so với trẻ mẹ khơng có việc làm [56]. Khơng bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, ăn bổ sung sớm cũng là những yếu tố nguy cơ dẫn đến TMTS ở trẻ em [42].
Bệnh viện A Thái Nguyên là bệnh viện đa khoa hạng I của tỉnh, có số lượng bệnh nhân đơng, là địa chỉ tin cậy của bệnh nhân trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận. Mỗi năm, khoa Nhi Bệnh viện A điều trị từ 5000 đến 6000 lượt bệnh nhân. Trong quá trình thăm khám, điều trị chúng tơi nhận thấy có nhiều bệnh nhân có triệu chứng thiếu máu. Các xét nghiệm sắt, ferritin không phải là xét nghiệm thường quy của bệnh viện. Để tìm hiểu đặc điểm thiếu máu thiếu sắt của trẻ em điều trị ở đây như thế nào? Yêu tố nào liên quan đến thiếu máu thiếu sắt ở trẻ? Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng tôi thực
<i><b>hiện đề tài: “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan </b></i>
<i><b>đến thiếu máu thiếu sắt ở trẻ từ 02 tháng đến 60 tháng tuổi tại Bệnh viện A Thái Nguyên” nhằm mục tiêu: </b></i>
<i>1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ từ 02 tháng đến 60 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện A Thái Nguyên năm 2021 - 2022 </i>
<i>2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em nói trên. </i>
Hy vọng kết quả thu được từ đề tài sẽ làm phong phú hơn những hiểu biết về thiếu máu thiếu sắt và góp phần vào việc phịng chống bệnh thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b> ƢƠN 1. </b>
<b>TỔN QUAN T L ỆU </b>
<b>1.1. Sinh lý bệnh thiếu máu thiếu sắt </b>
<i><b>1.1.1. Định nghĩa thiếu máu thiếu sắt </b></i>
Thiếu máu do thiếu sắt xuất hiện khi tổng hàm lượng sắt trong cơ thể giảm đủ nghiêm trọng để làm giảm quá trình tạo hồng cầu và gây ra sự phát triển của bệnh thiếu máu.
Thiếu máu là tình trạng giảm lượng hemoglobin (Hb) hay khối hồng cầu (red cell mass) dưới giới hạn bình thường của người cùng lứa tuổi. Thiếu máu gây hậu quả giảm khả năng vận chuyển cung cấp oxy cho tổ chức của hồng cầu để đáp ứng nhu cầu sinh lý của cơ thể [2].
Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu khi chỉ số Hb thấp dưới -2SD so với quần thể cùng tuổi và giới [2].
- 2 tháng: < 90 g/l
- Trẻ từ 3 đến < 6 tháng: < 95g/l - Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi: < 10,5g/l - Trẻ em từ 2 đến 6 tuổi: < 115 g/l - Trẻ em từ 6 đến 12 tuổi: < 115 g/l - Trẻ 12 – 18 tuổi: Nữ < 120 g /l Nam: < 130 g/l - Từ 18 – 49 tuổi: Nữ: <120 g/l Nam: < 135 g/l * Xét nghiệm chứng tỏ thiếu sắt:
- Sắt huyết thanh: Sắt huyết thanh < 10 mmol/l [2].
- Ferritin huyết thanh: Là chỉ số đánh giá kho dự trữ sắt của cơ thể, nó
cung cấp một thơng tin có giá trị về tình trạng sắt dự trữ. Ferritin huyết
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">thanh < 12 µg/l (trẻ < 5 tuổi), hoặc < 15 µg/l (Trẻ >= 5 tuổi) [2] là chỉ số đánh giá tình trạng thiếu máu thiếu sắt.
+ Hướng dẫn của Hội tiêu hóa Mỹ về đánh giá thiếu máu thiếu sắt khi Ferritin huyết thanh < 45 µg/l [44].
<i><b>1.1.2. Phân loại thiếu máu do thiếu sắt </b></i>
Thiếu máu thiếu sắt có đặc điểm là thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ, sắt và ferritin huyết thanh giảm. Thiếu máu thiếu sắt rất phổ biến và là thiếu máu dinh dưỡng chủ yếu ở trẻ em [2]:
- Thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc có đặc điểm: + MCV < 80 fl hoặc MCHC < 300 g/l
+ MCH < 28 pg + RDW > 15%
<i><b>1.1.3. Mức độ thiếu máu </b></i>
Mức độ thiếu máu được chia theo mức giảm Hb vì nó quyết định các biểu hiện lâm sàng. Hb > 100g/l, các triệu chứng chỉ xuất hiện khi nhu cầu oxy của cơ thể tăng (VD: sốt, gắng sức…). Hb trong khoảng 80 →100 g/l, các triệu chứng xuất hiện lúc nghỉ ngơi đặc biệt ở người già và trẻ nhỏ, nhưng mức độ nhẹ. Hb <80g/l thì các triệu chứng xuất hiện lúc nghỉ và rõ ràng hơn. Do vậy, người ta chia thiếu máu thành các mức độ nhẹ, vừa và nặng dựa vào Hb [2], [73].
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><i><b>1.1.4. Vai trò của sắt trong cấu trúc và chức năng của hồng cầu </b></i>
Hồng cầu chiếm hơn 99% trong các thành phần hữu hình của máu. Đó là những tế bào có hình đĩa hai mặt lõm, đường kính 7-8mm, bề dày phần ngoại vi 2-2,5 mm và phần trung tâm 1 mm, thể tích trung bình 90-95 mm3.
Hồng cầu khơng có nhân cũng như các bào quan. Thành phần chính của hồng cầu là hemoglobin (Hb), chiếm 34% trọng lượng (nồng độ 34 g/dl trong dịch bào tương). Cấu trúc của hồng cầu đặc biệt thích ứng với chức năng vận chuyển khí oxy.
<i><b>* Cấu trúc hemoglobin </b></i>
Hemoglobin gồm 2 thành phần chính: phần protein là globin gồm chuỗi polypeptit và nhóm ngoại gồm 4 nhân HEM. Mỗi nhân HEM gắn với một chuỗi polypeptit [29].
<i><b>Hình 1.1. Sơ đồ cấu tạo phân tử Hb [50] * Thành phần HEM </b></i>
HEM có cấu trúc cho nhiều loài, nó được cấu tạo một vịng protoporphyrin và một ngun tử sắt hóa trị 2 [47]. Nhân protoporphyrin gồm 4 vòng pyrol, gắn với nhau qua cầu nối methylen (-CH=) và một số mạch thẳng methyl (-CH3), vinyl (-CH=CH2) và propionat (-CH2-CH2-COOH).
Nguyên tử sắt nằm ở trung tâm, có 2 mối liên kết chặt chẽ với 2 nguyên tử nitơ và 2 mối liên kết giả với 2 nguyên tử nitơ khác.
<small> α β </small>
<small> β α </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><i><b>Hình 1.2. Sơ đồ cấu tạo HEM [50] </b></i>
Sắt chứa trong thực phẩm là sắt hem và sắt không hem. Sắt hem chỉ có trong thức ăn có nguồn gốc động vật, sắt khơng hem có trong thực phẩm nguồn gốc động vật và thực vật. Những hợp chất chứa hem (hemoglobin, myoglobin) được chuyển nguyên vẹn đến tế bào ruột, vì hem được bảo vệ nhờ vịng tetrapirronie. Sắt được phóng thích ở đây và đi thẳng vào trong tế bào ruột, sau đó sắt đi qua thanh mạc vào máu. Khoảng 20-30% sắt hem được hấp thu không phụ thuộc vào cân bằng sắt cũng như không bị ảnh hưởng bởi các thành phần khác trong thức ăn. Sự hấp thu sắt không hem lại phụ thuộc vào cân bằng sắt của từng người và bị ảnh hưởng bởi các chất ức chế như phytate, tanin…[69]
<i><b>1.1.5. Nhu cầu sử dụng sắt trong cơ thể </b></i>
Quá trình chuyển hóa sắt trong cơ thể là một chu trình khép kín. Cân bằng sắt đạt được chủ yếu bởi các cơ chế ảnh hưởng đến hấp thu và vận chuyển ruột, chứ không phải là bài tiết qua nước tiểu hay phân. Ở người lớn, 5% nhu cầu sắt hàng ngày đến từ các nguồn thực phẩm (thông qua sự hấp thu tại đường tiêu hóa) bù đắp cho sự mất sắt; 95% sắt tham gia vào quá trình tái tạo hồng cầu được lấy từ việc phá huỷ các hồng cầu già cỗi. Trong khi đó, ở trẻ nhỏ, 70% nhu cầu sắt sử dụng để tạo hồng cầu được lấy từ việc phá huỷ hồng cầu cũ và 30% cịn lại được lấy từ nguồn thức ăn vì tốc độ tăng trưởng
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">tăng nhanh [8] [63]. Lượng sắt mất đi hằng ngày chỉ khoảng 1 mg. Sắt mất đi thông qua phân, nước tiểu, mồ hôi, tế bào biểu mô bị bong ra. Lượng sắt này sẽ được bù lại trong khẩu phần ăn hằng ngày. Tuy nhiên lượng sắt mất đi có thể tăng lên nhiều trong trường hợp như mất máu qua chu kỳ kinh nguyệt, mất máu do chấn thương hay do xuất huyết tiêu hóa… Nếu cơ thể bị mất máu cấp, hay hồng cầu bị phá vỡ làm cho lượng sắt bị đào thải theo hemoglobin tăng lên, sẽ hạn chế tái sử dụng sắt, hoặc do cung cấp sắt thiếu lâu ngày, đều làm cho lượng sắt trong cơ thể giảm, sắt trong kho dự trữ bị sử dụng cạn kiệt, gây nên thiếu máu do thiếu sắt. Lượng sắt được cung cấp hằng ngày trong khẩu phần ăn cũng có thể khơng đủ để đáp ứng với nhu cầu của cơ thể khi nhu cầu này tăng lên như phụ nữ có thai, trẻ nhỏ 5-12 tháng, tuổi dậy thì….
<i><b>Bảng 1.2. Nhu cầu sắt khuyến nghị cho trẻ em Việt Nam (mg/ngày) [15] </b></i>
Hấp thu 15% ***
Hấp thu 10% **
Hấp thu 15% ***
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><i><b>1.1.6. Chuyển hóa sắt trong cơ thể </b></i>
<i>1.1.6.1. Hấp thu sắt trong cơ thể </i>
Sắt được hấp thu chủ yếu ở bộ máy tiêu hoá và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lượng sắt trong cơ thể, mức độ sản sinh hồng cầu, số lượng và chất lượng sắt cùng với sự có mặt của các chất kích thích hay ức chế hấp thu sắt trong thức ăn.
Hệ thống tiêu hoá sẽ tăng hấp thu sắt khi dự trữ sắt trong cơ thể thấp và sẽ giảm khi dự trữ sắt trong cơ thể cao [69].
Trong thức ăn, sắt ở dưới dạng ferric (Fe<small>3+</small>). Sắt có thể ở dưới dạng vơ cơ hoặc hữu cơ. Sắt có thể ở dưới dạng hydroxyd hoặc liên hợp với protein. Hàm lượng sắt khác nhau trong từng loại thức ăn nhưng nhìn chung thức ăn từ thịt chứa nhiều sắt hơn thức ăn từ thực vật, trứng hay sữa. Khẩu phần ăn hằng ngày trung bình có chứa khoảng 10 - 15 mg sắt [69].
Chỉ có khoảng 5 - 10% sắt trong lượng sắt nói trên được cơ thể hấp thu. Quá trình hấp thu sắt bắt đầu tại dạ dày nhưng chủ yếu diễn ra tại hành tá tràng và ở mức độ ít hơn tại đoạn đầu ruột non. Để có thể hấp thu được sắt phải chuyển từ dạng ferric (Fe<small>3+</small>) sang dạng ferrous (Fe<small>2+</small>). Pepsin tách sắt khỏi các hợp chất hữu cơ và chuyển thành dạng gắn với các acid amin hoặc với đường. Acid HCl khử Fe<small>3+ </small>
thành Fe<sup>2+</sup> để dễ hấp thu. Sự kiểm sốt q trình hấp thu sắt và lượng sắt được hấp thu vào máu qua tĩnh mạch cửa phụ thuộc vào nhu cầu sắt và kho dự trữ sắt của cơ thể. Ngược lại trong trường hợp cơ thể quá tải sắt lượng sắt được hấp thu vào tế bào niêm mạc ruột sẽ giảm đi. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình hấp thu sắt là sự điều hòa hấp thu sắt ngay tại diềm bàn chải của ruột non. Lượng sắt được hấp thu thừa sẽ kết hợp với apoferritin để hình thành ferritin nằm trong bào tương tế bào niêm mạc ruột. Ferritin này sẽ được thải vào lòng ruột khi tế bào biểu mô ruột bị bong [8].
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b>Bảng 1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu sắt trong cơ thể [8] </b>
<b>- Dạng ferrous (Fe</b><sup>2+)</sup>
- Sắt vô cơ
- Môi trường acid (HCL), vitamin C - Các yếu tố hòa tan (acid amin…) - Thiếu sắt trong cơ thể
- Tăng tổng hợp hồng cầu - Tăng nhu cầu (có thai) - Hemochoromatose
<b>- Dạng ferric </b>
- Sắt hữu cơ
- Môi trường kiềm
- Các yếu tố gây tủa (phitat, phosphat) - Thừa sắt
- Giảm tổng hợp hồng cầu - Nhiễm khuẩn, viêm mạn tính
- Các thuốc thải sắt (deferriosamin), chè
<i>1.1.6.2. Vận chuyển sắt trong cơ thể </i>
Sắt được vận chuyển bởi transferrin. Transferrin là một protein có trọng lượng phân tử 80.000 Da. Transferrin được tổng hợp tại gan và có nửa đời sống khoảng 8-10 ngày. Một phân tử transferrin có thể gắn với 2 phân tử sắt. Sau khi sắt tách ra, transferrin tiếp tục gắn với những ngun tử sắt mới. Bình thường có khoảng 1/3 transferrin bão hịa sắt, tỷ lệ này có thể thay đổi trong các bệnh lý thiếu hoặc quá tải sắt [69].
Transferrin chủ yếu lấy sắt từ các đại thực bào của hệ liên võng nội mơ. Chỉ có một lượng nhỏ sắt được lấy từ sắt hấp thu qua đường tiêu hóa hàng ngày. Người ta thấy rằng, các đại thực bào giải phóng sắt theo chu kỳ trong ngày với lượng sắt giải phóng cao nhất vào buổi sáng và thấp nhất vào buổi chiều. Do đó nồng độ sắt trong huyết tương cũng được thấy cao nhất vào buổi sáng và thấp nhất vào buổi chiều [69].
Các nguyên hồng cầu lấy sắt cần thiết cho quá trình tổng hợp hemoglobin từ transferrin. Các nguyên hồng cầu rất giầu các receptor với transferrin. Ngoài ra, một lượng nhỏ sắt cũng được chuyển đến các tế bào không phải hồng cầu (như tổng hợp các enzyme chứa sắt). Trong trường hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">quá tải sắt, lượng sắt trong huyết tương tăng lên và transferrin bị bão hòa hết. Khi đó sắt được chuyển đến các tế bào ở nhu mô các cơ quan khác như gan, tim, các tuyến nội tiết gây ra các biểu hiện bệnh lý do ứ đọng sắt [8], [69].
<i>1.1.6.3. Phân bố sắt trong cơ thể </i>
Khoảng hai phần ba lượng sắt trong cơ thể chứa trong hemoglobin. Khoảng 30% sắt được dự trữ ở dạng ferritin và hemosiderin trong hệ liên võng nội mô tại gan, lách và tủy xương. Còn lại một lượng sắt nhỏ có trong thành phần một số enzyme (cytochrom, catalase, peroxydase…), trong myoglobin của cơ và một lượng sắt gắn với protein vận chuyển sắt là transferrin. Do tỷ lệ khác nhau này mà khi cơ thể thiếu sắt trước tiên sẽ ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp hemoglobin và lượng sắt dự trữ cịn sắt có trong các enzyme của tế bào thường chỉ giảm trong các trường hợp thiếu sắt nặng [64].
<i>1.1.6.4. Dự trữ sắt và quá trình chuyển hóa sắt trong cơ thể </i>
Khi hồng cầu già, yếu sẽ bị các đại thực bào phân hủy ở hệ liên võng nội mô. Một phần nhỏ sắt giải phóng ra từ hemoglobin sẽ đi vào huyết tương và phần lớn được dự trữ dưới dạng ferritin và hemosidein. Lượng dự trữ này nhiều hay ít tùy thuộc vào tình trạng cơ thể, lượng sắt có trong cơ thể và nhu cầu của cơ thể [8], [69] .
Ferritin là một protein tan trong nước. Vỏ protein khi chưa liên kết với sắt gọi là apoferritin. Sau khi liên kết với sắt thì chuyển thành ferritin. Lượng sắt chứa trong ferritin chiếm khoảng 20% trọng lượng phân tử này. Mỗi phân tử apoferritin có thể liên kết với 4000-5000 nguyên tử sắt. Còn hemosidein là một tổ hợp có chứa sắt khơng hịa tan trong nước. Lượng sắt trong thành phần hemosidein có thể lên đến 37% trọng lượng của nó. Sắt chứa trong ferritin và hemosidein là sắt ở dạng hóa trị ba (dạng ferric). Muốn sử dụng được trong quá trình tổng hợp hemoglobin sắt cần được khử thành dạng hóa trị hai (dạng ferrous) [8], [69].
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><b>1.2. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt </b>
Triệu chứng lâm sàng của TMTS diễn biến từ từ qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Chỉ giảm sắt dự trữ nên người bệnh chưa bị thiếu máu, thường có một số triệu chứng của nguyên nhân gây thiếu sắt.
- Giai đoạn 2: Đã cạn sắt dự trữ và giảm sắt vận chuyển, người bệnh chưa có biểu hiện rõ tình trạng thiếu máu, bắt đầu có triệu chứng của thiếu sắt như: mất tập trung, mệt mỏi…
- Giai đoạn 3: Thiếu máu và thể hiện là có cả triệu chứng của thiếu máu và thiếu sắt. Tuy nhiên, ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng [8].
<i><b>1.2.1. Triệu chứng lâm sàng </b></i>
- Tuổi thường từ 6 tháng trở lên. Nếu trẻ đẻ non có thể xảy ra sớm hơn từ 2-3 tháng.
- Da xanh, lòng bàn tay nhợt từ từ;
- Niêm mạc môi, má, lưỡi và kết mạc mắt nhợt;
- Móng tay có khía, dễ gãy, teo niêm mạc, mất gai lưỡi, tóc khơ ráp…; - Trẻ mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, đau đầu, mệt mỏi tăng và khó thở xuất hiện khi gắng sức, thậm chí xỉu. Trẻ chán ăn, ít hoạt động, ngừng tăng cân hay rối loạn tiêu hóa. Ở lứa tuổi đi học thường học sút kém do kém tập trung;
Triệu chứng lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt thường rất nghèo nàn, xảy ra từ từ, khó nhận biết phụ thuộc vào mức độ thiếu máu, tuổi và tình trạng sinh lý của trẻ. Nghiên cứu của Deeksha Kapur cho thấy sự hiện diện và vắng mặt của từng triệu chứng phù hợp với nồng độ Hb (thiếu máu / không thiếu máu). Triệu chứng da xanh ở khoảng 2/3 trẻ em thiếu máu nhẹ (nồng độ hemoglobin < 11 g/dl) không được phát hiện [40]. Tuy nhiên, triệu chứng da xanh có giá trị nhất trong việc phát hiện thiếu máu nặng (<7 g/dl) ở trẻ em [71]. Kết mạc mắt nhợt có độ nhạy 28% và độ đặc hiệu 87% (có giá trị tiên đoán cao) trong việc phân biệt trẻ thiếu máu nhẹ (Hb <11,0 g / dl) và độ nhạy 49% và độ đặc hiệu 79% trong việc phân biệt thiếu máu nặng (Hb <7,0 g/dl) [40].
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang cho thấy các triệu chứng lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt lần lượt là da xanh, niêm mạc nhợt 92%, biếng ăn 70,9%, mệt mỏi 56%, nhịp tim nhanh 48,5% [12]. Trong nghiên cứu của Đinh Kim Điệp, các triệu chứng thiếu máu thiếu sắt da xanh, lòng bàn tay nhợt chiếm 95,3%, quấy khóc 87,2%, biếng ăn 70,9%, niêm mạc nhợt 58,9%, và các triệu chứng này gặp nhiều ở lứa tuổi 06 – 24 tháng [5].
Nếu thiếu máu nặng, kéo dài có thể có các ảnh hưởng đến huyết động như: mạch nhanh, huyết áp hạ, nghe tim có tiếng thổi tâm thu cơ năng [8].
<i><b>1.2.2. Triệu chứng cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt </b></i>
<i>1.2.2.1. Xét nghiệm xác định mức độ và tính chất thiếu máu thiếu sắt </i>
Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu khi chỉ số Hb thấp dưới -2SD so với quần thể cùng tuổi và giới [2], cụ thể là:
- Trẻ 2 tháng : < 90 g/l
- Trẻ từ 3 đến < 6 tháng: < 95 g/l - Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi: < 10,5 g/l - Trẻ em từ 2 đến 6 tuổi: < 115 g/l - Trẻ em từ 6 đến 12 tuổi: < 115 g/l - 12 – 18 tuổi: Nữ < 120 g /l Nam: < 130 g/l - 18 – 49 tuổi: Nữ: <120 g/l Nam: < 135 g/l
<i>* Tính chất thiếu máu </i>
Hồng cầu nhỏ, nhược sắc: MCV< 80 fl, MCH < 28pg, MCHC< 300 g/L với trẻ > 6 tháng tuổi. Trẻ dưới 6 tháng tuổi MCV <74 fl, MCH <25 pg. MCHC < 280 g/l [2].
<i>1.2.2.2. Xét nghiệm đánh giá mức độ thiếu máu thiếu sắt </i>
- Sắt huyết thanh: Sắt huyết thanh < 10 mmol/l [2]
- Ferritin huyết thanh: Là chỉ số đánh giá kho dự trữ sắt của cơ thể, nó
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">cung cấp một thơng tin có giá trị về tình trạng sắt dự trữ. Ferritin huyết thanh < 12 µg/l (trẻ < 5 tuổi), hoặc < 15 µg/l (Trẻ >= 5 tuổi)
+ Hướng dẫn của Hội tiêu hóa Mỹ về đánh giá thiếu máu thiếu sắt Ferritin < 45 µg/l [44].
Nghiên cứu của Pasqualino Monica M. cho thấy nồng độ Hb ở nhóm trẻ 06 - 11 tháng là 98 ± 14 g/l, nhóm trẻ 12 - 23 tháng: 100 ± 14 g/l, nhóm trẻ 24 - 36 tháng: 106 ± 11 g/l, nhóm trẻ 36 - 59 tháng: 106 ± 11 g/l [57]. Kết quả nghiên cứu phân tích tổng hợp của Habib Muhammad Atif thấy rằng, trong tổng số 7138 trẻ từ 6–59 tháng tuổi được đưa vào phân tích, có 2373 (33,2%) trẻ IDA dựa trên mức hemoglobin và ferritin thấp. Phân tích 4264 mẫu máu trẻ em cho thấy 62,3% bị thiếu máu (nồng độ hemoglobin <110 g/l), trong đó có 4,1% bị thiếu máu nặng (<70 g/l) và 58,3% thiếu máu vừa (70 g/l – 109 g/l); Thiếu Ferritin được xác định ở 47,1% trẻ em. Trong số những trẻ IDA, giá trị trung bình của nồng độ hemoglobin và ferritin lần lượt là 70 g/l và 6μg/l [36].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang các chỉ số RBC, Hb trung bình đều giảm lần lượt là 4,09±0,85 T/l và 75,6±10,86 g/l. Tỉ lệ bệnh nhân có nồng độ sắt huyết thanh giảm chiếm tỉ lệ cao, nồng độ sắt huyết thanh trung bình là 4,46±2,46 (µmol/L). Tỷ lệ trẻ có nồng độ Ferritin <15 µg/l là 73,9% [12].
Nghiên cứu của Đinh Kim Điệp cho thấy chỉ số Hb trung bình là 96,09± 10,83 g/l, chỉ số MCV trung bình là 70,15 ± 9,02 fl, MCH trung bình là 23,25 ± 3,43 pg, nồng độ sắt huyết thanh trung bình là 5,34 ± 3,8 µmol/l [5].
<b>1.3. Các nguyên nhân gây thiếu sắt [2] </b>
Nguyên nhân gây thiếu máu thiếu sắt thường liên quan đến chuyển hóa sắt. Có thể chia thành 4 loại nguyên nhân chính:
- Cung cấp sắt thiếu: Chế độ ăn thiếu sắt như thiếu sữa mẹ, ăn bột nhiều và quá sớm, thiếu thức ăn nguồn gốc động vật. Đẻ non, thiếu cân, sinh đôi, mẹ chảy máu trước đẻ cũng làm cho lượng sắt được cung cấp qua tuần hoàn
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">rau thai ít.
Nghiên cứu của Calvo [23] trên 40 đối tượng ( 25 trẻ bú sữa mẹ và 15 trẻ bú sữa cơng thức ) nhằm đánh giá tình trạng thiếu máu thiếu sắt của trẻ bú mẹ hoàn toàn và được theo dõi trong một thời gian từ lúc 0-9 tháng tuổi liên quan đến tốc độ tăng trưởng và thay đổi chế độ ăn của trẻ. Từ tháng thứ sáu trở đi, các bà mẹ được hướng dẫn sử dụng thực phẩm giàu sắt và axit ascorbic để bổ sung cho con bú. Vào tháng thứ chín, tỷ lệ thiếu máu là 27,8% ở nhóm trẻ bú mẹ và 7,1% ở nhóm trẻ bú sữa cơng thức. 27,8% trẻ bú mẹ khơng có sắt dự trữ, trong khi đó khơng có trẻ nào trong nhóm trẻ bú sữa cơng thức có tình trạng này. Những phát hiện này củng cố khuyến cáo rằng trẻ sơ sinh bú sữa mẹ nên được bổ sung sắt từ tháng thứ tư sau khi sinh
- Do hấp thu kém như giảm độ toan dạ dày, tiêu chảy kéo dài, hội chứng kém hấp thu, dị dạng dạ dày ruột.
- Mất sắt quá nhiều do chảy máu từ từ qua tiêu hóa như loét dạ dày – tá tràng, giun móc, polyp ruột, viêm túi thừa Meckel, chảy máu đường sinh dục hay chảy máu mũi mạn tính.
- Nhu cầu sắt cao ở các giai đoạn trẻ lớn nhanh như dậy thì, đẻ non, tuổi hành kinh mà sự cung cấp không tăng.
Nghiên cứu trên 509 trẻ sơ sinh từ 1-12 tháng tuổi tại Đài Loan để điều tra tỷ lệ thiếu sắt (ID) và thiếu máu do thiếu sắt (IDA), cũng như mối liên quan giữa loại thức ăn và tình trạng dinh dưỡng cho thấy 49 (10%) và 21 (4%) trẻ sơ sinh trong năm đầu đời lần lượt có thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt, dựa trên tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới. Trẻ bú sữa mẹ có tỷ lệ mắc thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt cao hơn so với trẻ bú sữa công thức và bú hỗn hợp (p <0,001). Nghiên cứu cũng thấy rằng tình trạng sắt, nồng độ huyết sắc tố huyết tương (Hb), ferritin và độ bão hòa transferrin (%) thấp hơn đáng kể ở các nhóm thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt. Tỷ lệ mắc thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt lần lượt là 3,7% và 2,7% ở trẻ dưới 6 tháng tuổi, nhưng tăng
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">lên 20,4% và 6,6% tương ứng ở trẻ trên 6 tháng tuổi. Nhóm trẻ khỏe mạnh có tổng lượng sắt hấp thụ cao hơn so với nhóm thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt, và chủ yếu có nguồn gốc từ sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh. Tổng lượng sắt trong chế độ ăn uống có tương quan thuận với mức Hb của trẻ sơ sinh. So với trẻ bú sữa công thức, hồi quy logistic cho thấy tỷ số chênh của thiếu sắt là 2,157 (95%CI: 1,369-3,399) và của thiếu máu thiếu sắt là 4,196 (95%CI: 1,780-9,887) ở trẻ bú mẹ (p<0,001) sau khi điều chỉnh tất cả các yếu tố gây nhiễu (bao gồm tuần thai, cân nặng khi sinh, giới tính, tỷ lệ phần trăm trọng lượng cơ thể, tỷ lệ phần trăm chiều dài cơ thể, tuổi của trẻ sơ sinh, chỉ số BMI của mẹ, mức tăng cân trong thai kỳ, trình độ học vấn và mức độ huyết sắc tố trước khi sinh) [24].
<b>1.4. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt </b>
Trên toàn cầu, hơn 50% trường hợp thiếu máu là do thiếu sắt [41]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 2019, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ 6-59 tháng tuổi là 39,8%, tương đương 269 triệu trẻ thiếu máu [76]. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi được đề cập đến là: tuổi thai, cân nặng khi sinh, thứ tự sinh, tình trạng dinh dưỡng, tẩy giun định kỳ, trình độ học vấn của mẹ, tình trạng việc làm, tuổi mẹ khi sinh, nơi cư trú…
<i><b>1.4.1. Trẻ sơ sinh non tháng, cân nặng thấp </b></i>
Trẻ sinh non, nhẹ cân cũng là một trong những yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt. Trẻ sinh non dễ bị thiếu máu do thiếu sắt (IDA) trong 4 tháng đầu đời do lượng sắt dự trữ khi sinh thấp hơn so với trẻ sinh đủ tháng, tăng trưởng nhanh và mất sắt. Hầu hết sắt của thai nhi được chuyển từ mẹ trong ba tháng cuối của thai kỳ. Quá trình chuyển giao này bị gián đoạn do sinh non, dẫn đến lượng sắt dự trữ khi sinh sẽ tỷ lệ thuận với cân nặng lúc sinh.
Akkermans và cộng sự cho thấy tình trạng thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ sinh non lúc 6 tuần lần lượt là 38,2% và 30,9% [16] .
Những trẻ sinh non và trẻ cân nặng lúc sinh thấp có nguy cơ thiếu máu
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">thiếu sắt cao gấp 2,2 lần và 2,3 lần so với trẻ được sinh đủ tháng và có cân nặng lớn hơn hoặc bằng 2500 gram. Nghiên cứu của Kanchana (2018) thấy trẻ sinh thấp cân góp phần rất lớn vào nguy cơ thiếu máu nặng ở bất cứ lứa tuổi nào của trẻ dưới 5 tuổi [39].
Nghiên cứu của Berglund và cộng sự chỉ ra rằng trẻ sơ sinh nhẹ cân khỏe mạnh, bất kể sinh non hay đủ tháng, có nguy cơ phát triển thiếu sắt (36%) và thiếu máu thiếu sắt (9,9%) lúc 6 tháng [22]. Phát hiện này phù hợp với nghiên cứu do Lieke Uijterschout thực hiện và thấy rằng thiếu sắt gặp ở nhóm trẻ sơ sinh non tháng lúc 4 tháng và 6 tháng lần lượ là 18,9% và 4,9%; thiếu máu thiếu sắt gặp 7,7% ở nhóm trẻ sinh non lúc 4 tháng tuổi và 1,4% lúc trẻ 6 tháng tuổi [66]. Nghiên cứu của Akkermans và cộng sự cũng cho thấy tình trạng thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ sinh non lúc 6 tuần tuổi lần lượt là 38,2% và 30,9% [16]. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trẻ sinh non có trọng lượng sơ sinh < 1830 gram và nồng độ sắt huyết thanh <155 μg/l trong tuần đầu tiên có nguy cơ thiếu sắt cao hơn 26,4 lần so với trẻ có cân nặng sơ sinh bình thường. Nghiên cứu của Renato Takeshi Yamada cũng chỉ ra rằng tỷ lệ thiếu máu gặp 66,67% ở trẻ sơ sinh non tháng lúc 01 tháng tuổi và gặp 41,18% ở trẻ sơ sinh đủ tháng cũng sau 1 tháng tuổi (p=0,02). Nồng độ sắt ở trẻ sinh non tháng thấp hơn khi đủ tháng (p=0,0034) và sau khi đủ tháng một tháng (p<0,001) [77].
<i><b>1.4.2. Số thứ tự con trong gia đình </b></i>
Gia đình đơng con dẫn đến việc chăm sóc trẻ khơng được đầy đủ. Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ là con thứ 2 trở lên có tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt cao hơn.
Moschovis và cộng sự phát hiện ra rằng sinh ít con có hại gấp 3 lần trong việc phát triển bệnh thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi so với sinh nhiều con [51]. Trong khi nghiên cứu của Ngnie-Teta tại Đức kết luận rằng trẻ là con thứ 2 có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt cao gấp hai lần so với trẻ là con thứ nhất (OR = 2,05, 95%CI =1,02–3,97) [54]. Nghiên cứu của Muchie và cộng sự cho
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">thấy tỷ lệ mắc bệnh thiếu máu cao hơn đối với trẻ em từ các hộ gia đình có hai con (OR=1,17; 95% CI= 1,05-1,30; p = 0,005) và ba con trở lên (OR=1,30; 95%CI= 1,13–1,49; p <0,0005) [52].
<i><b>1.4.3. Tình trạng dinh dưỡng </b></i>
Trẻ hiện tại bị suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố có liên quan khá rõ đến tình trạng thiếu máu, tỷ suất rủi ro bị thiếu máu cao gấp hơn hai lần so với trẻ bình thường. Sự thiếu hụt dinh dưỡng có thể khơng liên quan trực tiếp đến thiếu máu. Tuy nhiên, nó dẫn đến những thay đổi nhất định trong cơ thể khiến cơ thể dễ mắc phải những nguy hiểm cho sức khỏe có thể gây ra bệnh thiếu máu. Một giả thuyết cho rằng trẻ em và phụ nữ bị thiếu dinh dưỡng có nhiều khả năng có hệ thống miễn dịch kém hơn, khiến họ dễ mắc nhiều bệnh tật và nguy hiểm cho sức khỏe như nhiễm ký sinh trùng hoặc các bệnh viêm mãn tính [35], [43]. Nghiên cứu của Moschovis cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng cao hơn 1,82 lần so với trẻ được nuôi dưỡng tốt [51]. Một nghiên cứu tổng hợp của Rahman và cộng sự thấy rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa thấp còi và thiếu máu ở trẻ em, trẻ thấp còi có nhiều khả năng bị thiếu máu hơn so với trẻ bình thường (OR=1,76, 95%CI=1,10–2,83) [61]. Nghiên cứu của Đinh Kim Điệp cho thấy mối liên hệ giữa thiếu máu và suy dinh dưỡng (OR = 4,36; 95%CI=1,7-12,4) [5].
<i><b>1.4.4. Tẩy giun định kỳ </b></i>
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột do giun sán góp phần đáng kể vào việc thiếu sắt do gây mất máu mạn tính ở ruột. Trên toàn thế giới, hơn 1,5 tỷ người (24% dân số) bị nhiễm giun, và hơn 80% các trường hợp nhiễm trùng này xảy ra ở các nước có thu nhập thấp [55], [75].
Nghiên cứu của Moschovis và cộng sự cho thấy điều trị nhiễm giun đường ruột định kỳ là một yếu tố quan trọng trong điều trị thiếu máu (OR= 1,06, 95%CI=1,02–1,11) [51]. Tuy nhiên, điều này lại khơng có ý nghĩa trong nghiên cứu của Jones và cộng sự. (OR = 0,98, KTC 95% = 0,76–1,3) [38].
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Nghiên cứu của Phạm Thị Thu Cúc cho thấy mối liên quan giữa thiếu máu thiếu sắt và tẩy giun định kỳ [4] .
<i><b>1.4.5. Tuổi mẹ khi sinh </b></i>
Tuổi sinh con của bà mẹ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi là một vấn đề ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Tuổi của bà mẹ có liên quan đến việc hồn thiện hay suy giảm chức năng của cơ quan sinh sản. Các bà mẹ quá trẻ (<20 tuổi) cơ thể chưa hoàn thiện, thai nghén là một gánh nặng cho cơ thể cộng với sự thiếu kiến thức về thai nghén, dinh dưỡng, nuôi con. Các bà mẹ tuổi cao (> 35 tuổi) mang nhiều nguy cơ sinh con bất thường về cấu trúc và số lượng nhiễm sắc thể, khi mà các chức năng sinh sản đã giảm sút [21].
Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ dưới 5 tuổi liên qua đến tuổi của mẹ. Nghiên cứu của Parbey, trẻ em có mẹ < 20 tuổi hoặc từ 30 đến 39 tuổi có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu cao hơn lần lượt là 4,69 và 2,55 lần so với trẻ từ các bà mẹ 40 tuổi trở lên [56]. Simion IN cho biết có sự gia tăng đáng kể tỷ lệ thiếu máu sơ sinh ở các bà mẹ trong nhóm tuổi nguy cơ < 18 tuổi (2,97%) và > 35 tuổi (12,29%) [62]. Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy 21% trẻ sơ sinh thiếu máu được sinh ra từ những bà mẹ mang thai ở độ tuổi 18 [48].
<i><b>1.4.6. Trình độ học vấn, nghề nghiệp của bà mẹ </b></i>
Trình độ học vấn và tình trạng thiếu máu thường xuyên được báo cáo trong các nghiên cứu. Nambiema và cộng sự thấy rằng những đứa trẻ mẹ có trình độ học vấn trung học trở lên có tỷ lệ mắc bệnh thiếu máu thấp hơn so với đứa trẻ mẹ khơng có trình độ học vấn (OR=0,67, 95%CI = 0,52–0,86) [53].
Nghiên cứu của Gebreweld và cộng sự chỉ ra rằng những đứa trẻ có mẹ mù chữ hoặc học tiểu học có nguy cơ bị thiếu máu cao hơn là 7 lần (AOR = 7,05; 95%CI= 2,93–17,01) và 3,3 lần (AOR = 3,26; 95%CI= 1,29–8,24) so với trẻ có mẹ có trình độ trung học cơ sở trở lên [33].
Nghiên cứu của Parbey cho thấy, trẻ em có mẹ là nơng dân và bn bán có nguy cơ bị thiếu máu thấp hơn lần lượt 83% và 79% so với trẻ có mẹ
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">khơng có việc làm và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (AOR=0,17, 95%CI=0,05-0,60; p = 0,006), (AOR = 0,21, 95%CI= 0,06-0,74; p = 0,014) [56]. Nghiên cứu của Muchie và cộng sự cho thấy tỷ lệ mắc bệnh thiếu máu cao hơn ở trẻ em từ các bà mẹ khơng có việc làm (OR= 1,13; 95%CI= 1,02–1,25; p= 0,051) [36].
<i><b>1.4.7. Mẹ bổ sung sắt khi mang thai </b></i>
Mang thai gây ra nguy cơ lớn về cân bằng lượng sắt huyết thanh ở phụ nữ [30]. Bào thai cần một lượng lớn sắt để tăng trưởng và phát triển trong thời kỳ mang thai. Một gam sắt cần được người mẹ bổ sung trong thời kỳ mang thai trong đó 360 mg được chuyển từ mẹ sang thai nhi, đặc biệt là trong ba tháng đầu khi tốc độ tăng trưởng nhanh nhất để duy trì hàm lượng 75 mg sắt mỗi kg trọng lượng cơ thể của thai nhi [30], [79]. Người phụ nữ mang thai mở rộng thể tích huyết tương và máu của mình để duy trì sự lưu thơng và phân phối oxy thích hợp đến các cơ quan của chính mình cũng như đến nhau thai. Sự mở rộng thể tích máu tiêu thụ 450 mg trên 1g sắt bổ sung cần thiết trong thời kỳ mang thai [30]. Nồng độ hepcidin giảm trong thời kỳ mang thai cho thấy thai phụ cần hấp thụ nhiều sắt hơn để tổng hợp hemoglobin của chính mình cũng như để vận chuyển qua nhau thai đến thai nhi đang phát triển và trao đổi chất cao [18], [68]. Thiếu sắt thường được thừa nhận là nguy cơ lớn hơn thừa sắt trong thời kỳ mang thai của con người [30]. Các mục tiêu của việc duy trì đủ chất sắt trong thời kỳ mang thai là giảm tỷ lệ mắc bệnh ở mẹ, tăng cường sức khỏe của thai nhi và tạo cho trẻ sơ sinh nguồn dự trữ chất dinh dưỡng đầy đủ cho giai đoạn đầu sau sinh.
Thiếu sắt khi mang thai làm tăng nguy cơ thiếu sắt ở giai đoạn sơ sinh. Một nghiên cứu của Kumar cho thấy sắt trong mẫu máu cuống rốn tương quan với nồng độ hemoglobin và ferritin của mẹ [46]. Hàm lượng sắt trong sữa mẹ bị giảm ở những bà mẹ bị thiếu máu. Khuyến cáo bổ sung sắt trong thời kỳ mang thai ở các nhóm dân số có tỷ lệ mắc bệnh thiếu máu thiếu sắt ở
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">bà mẹ cao. Điều quan trọng nữa là cung cấp các loại thực phẩm tăng cường chất sắt khác nhau cho phụ nữ mang thai có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu thiếu sắt [60].
<i><b>1.4.8. Yếu tố địa dư </b></i>
Có rất nhiều nghiên cứu về mối liên quan giữa thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi và yếu tố địa dư. Trẻ sống ở miền nông thôn, miền núi... do điều kiện kinh tế khó khăn nên các bữa ăn khơng đảm bảo về số lượng và chất lượng, cha mẹ trẻ khơng có kiến thức thực hành chăm sóc trẻ, trẻ không được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt. Nghiên cứu của Nambiema và cộng sự cho thấy trẻ em ở khu vực nơng thơn có nhiều khả năng bị thiếu máu hơn ở khu vực thành thị (OR = 0,66, 95%CI = 0,53–0,82) [53]. Nghiên cứu của Dwumoh và cộng sự cũng cho kết quả tương tự có mối liên quan giữa khu vực sống của trẻ và bệnh thiếu máu thiếu sắt (OR = 0,53, 95%CI= 0,46–0,65) [27]. Nguyễn Văn Nhiên (2008) cho thấy tỷ lệ trẻ em ở miền núi phía Bắc thiếu sắt là 55,6% [67].
<i><b>1.4.9. Trẻ khơng được bú mẹ hồn tồn, ăn bổ sung sớm trước 6 tháng tuổi </b></i>
Nuôi con bằng sữa mẹ tối ưu, rất quan trọng đến mức có thể cứu sống hơn 820.000 trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm [74].
WHO và UNICEF khuyến nghị cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời và cho trẻ ăn thức ăn bổ sung (dạng rắn) đầy đủ dinh dưỡng và an toàn khi trẻ được 6 tháng cùng với việc tiếp tục cho trẻ bú mẹ đến 2 tuổi trở lên [74].
Tuy nhiên, nhiều trẻ sơ sinh và trẻ em không được nuôi dưỡng tối ưu. Ví dụ, chỉ có khoảng 44% trẻ sơ sinh từ 0 - 6 tháng tuổi trên toàn thế giới được bú mẹ hoàn toàn trong giai đoạn 2015-2020 [74].
Nghiên cứu của Gebreweld A. cho thấy trẻ được cho ăn bổ sung sớm dưới 6 tháng dễ bị thiếu máu gấp 3,5 lần (AOR = 3,53; 95%CI=1,23–10,18) so với trẻ được bắt đầu ăn bổ sung lúc > 6 tháng tuổi [33].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang [12], Đinh Kim Điệp [5] đều cho thấy
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, ăn bổ sung sớm là yếu tố nguy cơ dẫn đến thiếu máu thiếu sắt.
Như vậy, thiếu máu thiếu sắt là nguyên nhân thường gặp nhất của thiếu máu trên thế giới và cả ở Việt Nam, đối tượng gặp chủ yếu là trẻ em. Thiếu máu thường nhẹ, nhưng cũng có thể trở thành trung bình hoặc nặng. Điều quan trọng là phát hiện các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán nguyên nhân, yếu tố nguy cơ gây thiếu máu thiếu sắt để có thể phân lập và điều trị sớm, nhằm hạn chế tỷ lệ biến chứng bệnh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><b> hương 2 </b>
<b> Ố TƯỢN V P ƯƠN P P N N ỨU </b>
<b>2.1. ối tượng nghiên cứu </b>
- Trẻ từ 02 tháng đến 60 tháng đến khám và điều trị tại Bệnh viện A Thái Nguyên được chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt.
- Bố, mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ.
<i><b>* Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt [2] </b></i>
- Lâm sàng: Da xanh, niêm mạc nhợt... - Xét nghiệm:
<i> Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu: </i>
- 2 tháng: < 90 g/l
- Trẻ từ 3 đến < 6 tháng: < 95g/l - Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi: < 10,5g/l - Trẻ em từ 2 đến 6 tuổi: < 115 g/l - Trẻ em từ 6 đến 12 tuổi: < 115 g/l - Trẻ 12 – 18 tuổi: Nữ < 120 g /l Nam: < 130 g/l - Từ 18 – 49 tuổi: Nữ: <120 g/l Nam: < 135 g/l
<i>Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu sắt:[2], [44] </i>
- Sắt huyết thanh < 10 mmol/l
- Ferritin < 45 µg/l (Hướng dẫn của Hội tiêu hóa Mỹ về đánh giá thiếu máu thiếu sắt) [44].
<i><b>* Tiêu chuẩn loại trừ </b></i>
- Trẻ được truyền máu hay dùng các chế phẩm sắt, thuốc bổ sung đa vi chất trong đó có thành phần acid folic, B12, vitamin C, kẽm, trong vòng 2 tháng trước khi tiến hành nghiên cứu .
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">- Trẻ mắc các bệnh về máu: Thalasemia, Bạch cầu cấp, mạn.
- Cha mẹ trẻ không biết rõ thông tin về trẻ, không trả lời được câu hỏi liên quan đến trẻ hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu.
<b>2.2. Thời gian nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu </b>
- Thời gian nghiên cứu: Từ 01/2022 đến 10/2022
<b>- Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện A Thái Nguyên 2.3. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang </b>
<i><b>2.3.1. Cỡ mẫu nghiên cứu: </b></i>
Áp dụng cơng thức tính cỡ mẫu từ một tỷ lệ cho trước [7]
<b>n = Z<sup>2</sup><small>(1 - α/2)</small></b>
<small> </small>
Trong đó:
n là cỡ mẫu nghiên cứu; Z<small>1-α/2</small>: hệ số giới hạn tin cậy = 1,96; α: Là mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05 (tương ứng với KTC 95%);
p: Tỷ lệ triệu chứng da xanh niêm mạc nhợt 92% [12] d: Độ chính xác mong muốn, chọn d = 0,05;
Theo công thức, thay số vào ta có n = 113
Vậy cỡ mẫu tối thiểu cần có là 113 trẻ.
<i><b>2.3.2. Phương pháp chọn mẫu </b></i>
- Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện
- Bệnh nhân đến khám, nhập viện đủ tiêu chuẩn lựa chọn sẽ được chọn vào nghiên cứu cho đến khi đủ cỡ mẫu.
<b>2.4. Các chỉ số, biến số trong nghiên cứu </b>
<i><b>2.4.1. Các chỉ số nghiên cứu </b></i>
<i><b>* Chỉ số nghiên cứu phục vụ mục tiêu 1 </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">- Tỷ lệ và đặc điểm các dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt ở các nhóm tuổi, giới.
- Tỷ lệ và đặc điểm các dấu hiệu cận lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt ở các nhóm tuổi.
- Tỷ lệ các mức độ thiếu máu.
<i><b>* Chỉ số nghiên cứu phục vụ mục tiêu 2 </b></i>
- Các yếu tố liên quan thiếu máu thiếu sắt về phía con: Tuổi thai, cân nặng khi sinh, tẩy giun định kỳ, uống bổ sung sắt, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, ăn bổ sung sớm.
- Các yếu tố liên quan từ mẹ: Tuổi mẹ khi sinh, nghề nghiệp, uống sắt khi mang thai, trình độ học vấn.
<i><b>2.4.2. Các biến số và định nghĩa biến số trong nghiên cứu </b></i>
- Tuổi: Sử dụng cách tính tuổi của HO đang được áp dụng tại Việt Nam. Tuổi trẻ em được xác định từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong sổ theo dõi sơ sinh của trạm y tế xã phường, những trẻ em không được đẻ tại trạm y tế xã thì cán bộ nghiên cứu phỏng vấn kỹ các bà mẹ về ngày sinh của con mình và ghi rõ ngày âm hay ngày dương lịch sau đó tra bảng qui về ngày dương lịch. Trường hợp mẹ nhớ khơng chính xác thì dựa vào ngày tháng ghi trong giấy khai sinh. Căn cứ ngày, tháng, năm sinh và ngày điều tra để tính tháng tuổi của trẻ.
Theo HO tháng tuổi của trẻ đưược qui ước như sau: + Trẻ đẻ ra sống 1 ngày đến 29 ngày: 1 tháng tuổi.
+ Trẻ 1 tháng 1 ngày đến trẻ 1 tháng 29 ngày: 2 tháng tuổi. ... + Trẻ từ 59 tháng 1 ngày đến 59 tháng 29 ngày: 60 tháng tuổi giới (nam, nữ),
- Giới tính: Nam, nữ
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">- Địa dư: Theo địa chỉ nơi cư trú
+ Thành thị: hộ khẩu thường trú tại các phường trong khu vực thành phố. + Nông thôn: Trẻ có hộ khẩu thường trú tại các làng, xã.
- Tiêm phòng: Trẻ được tiêm phòng đầy đủ theo chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia.
- Tẩy giun định kỳ: Trẻ được tẩy giun định kỳ 6 - 12tháng/ lần. Bắt đầu tẩy giun khi trẻ được 24 tháng tuổi [3].
+ Cân nặng theo chiều cao (CN/CC): Cân nặng theo chiều cao thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng ở thời kỳ hiện tại, gần đây, làm cho đứa trẻ ngừng lên cân hoặc tụt cân nên bị gày còm (wasting). Các điểm ngưỡng giống như hai chỉ tiêu trên. Khi cả hai chỉ tiêu chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao đều thấp hơn ngưỡng đề nghị, đó là thiếu dinh dưỡng thể phối hợp, đứa trẻ vừa còi vừa còm [72].
- Đặc điểm lâm sàng:
+ Da xanh/ niêm mạc nhợt: Dấu hiệu da xanh, niêm mạc nhợt được đánh giá ở những nơi mà giường mao mạch có thể nhìn rõ qua da và niêm mạc như kết mạc, lịng bàn tay, giường móng tay, da vùng mặt….
+ Quấy khóc: Là tình trạng quấy khóc thường xuyên và kéo dài mà không rõ lý do.
+ Biếng ăn: Là tình trạng trẻ giảm hoặc mất cảm giác thèm ăn nên không thu nạp đủ lượng thức ăn theo nhu cầu cơ thể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">+ Móng tay: Ở bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu mạn mức độ nặng thường có biểu hiện móng koilonychia: móng mất bóng, có sọc dọc, phẳng hoặc lõm hình thìa, giịn và dễ gãy [10].
+ Tóc khơ, dễ gãy rụng: Khám rụng tóc bằng 2 nghiệm pháp kéo (pull test), giật tóc (tug test) và nhìn tóc rụng trên gối, trên giường bệnh nhân. Tóc rụng bệnh lý khi rụng hơn 100 sợi tóc mỗi ngày.
Nghiệm pháp kéo tóc dùng để kiểm tra xem tóc rụng cả phần chân tóc hay cịn chân tóc, được thực hiện bằng cách sử dụng 3 ngón cái, trỏ, giữa nắm và kéo nhẹ nhàng từng nhúm khoảng 50-60 sợi tóc.
Nghiệm pháp giật tóc dùng để kiểm tra tính giịn, dễ gãy của tóc bằng cách nắm tóc bằng hai ngón tay và giật mạnh đoạn tóc ở giữa [10].
- Đặc điểm cận lâm sàng
+ Tham chiếu các xét nghiệm huyết học theo lứa luổi (phụ lục 2) [3] + Sắt huyết thanh [2]: Bình thường: ≥ 10 mmol/l; Thấp < 10 mmol/l + Ferritin [44]: Bình thường: ≥ 45 µ/l; Thấp: < 45 µg/l
- Mức độ thiếu máu: Theo hướng dẫn của HO năm 2011
<i><b>2.4.3. Biến số chỉ số cho mục tiêu 2 </b></i>
<i>* Nhóm biến số về yếu tố nguy cơ thiếu máu, thiếu sắt từ con: </i>
- Tuổi thai: Được tính theo số tuần mang thai.
- Cân nặng khi sinh: Cân nặng khi sinh thấp < 2500 gram, cân nặng khi
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">sinh bình thường ≥ 2500 gram
- Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu: Trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, không ăn bổ sung bất cứ 1 loại thức ăn nào khác.
- Ăn bổ sung sớm: Trẻ ăn bổ sung trước 6 tháng.
- Uống bổ sung sắt: Trẻ được mẹ cho uống bổ sung sắt hoặc các chế phẩm có chứa sắt.
<i>* Nhóm biến số về yếu tố nguy cơ từ mẹ: </i>
- Tuổi mẹ: Trong độ tuổi sinh đẻ từ ≥20 – 35 tuổi. Ngoài độ tuổi sinh đẻ < 20 tuồi và > 35 tuổi.
- Trình độ học vấn: Học từ phổ thông trung học trở xuống ≤ lớp 12 Học trên phổ thông trung học > lớp 12
- Nghề nghiệp: Nghề đem lại thu nhập chính gồm nghề làm ruộng, cơng nhân, hành chính sự nghiệp và nghề tự do.
- Uống sắt khi mang thai:
+ Uống sắt đầy đủ: Mẹ uống sắt liên tục từ lúc mang thai đến lúc sinh. + Uống sắt không đầy đủ: Không uống sắt hoặc uống nhưng hay quên, bỏ khơng uống vì những lý do khác nhau.
<b>2.5. Phương pháp thu thập số liệu </b>
Để đảm bảo tính chính xác của đề tài, các bệnh nhân nằm trong tiêu chuẩn chọn mẫu khi nhập viện đều được hỏi (phỏng vấn), khám lâm sàng bởi nghiên cứu viên và các bác sỹ khoa Nhi Bệnh viện A. Thông tin thu được ghi đầy đủ vào phiếu nghiên cứu in sẵn.
- Đối với trẻ bệnh: Khai thác tiền sử, bệnh sử, kết hợp với thăm khám lâm sàng, chẩn đoán phân loại bệnh.
- Đối với bà mẹ: Tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn uống bổ sung sắt khi mang thai.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">* Nhân trắc: Các thông tin về nhân trắc học được thu thập bằng cách tính tuổi của trẻ, cân, đo trẻ và ghi vào phiếu điều tra nhân trắc tại thời điểm nghiên cứu.
- Xác định cân nặng: Cân trẻ bằng cân điện tử SECA với độ chính xác 10 gram. Cân được kiểm tra và chỉnh trước khi sử dụng. Trẻ được cởi bỏ hết quần áo, tã bỉm và được ngồi hoặc nằm đúng trọng tâm của cân. Ngay khi cân ổn định, đọc và ghi kết quả với đơn vị là gram, ví dụ cân nặng 9520 gram.
- Xác định chiều cao: Sử dụng thước gỗ UNICEF với độ chính xác 0,1 cm để đo chiều dài nằm cho trẻ < 25 tháng tuổi và chiều cao đứng cho trẻ >=25 tháng tuổi.
- Kỹ thuật đo chiều dài nằm: Thước được đặt trên mặt phẳng nằm ngang, ổn định, bằng phẳng (trên mặt bàn hoặc dưới sàn) … Trẻ bỏ giày dép, mũ..., và nằm ngửa trên thước, đầu được cố định thẳng, đỉnh đầu chạm vào êke gỗ cố định ở vị trí 0 cm. Trục của thân trùng với trục cơ thể. Cần hai người, một người đo chính và một người trợ giúp. Một người giữ đầu trẻ sao cho mắt trẻ hướng thẳng lên trần nhà, đỉnh đầu trẻ chạm vào đầu thước chỉ số 0. Người thứ 2 giữ thẳng 2 đầu gối của trẻ thẳng sao cho 2 gót chân chạm nhau (chắc chắn tồn thân trẻ đảm bảo 5 điểm chạm lên bề mặt thước: chẩm, xương bả vai, mơng, bắp chân và gót chân), tay kia đẩy đầu chặn của thước di động áp sát vào 2 bàn chân thẳng đứng, vng góc với mặt thước nhìn vào thước và đọc kết quả. Kết quả được ghi với đơn vị là cm và 1 số lẻ sau dấu phẩy, ví dụ: chiều cao 75,3cm.
- Kỹ thuật đo chiều cao đứng: Thước được đặt theo chiều thẳng đứng, vng góc với mặt đất nằm ngang. Trẻ bỏ giày dép, đi chân khơng, đứng quay lưng vào thước đo. Gót chân, mơng, vai, đầu theo một đường thẳng áp sát vào thước đo đứng, mắt nhìn thẳng theo một đường thẳng nằm ngang, hai tay bỏ thẳng. Kéo cái chặn đầu của thước từ trên xuống dưới, khi áp sát đến đỉnh đầu và vng góc với thước đo, nhìn vào thước và đọc kết quả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">- Bệnh phẩm được thu thập bằng cách lấy máu xét nghiệm và ghi vào mẫu phiếu xét nghiệm sinh hoá và huyết học riêng cho từng trẻ. Tất cả có 1 lần lấy máu vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu, mỗi lần 3ml máu tĩnh mạch. Các xét nghiệm được thực hiện tại khoa Huyết học và Sinh hóa Bệnh viện A Thái Nguyên.
- Kết quả cận lâm sàng được ghi vào phiếu nghiên cứu in sẵn.
<b>2.6. Xử lý và phân tích số liệu </b>
Số liệu được nhập và phân tích bằng phần mềm Statistical Package for Social Sciences (SPSS 20). Số liệu về nhân trắc học được xử lý bằng phần mềm Anthro của WHO 2006. Trước khi sử dụng phép các phép thống kê, số liệu (các biến số) được kiểm định về phân bố chuẩn.
<b>2.7. Các biện pháp khống chế sai số </b>
Các số liệu nhân trắc: do chính tác giả thực hiện cân, đo từ đầu đến cuối nghiên cứu, bằng một loại cân và thước đo duy nhất, cùng thời điểm buổi sáng (7-10h). Sử dụng các công cụ chuẩn (cân, thước) và sử dụng kỹ thuật chính xác, thực hiện đúng theo thường qui và thống nhất phương pháp điều tra trong tất cả các lần điều tra để tránh sai số do người đo và dụng cụ.
Các xét nghiệm sinh hoá và huyết học tuân thủ đúng qui trình lấy mẫu, bảo quản theo quy định.
Số liệu của các lần điều tra sẽ được nhập vào máy tính ngay với đầy đủ tên tuổi, mã số, tình trạng dinh dưỡng, bệnh tật, các thơng tin khác, chỉ số sinh hóa và huyết học v.v. Việc nhập hàng ngày sẽ giúp cho giảm sai số đến mức tối đa. Số liệu được làm sạch trước khi nhập máy tính.
<b>2.8. ạo đức nghiên cứu </b>
Tất cả các đối tượng đều được giải thích về mục đích của nghiên cứu và lợi ích của người tham gia. Mẹ của đối tượng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu phải tự nguyện đồng ý và ký giấy cam kết tuân thủ các điều kiện trước khi tiến
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">hành điều tra. Đối tượng có thể từ chối tham gia nghiên cứu vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tất cả các dụng cụ để cân, đo được đảm bảo tuyệt đối an tồn khơng gây tổn thương hay nguy hiểm cho trẻ. Phòng cân và đo cho trẻ là phịng kín đảm bảo mát về mùa hè và ấm về mùa đông.
Nghiên cứu nhằm nâng cao và bảo vệ sức khỏe, không nhằm mục đích nào khác. Dựa trên kết quả điều tra, trẻ sẽ được hướng dẫn về dinh dưỡng hợp lý.
Các số liệu bệnh tật, hồ sơ của đối tượng được bảo quản kỹ, chỉ chủ nhiệm đề tài và nhóm nghiên cứu được biết và sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
Kết quả của nghiên cứu được dùng làm cơ sở khoa học để đưa ra các khuyến nghị cho cộng đồng các giải pháp điều trị và phục hồi tình trạng thiếu máu do thiếu dinh dưỡng.
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Y đức Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên.
</div>