Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tác phẩm kí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.07 KB, 32 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TÁC PHẨM KÍ</b>

<b>MỞ ĐẦU</b>

<i>Việc dạy – học các tác phẩm Kí trong nhà trường đã, đang gặpkhơng ít trở ngại và thắc mắc. Cảm thụ một tác phẩm văn xuôi giàu chấttrữ tình, chắc chắn học sinh gặp lúng túng. Còn các cơ sở để tìm hiểutác phẩm trữ tình (nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, mạch cảm xúc chủquan; phương thức và giọng điệu trữ tình,…) lại có độ “vênh” khi ápdụng vào tác phẩm kí. Nhận thức rõ điều đó, những sinh viên chuyênngành Sư phạm Ngữ văn như chúng ta không thể nào bỏ qua vấn đề này.Trong bài thuyết trình, nhóm chúng tôi sẽ trình bày một cách khái quátvề tác phẩm kí.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>NỘI DUNG1. SƠ LƯỢC VỀ TÁC PHẨM KÍ</b>

Thể kí tưởng là đơn giản nhưng lại là một thể loại tốn nhiều giấybút tranh luận mà đến nay vẫn khơng thể ngã ngũ hồn tồn. Dù khókhăn, truyện ngắn hay tiểu thuyết vẫn có thể đưa ra khá nhiều địnhnghĩa, khuôn khổ về thể loại nhưng đối với thể kí thì gặp khơng ít sự dè

<i>dặt của các nhà văn, các nhà lí luận. Nhà văn Tơ Hồi từng viết: “Kí,</i>

<i>cũng như truyện ngắn, truyện dài hoặc thơ, hình thù nó đấy, nhưng vócdáng nó luôn luôn đổi mới, đòi hỏi sáng tạo và thích ứng. Cho nên càngchẳng nên trói nó vào một cái khn”. Maksim Gorky cũng cho rằng:“Sự lí giải về khái niệm kí là chưa có hoặc khơng đầy đủ, hoặc khơngđúng”.</i>

Hiểu một cách đơn giản thì kí là một thể loại văn học dùng để ghilại sự việc, cảm xúc, ý nghĩ.

Kí cũng có thể hiểu theo một cách khác : Kí là một thể loại cơđộng, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thế trựctiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Tác phẩm kí vừa cónhững khả năng đáp ứng được những yêu cầu cần thiết của thời đại đồngthời cũng giữ được tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ thuật.

Kí ra đời rất sớm trong lịch sử văn học của nhân loại. Nhưng phảiđến thế kỉ XVII, đặc biệt từ thế kỉ XIX, khi đời sống lịch sử của các dântộc ngày càng phát triển theo hướng tăng tốc, khi kĩ nghệ in ấn và báo

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếpvào những cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển mạnh mẽ.

Khơng nên xem những tác phẩm kí là kết quả của sự xâm nhập báochí vào văn học. Trước khi có hoạt động báo chí, trong lịch sử văn học từ

<i>nghìn xưa đã có những tác phẩm kí, như Sử kí của Tư Mã Thiên cách</i>

đây mấy nghìn năm vừa là tác phẩm sử học vừa có thể coi là kí. Tuy vậy,khơng thể khơng thừa nhận báo chí có nhiều tác động đến văn học, tínhchất chính luận thời sự và chiến đấu của báo chí cũng đã thâm nhập vàovăn học nhất là đối với loại thể kí của nó.

Các nhà nghiên cứu cũng đã nghiên cứu về sự phức tạp của kí là dokí có sự giao thoa, thâm nhập với nhiều thể loại văn học khác. Giữa kí vàbáo chí có mối liên hệ đặc biệt, thường xuyên có tác động qua lại lẫnnhau. Lê Bá Hán xếp kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữabáo chí và văn học.

<i>Gulaiep cho rằng: “ Kí là một biến thể của loại tự sự.”</i>

<i>Phương Lựu xác định: “Kí là một loại văn xuôi tự sự, trần thuật</i>

<i>những người thật, việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độvà tính chất hư cấu trong vai trò của người trần thuật cùng mối liên hệgiữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện”.</i>

Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và vănhọc, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí,phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút,… không nên căn cứ vào cách gọi tên

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i>sương kí của Vương Thực Phủ thực ra là vở kịch, Tây du kí của Ngơ</i>

<i>Thừa Ân là tiểu thuyết, Nhật kí người điên của Lỗ Tấn lại là truyện ngắn.</i>

Kí có đặc trưng riêng do nội dung và quan điểm thể loại của kí quy định.Kí là một loại hình văn học khơng thuần nhất. Đó là lĩnh vực vănhọc bao gồm nhiều thể loại, chủ yếu là văn xuôi ghi chép, miêu tả vàbiểu hiện những sự việc, con người có thật trong cuộc sống. Ở thể loạinày, người ta đặc biệt quan tâm đến các sự kiện, hoàn cảnh lịch sử,những biểu hiện của đời sống có thực ngồi đời và đồng thời muốn bộclộ trực tiếp cá tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm xã hội của tác giả.

Kí là một loại hình nghệ thuật, một hình thức hoạt động thực tiễn tinh thần có tham vọng can dự trực tiếp vào mọi lĩnh vực của đời sống.

-Ở Việt Nam, những tác phẩm kí nổi tiếng cũng đã xuất hiện từ sớm

<i>như Thượng kinh kí sự, Vũ trung tùy bút. Những năm 1930-1945 chứng</i>

kiến sự phát triển mạnh của các tác phẩm phóng sự viết về các tệ nạn xã

<i>hội, mà Ngô Tất Tố (với Việc làng, Tập án cái đình), Nguyễn Đình Lạpvới Ngõ hẻm ngoại ơ, Tam Lang với Tôi kéo xe, Vũ Trọng Phụng với Vỡ</i>

<i>đê v.v. là những nhà văn tiêu biểu. Trong văn học cách mạng, loại thể kí</i>

bắt đầu từ sáng tác của Nguyễn Ái Quốc những năm 20 của thế kỷ 20.Sau Cách mạng Tháng Tám đến nay có nhiều tác phẩm kí có giá trị nhất

<i>định như Truyện và kí sự của Trần Đăng, Ở rừng của Nam Cao, Ký sự</i>

<i>Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Vỡ tỉnh của Tơ Hồi, Sống như anh</i>

<i>của Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Những ngày</i>

<i>nổi giận của Chế Lan Viên, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải,</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>Đường lớn của Bùi Hiển, Miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân,Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v.</i>

<b>2. PHÂN BIỆT KÍ BÁO CHÍ VỚI KÍ VĂN HỌC</b>

Trong sáng tác, có một số người quan niệm nếu kí báo chí mà viết mượtmà, bay bổng thì trở thành kí văn học. Ngược lại, kí văn học mà viết khơkhan thì chỉ là kí báo chí. Chắc vì vậy mà đã có những tác giả sau khi innhững bài kí trên báo đã bổ sung vào bài của mình những từ ngữ hoa hịehoa sói, những hình ảnh mây bay bướm lượn rồi cho rằng nó đã trở thànhnhững bài kí văn học. Đó là những quan niệm khơng chính xác.

tình cảm

Khơng yêu cầu cao, phải phản ánh đúng sự thật khách quan

u cầu cao về tính chấtsuy nghĩ và tình cảm của chủ thể

Hư cấu Không được phép Được phép

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Sự việc

Trình bày phải xuất phát

từ sự lập luận của tư duy logic của sự thật

Trình bày dưới sự chi phối của yếu tố cảm xúc và tình cảm

Giọng điệu Hàm súc, cơ đọng, dễ hiểu Phong phú, độc đáo

<b>3. ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA TÁC PHẨM KÍ</b>

<b>3.1. Người thật việc thật, tính xác thực trong tác phẩm Kí</b>

Nói đến kí, ấn tượng đầu tiên chính là nói đến sự thật, việc thật,người thật được ghi chép lại trong các tác phẩm kí, là cốt lõi của kí, lànguyên tắc tổ chức hình tượng nghệ thuật và nội dung thơng tin cơ bảncủa kí.

Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, đòi hỏi sựtrung thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng nhữngsự kiện xã hội lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đờisống. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Tác giả kícoi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm, hành động,và khơng bao giờ qn miêu tả khung cảnh, gợi khơng khí. Đó là nhữngsự kiện, những địa danh, những tên người, những con số có thật. Vì gắnchặt vào người thật việc thật, nên kí mang tính thời sự cao phục vụ kịpthời hơn cho những nhu cầu hiểu biết sự thật, những thơng tin thực tế củangười đọc. Nó đáp ứng nhu cầu thông tin sự thật đến với người đọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trần thuật người thật, việc thật được thể hiện qua một số tác phẩm

<i>như: Họ sống và chiến đấu (Nguyễn Khải), Chúng tôi ở Cồn Cỏ (Hồ</i>

Phương), … đã phản ánh khá nhanh nhạy sự việc và con người trên hòn

<i>đảo anh hùng.Tác phẩm kí “Người mẹ cầm súng” viết về cuộc đời và</i>

gương chiến đấu của chị Út Tịch, anh hùng lực lượng vũ trang tỉnh TràVinh trong kháng chiến chống Mỹ - Một cô bé nghèo được cách mạnggiác ngộ và trưởng thành, trở thành một chiến sĩ du kích dày dạn kinhnghiệm cùng đồng đội liên tiếp lập nhiều chiến cơng. Lí tưởng cáchmạng cũng như quyết tâm diệt ngoại xâm của chị được thể hiện qua câunói giản dị mà khẳng khái: “Cịn cái lai quần cũng đánh”.

Kí văn học cũng tái tạo sự kiện nhưng mục đích chủ yếu khôngphải chỉ là thông tin về sự kiện xã hội, mà nhằm xây dựng hình tượngthẩm mỹ, phản ánh cái hay, cái đẹp và những giá trị, ý nghĩa xã hội –thẩm mỹ của con người.

Như vậy, có thể thấy kí văn học có phần uyển chuyển hơn nhưngcũng khơng được xa rời hiện thực. Kí khơng cho phép người viết tưởngtượng ra những điều không xảy ra trong thực tế nhưng cũng không phảilà sự ghi chép máy móc thực tế. Sự kiện trong kí văn học mang ý nghĩatư tưởng nghệ thuật nhiều hơn, có khả năng khêu gợi, tác động đếnngười đọc.

<i>Trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sơng, cái nhìn đầu tiên của tác giả</i>

khi viết về sơng Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp củadịng sơng lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cơ gái Di gan phóng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngịi bút của tác giả, sơng Hương hiện

<i>lên thật kì vĩ “Sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi</i>

<i>rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnhthác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng vàsay đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với</i>

một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúcmãnh liệt, lúc dịu êm của sơng Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng củasơng hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.

<b>3.2. Cái tôi trần thuật trong tác phẩm kí</b>

Kí phản ánh hiện thực thơng qua vai trị cái tơi trần thuật – nhânchứng khách quan trước hiện thực được phản ánh và khách quan với tấtcả đối tượng tiếp nhận thông tin.

Cái tôi trần thuật trong kí, nhất là tác giả, trước hết đóng vai trị lànhân vật chứng kiến để tăng cường tính xác thực của con người và sựviệc trong tác phẩm kí, đồng thời cũng để bộc lộ tính khuynh hướng củamình, từ đó thẩm định, đánh giá sự thật.

Việc xuất hiện cái tơi trần thuật trong tác phẩm kí là yếu tố cực kìquan trọng. Nó giúp cho tác giả kí có điều kiện phản ánh hiện thực sinhđộng hơn, có bề dày và bản sắc hơn. Tác giả kí là người chứng kiến, lắngnghe và cảm nhận sự việc, con người và tình huống mình miêu tả. Tàinăng của người viết kí thể hiện ở chỗ chọn đúng chủ đề, tìm ra góc nhìntốt và chắt lọc được những chi tiết điển hình từ cuộc sống để làm nổi bậttính tư tưởng, tác động đến lí trí và làm xúc động tâm hồn người đọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Chính cái tơi trần thuật là khâu nối các dữ kiện, mở ra cho các thểkí mơi trường quan sát mới mẻ trước hiện thực, làm cho hiện thực đượcphản ánh trở nên sinh động, đa diện và có hồn hơn so với hiện thực đượctrình bày ở các thể loại khác.

<i>Trong nhật kí Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, chỉ</i>

với thời gian ngắn ngủi chưa đầy một năm, một lát cắt trong cuộc đờicon người nhưng nó cho ta thấy thế giới tâm tư phong phú, thấy cả tâmhồn anh, con người anh và đằng sau đó là một thế hệ đẹp đẽ đã sống vàra đi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, theo tiếng gọi của Tổquốc.

Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã ra đi mãi mãi ở tuổi hai mươi tại chiếntrường Quảng Trị năm 1972. Những dòng nhật ký anh để lại góp phầnphản ánh cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân ta, phản ánh một thế hệthanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng, sẵn sàng hy sinh vì sựnghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Ngay từ đầu, cuốn nhật kí đã mở ra những trang đẹp nhất của tâmhồn anh với khát vọng ra đi, lí tưởng chiến đấu và ý thức trách nhiệm vì

<i>Tổ quốc. Anh viết: “Mình đã bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc</i>

<i>nào? Có lẽ là từ 9/3/1971, tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấuvà hoa bằng lăng nước” và anh khát khao: “Chóng tới gia đình lớn. Nơita gửi gắm thời thanh xuân của mình”. Xuyên suốt cuốn nhật kí là khát</i>

vọng được vào tuyến lửa, giáp mặt quân thù.

<b>3.3 Hư cấu trong tác phẩm kí</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Trong khi viết thể kí, điều thường làm một số tác giả băn khoănnhất có lẽ là vấn đề kí có được hư cấu hay khơng? Vấn đề này cũng đãcó nhiều tranh luận và chưa hề kết thúc. Nhà báo nổi tiếng viết kí

<i>B.Pơlêvơi cũng nói: “Kí nhất thiết khơng được hư cấu. Cuộc sống chúng</i>

<i>ta mn hình mn vẻ như thế, lí thú như thế, biết bao nhiêu sự việc xảyra, thực ra cũng không cần thiết phải hư cấu thêm thắt tô vẽ gì hơnnữa”. Nhưng lại có khơng ít các ý kiến trái chiều: “Hiện thực cuộc sốngtrong tác phẩm phải phong phú hơn, điển hình hơn hiện thực tự nhiêncủa cuộc sống. Vì vậy kí cũng phải được sáng tạo, bù đắp thêm các nhântố mới ngoài cái có thật trong cuộc sống. Vì vậy, hư cấu trong kí phảiđược đặt ra theo đặc trưng của thể loại kí”. Hoặc: “Viết kí không phảilà sự ghi chép một cách máy móc và tự nhiên chủ nghĩa. Nhân vật trongkí tuy có thật nhưng không đồng nhất với nguyên mẫu. Có thể thay đổichút ít hiện thực, có thể tưởng tượng thêm những biểu hiện nội tâm”.</i>

Cho nên, đã là một tác phẩm nghệ thuật, khơng thể khơng nói đếnhư cấu.

Như trên đã nói, tác phẩm kí viết về sự thật nhưng thật ra, cứ giảđịnh rằng, có sự thật đang “Dâng sẵn, đón chờ” và nhà văn có tư tưởng,tình cảm hồn tồn đúng đắn chỉ việc ghi chép lại thì trước khi ghi chép,ít nhất cũng phải nghe hoặc thấy, tức là nghe kể lại hoặc chứng kiến.Trong trường hợp chứng kiến và viết lại, nhà văn vẫn không thể bao quáthết mọi sự việc hoặc nhớ hết mọi sự diễn biến một cách tường tận…Trong trường hợp nhà văn chỉ nghe kể lại mà khơng chứng kiến thì có

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thể sẽ nghe từ nhiều nguồn khác nhau (trực tiếp hoặc gián tiếp) và trongtrường hợp nào người kể cũng khơng thể biết hết, nhớ hết.

Vì vậy, trước khi đặt bút viết, người viết kí chỉ có một mớ tư liệulộn xộn, nhiều lỗ hổng, chưa móc nối được tư liệu với nhau… nhà vănbuộc phải sử dụng trí tưởng tượng và hư cấu nhằm làm cho bức tranh trởnên hợp lí, liên tục và hấp dẫn.

Các nhà lí luận chia đối tượng viết kí thành hai thành phần: thànhphần xác định (là những sự kiện lớn mang ý nghĩa nền tảng, những nhânvật chủ chốt…) và thành phần không xác định (là những sự việc vànhững nhân vật không quan trọng). Ở thành phần xác định nói chungkhơng nên hư cấu. Hư cấu sẽ được quyền sử dụng rộng rãi ở nhiều thànhphần không xác định, trước hết là nội tâm của nhân vật. Bởi vì ngay đốivới người thân quanh ta, cũng không thể nào xác định được nội tâm mộtcách tường tận và chính xác. Người viết kí có thể căn cứ vào tính cách vàhoàn cảnh chung để tưởng tượng về diễn biến nội tâm của họ.

<i>Ta nhận thấy rất rõ vấn đề này qua các tác phẩm Sống như anh củaTrần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Xung kích của</i>

Nguyễn Đình Thi và ở nhiều tác phẩm kí khác.

<i>Sống như Anh là lời kể của chị Phan Thị Quyên – vợ Anh hùng liệt</i>

<i>sĩ Nguyễn Văn Trỗi, do nhà văn Trần Đình Vân chấp bút về “những lần</i>

<i>gặp gỡ cuối cùng” giữa chị với anh Trỗi từ khi bị giam cho đến khi bị xử</i>

bắn. Thế nhưng cả câu chuyện không chỉ được kể từ một chị Quyên, màcòn được kể từ nhiều nguồn khác nhau. Và cho dù có nhiều chị Quyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cũng không thể biết hết và nhớ hết mọi việc về anh Trỗi. Chính chị đã

<i>nói: “Tơi biết thế nào tôi nói thế ấy, còn cô bác nào khác biết gì thêm cứ</i>

<i>để cô bác nói, chứ sao lại phải cứ tôi nói tất cả”. Như thế rõ ràng là kí</i>

<i>có “bịa đặt” rồi.</i>

Trần Đình Vân đã thêm vào các nhân vật phụ như: em bé bán báo,

<i>người bán hoa quả trong Sống như anh chỉ điểm xuyến cho thêm sinh</i>

động nhưng không hề vi phạm logic khách quan của câu chuyện.

Tóm lại, tác phẩm kí văn học có thể hư cấu ở một mức độ nào đónhưng phải tơn trọng tính xác thực của người thật, việc thật.

<b>3.4 Hình thức bút pháp linh hoạt, đa dạng</b>

Kí có kết cấu co giãn, linh hoạt giàu chất văn học. Từ đặc điểm kếtcấu này, hiện thực được trình bày trong tác phẩm kí hiện lên với nhiềutình huống khác nhau, đan xen nhiều mảng của hiện thực với những màusắc, âm thanh, hoàn cảnh, sự kiện, con người vô cùng phong phú. Bútpháp giàu chất văn học giúp cho tác giả trình bày mềm mại, uyển chuyểncó tính hình tượng, tính thuyết phục cao.

Để làm cho đối tượng miêu tả trở nên sinh động, hấp dẫn, sơng Đàdưới ngịi bút của Nguyễn Tn đã trở thành một “nhân vật”, có ngoạihình, có nội tâm, có tính cách, và đặc biệt cũng khá thơng minh. Tínhcách “nhân vật” sông Đà cũng khá phức tạp: vừa hung bạo vừa trữ tình.Lúc hung bạo thì nó như “kẻ thù” của con người. Lúc trữ tình, nó đầychất thơ và thân thiết với con người đến nỗi “như một cố nhân”, xa thìnhớ nhung, lưu luyến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Ngơn ngữ của kí mang tính tổng hợp của các loại phong cách ngơnngữ khác nhau. Trong đó vừa mang phong cách chính luận và nghệ thuậtnên giàu hình ảnh, có sức biểu cảm cao.

<i>Kỹ nghệ lấy Tây viết về phụ nữ dưới thế lực đồng tiền – chấp nhận</i>

bán rẻ bản thân, làm nô lệ cho những dục vọng thấp hèn – là sản phẩm

<i>của xã hội lai căng thời Pháp thuộc. Kỹ nghệ lấy Tây tập trung phản ánh</i>

hiện thực một cách chân thực về tất cả các khía cạnh của cái xã hội lấyTây đó.

Ở cái thời buổi mà đồng tiền có sức mạnh vạn năng. Ở một xã hộimà công lý không nằm bên lẽ phải mà nó nghiêng hẳn về phía có túi tiềnnặng hơn. Thì con người cũng thay đổi theo xã hội, bị tha hóa dưới thếlực đồng tiền. Họ khơng sống theo ln thường đạo lý, nhân nghĩa hayliêm sỉ nữa, họ đặt đồng tiền lên đầu quả tim. Và dĩ nhiên trong cái thếsự đó, ái tình là một thứ xa xỉ, u đương mà khơng có tiền quả là cái thứtình ngu muội.

Sự trào phúng càng đưa tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đi xa hơn,khiến ơng có thể nhìn những đau thương qua lăng kính trào lộng, tạothêm một sức mạnh, một sự đau đớn xót xa mới mà các tác giả cùng thờichưa đạt được.

<b>4. PHÂN LOẠI KÍ</b>

Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, kícũng rất phong phú, bao gồm nhiều tiểu loại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>Các tác phẩm tiêu biểu: Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác được</i>

viết vào thập niên 80 của thế kỷ XVIII (năm 1781) – một giai đoạn rốiren của triều đình phong kiến Lê Trịnh trước khi vua Quang Trung tiếnquân ra Bắc Hà. Tác giả kể lại cuộc hành trình của mình từ Nghệ Tĩnh vềThăng Long để chữa bệnh cho Chúa Trịnh do tiếng tăm lừng lẫy của một

<i>đại danh y. Thượng kinh kí sự cũng ghi lại thời gian sống ở kinh thành</i>

với biết bao biến động, và thổ lộ tấm lòng một vị danh y mong thốt khỏi

<i>vịng cơng danh phú q, trở về với núi cũ non xưa. Ngồi ra cịn có Kí</i>

<i>sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Họ sống và chiến đấu của</i>

<i>Nguyễn Khải, Đường lớn của Bùi Hiển, Chúng tôi ở Cồn Cỏ của Hồ</i>

Phương,….

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>4.2 Phóng sự</b>

Phóng sự là một thể ký nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồidào và nóng hổi, khơng chỉ đưa tin mà còn dựng lại hiện trường cho mọingười quan sát, đánh giá. Do đó, nó nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tảvà tái hiện sự thật.

Ở phương Tây đề ra cơng thức 5W cho phóng sự (What: cái gì đãxảy ra, Where: xảy ra ở đâu, When: xảy ra khi nào, Who: xảy ra với ai,Why: tại sao lại xảy ra). Tuy nhiên, thật ra đây là những tiêu chuẩn đề racho phương thức luận cứ trong một thiên phóng sự. Nội dung chủ yếucủa phóng sự lại thiên về vấn đề mà người viết muốn đề xuất và giảiquyết. Do đó phóng sự, mặc dù có chất liệu chủ yếu là người thật việcthật, nhưng nó chứa đựng màu sắc chính luận.

Cây bút tiêu biểu cho phóng sự là Vũ Trọng Phụng với các tác

<i>phẩm: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy tây, Cơm thầy cơm cô… Cơm thầy</i>

<i>cơm cô là tập phóng sự xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng đã phơi bày</i>

mặt trái của xã hội thị dân Hà Nội những năm trước cách mạng vớinhững đại diện của nó – những ơng chủ, bà chủ hết sức cay nghiệt, đểucán và độc ác. Ngòi bút sắc lạnh của Vũ Trọng Phụng đã phanh phui,phơi bày biết bao tấn bi hài kịch xung quanh các mối quan hệ cha – con,vợ - chồng, chủ - tớ khiến con người ta “ phải hãi hùng, kinh ngạc về loại

<i>người”. Ngồi ra cịn có Ngơ Tất Tố với Dao cầu thuyền tán, Việc làng,Trần Huy Quang với Lời khai của bị can, Trần Khắc với Người đàn bà</i>

<i>quỳ,…</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>4.3 Nhật kí</b>

Nhật kí là một thể loại kí mang tính chất riêng tư, đời thường nhiềunhất. Nếu hầu hết các tác phẩm văn học là để giao lưu với người khác,thì nhật kí lại chỉ để giao lưu với chính mình. Là ghi chép của cá nhân vềsự kiện có thật đã, đang và tiếp tục diễn ra theo thời gian. Nhật kí thườngbao gồm cả những đoạn trữ tình ngoại đề và những suy nghĩ có tính chấtchủ quan về sự kiện. Một nhật kí có phẩm chất văn học là khi nó thể hiệnđược một thế giới tâm hồn, qua những sự việc và tâm tình cá nhân tácgiả giúp người đọc nhìn thấy những vấn đề trọng đại đang tồn tại trongxã hội. Trong thực tế có thể có những nhật kí ít có chất văn học như cácnhật kí hành trình (nhật kí hàng hải), nhật kí cơng tác; và cũng có nhữngtác phẩm có tên nhật kí nhưng nội dung lại khơng hồn tồn là nhật kí

<i>(chẳng hạn Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, Nhật kí trong tù của Hồ Chí</i>

Hồi kí là những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quákhứ, một dạng gần như tự truyện của tác giả. Hồi kí cung cấp những tưliệu của quá khứ mà đương thời tác giả chưa có điều kiện nói được. Khácvới nhật kí, do đặc thù thời gian đã lùi xa, sự kiện trong hồi kí có thể bịnhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm mà người viết khơng tự biết.

<i>Các tác phẩm tiêu biểu: Nhật kí Ở rừng của Nam Cao, Nhật kí</i>

<i>Đặng Thùy Trâm của Đặng Thùy Trâm, Mãi Mãi tuổi hai mươi của</i>

Nguyễn Văn Thạc,…

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×