Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

LUẬN VĂN: Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đối với đời sống tinh thần người Chăm Ninh Thuận hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (950.72 KB, 130 trang )








LUẬN VĂN:

Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đối với
đời sống tinh thần người Chăm
Ninh Thuận hiện nay






mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Chăm ở Ninh Thuận có 60345 người (chiếm 11,75% dân số của tỉnh),
cư trú xen kẽ với các dân tộc anh em (Kinh, Hoa, Raglai, K'ho ) ở 22 thôn thuộc 12
xã của 4 huyện thị [13, tr.1]. Đồng bào Chăm Ninh Thuận theo 02 tôn giáo chính là
đạo Bàlamôn và đạo Bàni, một số ít đi theo Công giáo, Tin lành và đạo Ixlam Ngoài
ra đồng bào còn thực hiện nhiều nghi lễ thuộc tín ngưỡng truyền thống của dân tộc.
Trong tín ngưỡng và tôn giáo của đồng bào Chăm có sự đan xen, khó phân
biệt rạch ròi đâu là các nghi lễ thuộc tôn giáo hay tín ngưỡng Chính tín ngưỡng, tôn
giáo đã góp phần trong việc hình thành và phát triển văn hóa Chăm, làm cho văn hóa
Chăm phong phú, đa dạng
Hiện nay, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm vẫn còn chi phối khá mạnh


mẽ đến toàn bộ đời sống của đồng bào - đặc biệt là đời sống tinh thần. Vì vậy, trong
vùng đồng bào Chăm hiện nay, giải quyết tốt vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, sẽ góp phần
giải quyết tốt về vấn đề dân tộc.
Tuy nhiên, hiện nay, tín ngưỡng, tôn giáo Chăm Ninh Thuận đang đứng trước
thực trạng đáng lo ngại do giáo lý, giáo luật không rõ ràng và thiếu tính hệ thống.
Trong nội bộ tôn giáo Chăm thường xảy ra tình trạng mất đoàn kết do tranh chấp chức
sư cả, không thống nhất ngày tháng trong nội bộ một tôn giáo, nhiều nghi lễ còn rờm
rà, kéo dài thời gian, tốn kém, ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, ảnh hưởng đến sức
khoẻ và hoạt động sản xuất của người dân.
Mặt khác, do sự tác động của cơ chế thị trường cùng với việc truyền đạo và
theo đạo trái pháp luật đang lôi kéo người Chăm bằng cách mua chuộc về kinh tế đã
làm cho một số người từ bỏ tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống để đi theo Công giáo,
Tin lành, Ixlam (Hồi giáo) Thực trạng trên đã làm xáo trộn rất lớn đến các mối quan
hệ trong cộng đồng, làm phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, dòng họ, nội bộ
dân tộc, tôn giáo, làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào - nhất là đời sống tinh thần

Vì vậy, nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo người Chăm Ninh Thuận cùng với
thực trạng và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần của đồng bào, đề ra một
số giải pháp nhằm khắc phục một số ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những ảnh h-
ưởng tích cực là vô cùng quan trọng và cần thiết. Qua đó sẽ giúp cho những người
làm công tác tôn giáo, dân tộc Chăm nắm rõ hơn về thực trạng và sự ảnh hưởng của
nó để đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp, nhằm hướng tôn giáo, tín ngưỡng
Chăm vào hoạt động tích cực, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp
của đồng bào Chăm, củng cố tình đoàn kết trong nội bộ dân tộc, tôn giáo, góp phần
vào việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà và sự phát triển chung của cả
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vì văn hóa Chăm có vị trí tương đối quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam,
nên từ trước đến nay đã có nhiều công trình trong nước và ngoài nước nghiên cứu về

vấn đề này - kể cả các luận văn đại học, cao học và luận án tiến sĩ Trong đó, những
công trình nghiên cứu trong nước gần đây liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo Chăm có
thể kể:
* Về sách:
- "Người Chăm ở Thuận Hải", Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
và UBND tỉnh Thuận Hải, Thuận Hải, 1989.
- "Văn hóa Chăm", Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh 1991, Phan
Xuân Biên làm chủ biên.
- "Lễ hội Rija Nưgar của người Chăm" của Ngô Văn Doanh, 1998.
- "Lễ hội của người Chăm" của Sakaya, Nxb Văn hóa dân tộc, 2003.
* Về luận án tiến sĩ:
- Phan Văn Dốp, "Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ
Lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
- Phan Quốc Anh, "Nghi lễ vòng đời của người Chăm Bà la môn ở Ninh
Thuận", Luận án tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2004.
- Nguyễn Đức Toàn, "ảnh hưởng tôn giáo đối với tín ngưỡng của người Chăm ở
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

- Vương Hoàng Trù-“Tín ngưỡng dân gian của người Chăm ở Ninh Thuận và
Bình Thuận”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2002.
- Đề tài cấp tỉnh của Ban Dân vận tỉnh ủy Ninh Thuận, "Tín ngưỡng, tôn giáo
của người Chăm ở Ninh Thuận - Thực trạng và giải pháp", Phan Rang, 2000.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết về tín ngưỡng tôn giáo Chăm đăng rải rác ở các
Tạp chí Dân tộc học, Nghiên cứu tôn giáo, Nghiên cứu Đông Nam á của Ngô Văn
Doanh, Thành Phần, Bá Trung Phụ, Văn Món, Phan Văn Dốp, Phú Văn Hẳn
Những nghiên cứu trên đây đã góp phần rất quan trọng trong quá trình nghiên
cứu văn hóa Chăm nói chung và tín ngưỡng tôn giáo người Chăm nói riêng và những
công trình trên đã đạt được những thành công nhất định.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực trạng và sự ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn
giáo ngời Chăm đối với đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm ở Ninh Thuận

- nhất là đời sống tinh thần của đồng bào hiện nay và đề ra các giải pháp nhằm phát
huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực thì chưa có
công trình nào đề cập.
Vì thế, việc nghiên cứu Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đối với đời sống
tinh thần người Chăm Ninh Thuận hiện nay - Thực trạng và giải pháp là cần thiết
và cấp bách ở Ninh Thuận. Qua đó sẽ giúp cho những người làm công tác tôn giáo,
dân tộc ở Ninh Thuận có cách nhìn đúng hơn về tín ngưỡng, tôn giáo người Chăm và
đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể là tôn giáo
Bàlamôn và tôn giáo Bàni của người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay.
Đề tài không đi sâu vào lý luận tín ngưỡng, tôn giáo mà chỉ trình bày tín ng-
ưỡng, tôn giáo của người Chăm ở Ninh Thuận, thực trạng và sự ảnh hưởng của nó đối
với đời sống tinh thần của người Chăm Ninh Thuận, qua đó đề ra một số giải pháp
nhằm phát huy sự ảnh hưởng tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, góp
phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, củng cố
tình đoàn kết trong nội bộ tôn giáo, dân tộc trong cộng đồng người Chăm ở Ninh
Thuận.

Do lĩnh vực đời sống tinh thần là một lĩnh vực rộng lớn, nên luận văn chỉ đề
cập sự ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo Chăm đối với đời sống tâm linh, đạo đức
lối sống, kiến trúc Đền, Tháp, nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật múa và cách suy nghĩ
của đồng bào Chăm Ninh Thuận hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trình bày những nội dung cơ bản và những đặc điểm trong quá trình diễn biến
của tín ngưỡng, tôn giáo người Chăm Ninh Thuận hiện nay, thực trạng sự ảnh hưởng
của nó đối với đời sống tinh thần của đồng bào, đề ra một số giải pháp để phát huy
những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, nhằm bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc Chăm.

Nhiệm vụ:
Tìm hiểu một số nét về điều kiện kinh tế-xã hội vùng đồng bào Chăm tỉnh
Ninh Thuận có ảnh hưởng đến tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm Ninh Thuận.
Tìm hiểu nội dung cơ bản, những diễn biến và những đặc điểm, tình hình tín
ngưỡng, tôn giáo, qua đó tìm ra nét đặc trưng của tín ngưỡng, tôn giáo người Chăm
Ninh Thuận hiện nay.
Nêu lên thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo người Chăm đối với đời
sống tinh thần của đồng bào Chăm hiện nay và đề ra một số giải pháp để khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo, dân
tộc.
Luận văn sử dụng thành quả các công trình nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng
người Chăm trong thời gian qua và các tư liệu báo cáo của các ngành trong tỉnh và
những tư liệu thực tế trong quá trình công tác gần 15 năm ở địa phương.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để xem xét tín ngưỡng tôn giáo Chăm trong
quá trình vận động và mối quan hệ của nó với đời sống xã hội của người Chăm.

Luận văn sử dụng phương pháp điền dã, điều tra xã hội học để tiếp cận trực
tiếp với sinh hoạt trong tín ngưỡng, tôn giáo, tâm lý, tình cảm của đồng bào Chăm và
sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để nêu lên thực trạng và sự ảnh hưởng của
nó đến đời sống tinh thần của đồng bào Chăm Ninh Thuận hiện nay.
6. Những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn nêu lên được tình hình và đặc điểm của tín
ngưỡng tôn giáo Chăm trong quá trình diễn biến của nó.
Kết quả của luận văn cũng nêu lên vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống
của người Chăm, thực trạng ảnh hưởng đến đời sống tinh thần người Chăm Ninh Thuận
hiện nay và đưa ra những giải pháp phù hợp.

Kết quả của luận văn còn là những tài liệu thực tế giúp cho những người làm
công tác tôn giáo, dân tộc ở Ninh Thuận và cả nước có cách nhìn đúng đắn hơn về
thực trạng của tín ngưỡng, tôn giáo Chăm, từ đó tránh sự lệch lạc, chủ quan trong quá
trình giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, dân tộc Chăm ở Ninh Thuận.
Luận văn còn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cho những người muốn tìm
hiểu, nghiên cứu văn hoá Chăm-đặc biệt là tài liệu thực tế thuộc lĩnh vực tín ngưỡng,
tôn giáo Chăm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn được chia làm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Một vài nét về tín ngưỡng, tôn giáo người Chăm Ninh Thuận hiện nay
Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống tinh
thần người Chăm Ninh Thuận hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy
những ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống tinh thần người
Chăm Ninh Thuận hiện nay.











Chương 1
Một vài nét về tín ngưỡng, tôn giáo
của người Chăm Ninh Thuận hiện nay



1.1 Một số điều kiện kinh tế-xã hội ảnh hưởng đến tín ngưỡng, tôn giáo người
Chăm Ninh Thuận hiện nay
1.1.1. Khái quát về người Chăm Ninh Thuận
Người Chăm là một dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có quá trình
lịch sử lâu đời với nền văn hoá phong phú và đa dạng.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, hiện nay người Chăm cư trú xen kẽ với các dân tộc
anh em ở một số tỉnh miền Trung và Nam Bộ nước ta như Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận,
Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, TP.HCM, Bình Phước, An Giang với dân số trên 137
ngàn người, trong đó tập trung đông nhất ở tỉnh Ninh Thuận [8, tr.1].
Người Chăm ở Ninh Thuận có 60.345 người (chiếm 11,75% dân số của Tỉnh) [13,
tr.1], sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, xen kẽ với các dân tộc anh em ở 22 thôn
thuộc 12 xã của 04 huyện thị, trong đó, tập trung đông nhất ở huyện Ninh Phước và
huyện Ninh Hải. Kinh tế của đồng bào Chăm chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trồng lúa
nước là chính. Một số ít trồng thêm cây công nghiệp, cây ăn trái, hoa màu, chăn nuôi gia
súc, gia cầm như trâu, bò, heo, cừu, dê, gà vịt và kinh doanh buôn bán. Có một thôn làm
nghề gốm và một thôn làm nghề dệt thổ cẩm [7, tr.1].
Ngoài tín ngưỡng dân gian truyền thống, hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận theo
02 tôn giáo chính: Đạo Bàlamôn (người Chăm ảnh hưởng ấn Độ giáo, còn gọi là Ahier)
và đạo Bàni (người Chăm ảnh hưởng Ixlam, còn gọi là Aval). Ngoài ra còn có một số ít
đi theo đạo Công giáo, Tin Lành và đạo Ixlam chính thống.
Trải qua các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nhất là trong thời kì kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dân tộc Chăm luôn đoàn kết với các dân tộc
anh em trong tỉnh, đóng góp sức người sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước. Nhiều cơ sở cách mạng đã hình thành và phát triển trong các làng Chăm
như Hậu Sanh, Như Bình, Vĩnh Thuận, Phước Lập… Nhiều gương sáng trong 02 thời kỳ

kháng chiến có anh hùng liệt sĩ Đổng Dậu, liệt sĩ Phú Như Lập, Tài Đại Thông, Từ Hậu,
Lưu Đặng, Thiên Sanh Sửu…[7, tr.1].

Người Chăm ở Ninh Thuận cư trú theo từng làng và có tính cộng đồng rất cao. Bà
con thường giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, nhất là lúc ốm đau, hoạn nạn và trong việc
thực hiện các nghi lễ thuộc tín ngưỡng, tôn giáo. Hàng năm, trong vùng đồng bào Chăm,
các nghi lễ diễn ra dày đặc. các nghi lễ này vẫn còn chi phối khá mạnh trong đời sống
tinh thần của đồng bào.
Hiện nay, trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đồng bào Chăm ở Ninh Thuận đang đoàn kết cùng
với các dân tộc anh em trong tỉnh ra sức xây dựng quê hương tỉnh nhà ngày càng phát
triển, góp phần vào sự phát triển chung của cả nước. Kinh tế - xã hội vùng đồng bào
Chăm từ sau ngày giải phóng năm 1975 đến nay đã có những phát triển rõ rệt ở trên tất cả
các lĩnh vực như kinh tế, đời sống, văn hoá, xã hội, an ninh chính trị…
1.1.2. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào
Chăm
Ngoài những chủ trương, chính sách chung cho cả nước và chính sách chung cho
các dân tộc, Đảng và Nhà nước ta cũng có những chính sách riêng cho từng dân tộc cụ
thể.
Đối với đồng bào Chăm, Đảng và Nhà nước ta có Chỉ thị số 121-CT/TW ngày
26.10.1981 và Thông tri số 03-TT/TW ngày 17.10.1991 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng và Chỉ thị số 06/2004/CT-TTg ngày 18.02.2004 của Thủ tướng Chính Phủ.
Những chủ trương, chính sách trên đã tạo điều kiện cho vùng đồng bào Chăm
phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Về Chỉ thị 121-CT/TW ngày 26.10.1981 có nêu lên nhiều vấn đề ở các lĩnh vực
kinh tế, đời sống, văn hoá, xã hội, an ninh chính trị…trong đó có một số nội dung chính,
Chỉ thị nêu rõ: “Trước mắt, các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo
đối với vùng dân tộc Chăm, làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, đảm bảo và phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Kết hợp vừa tranh thủ, vừa phân hoá tầng
lớp trí thức, chức sắc các tôn giáo, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần phấn khởi
trong vùng đồng bào Chăm, động viên và tổ chức quần chúng ra sức phấn đấu đạt sự

chuyển biến rõ rệt về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh chính trị, từng bước cải

thiện đời sống của nhân dân…”.
Về văn hoá dân tộc, Chỉ thị 121 nêu rõ: “Coi trọng các di sản văn hoá dân tộc, sưu
tầm, khai thác, chọn lọc và nâng cao vốn văn hoá dân tộc Chăm, đáp ứng yêu cầu, tình
cảm của đồng bào Chăm và làm phong phú kho tàng văn hoá Việt Nam…”.
Chỉ thị đã yêu cầu “Các cấp ủy đảng cần làm tốt một số nhiệm vụ như tuyên
truyền giáo dục chính trị tư tưởng cho mọi tầng lớp nhân dân về chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước, tạo mọi điều kiện để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống của đồng
bào, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế và xã hội; củng cố v xây dựng cơ sở đảng, chính
quyền và các đoàn thể quần chúng”.
Ngày từ khi Chỉ thị 121 ra đời, để thực hiện tinh thần của Chỉ thị, tỉnh Thuận Hải
(Ninh Thuận và Bình Thuận) đã tổ chức Hội nghị triển khai cho tất cả các cấp ủy đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trong tỉnh.
Sau gần 10 năm triển khai và thực hiện Chỉ thị, đến năm 1990, dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Ban Bí thư (khóa VI), Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh Thuận Hải đã tổ
chức Hội nghị tổng kết việc triển khai và thực hiện Chỉ thị 121 tại tỉnh Thuận Hải. Đến
tham dự Hội nghị, ngoài lãnh đạo Trung ương và Tỉnh còn có đông đảo cán bộ, đảng viên
người Chăm, đại diện các chức sắc, nhân sĩ, trí thức Chăm tiêu biểu có uy tín…Hội nghị
đã đánh giá những việc đã làm được, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh
nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho thời gian tiếp theo…
Sau Hội nghị tổng kết 10 năm việc triển khai và thực hiện Chỉ thị 121, Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá VI) đã ra Thông tri số 03-TT/TW về công tác đối với đồng bào
Chăm, Thông tri đã đánh giá đúng thực trạng vùng đồng bào Chăm từ khi có Chỉ thị 121 và
yêu cầu các cấp ủy đảng cần tập trung làm tốt các vấn đề về kinh tế, đời sống, văn hoá, xã
hội, an ninh chính trị ở các vùng Chăm…
Năm 1992, tỉnh Thuận Hải tách ra thành 02 tỉnh: tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
Ngay sau khi chia tách tỉnh, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận đã mở Hội nghị triển khai ngay
Thông tri 03 cho các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trong tỉnh. Bởi
vì Ninh Thuận là tỉnh có đồng bào Chăm sinh sống đông nhất, chiếm gần 50% dân số

đồng bào Chăm trong cả nước nên việc triển khai, thực hiện Thông tri 03 là vô cùng quan

trọng và cấp bách.
Sau gần 10 năm triển khai và thực hiện, năm 2000, Tỉnh ủy Ninh Thuận đã chỉ
đạo mở Hội nghị tổng kết đánh giá việc triển khai và thực hiện Thông tri 03 về công tác
đối với đồng bào Chăm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho những năm tiếp theo…
Sau đó, đến năm 2004, ủy Ban Dân tộc Trung ương đã mở Hội nghị tổng kết việc triển
khai và thực hiện Thông tri 03 trên phạm vi cả nước. Hội nghị được tổ chức tại tỉnh Bình
Thuận. Đến dự có lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các tỉnh có đồng bào Chăm sinh sống
và đại diện cán bộ, đảng viên người Chăm, các chức sắc, nhân sĩ, trí thức Chăm tiêu biểu…Hội
nghị đã đánh giá những việc đã làm được, những tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và
đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội đồng bào Chăm trong tình hình mới.
1.1.3. Những kết quả đạt được và những tồn tại về kinh tế-xã hội vùng đồng
bào Chăm Ninh Thuận hiện nay
Năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước được thống nhất
hoàn toàn, đặc biệt là từ khi Đảng và Nhà nước ta có Chỉ thị 121, Thông tri 03, Chỉ thị 06
thì tình hình kinh tế, đời sống, văn hoá, xã hội ở các vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận
phát triển rõ rệt; an ninh quốc phòng từng bước được giữ vững; tình đoàn kết giữa các
dân tộc ngày càng được củng cố; nền văn hoá của dân tộc được phục hồi, phát huy và
phát triển; đội ngũ đảng viên, cán bộ, cốt cán người Chăm ngày càng nhiều, tỉ lệ học sinh
các cấp ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Biểu hiện rõ nhất ở vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận hiện nay về mặt kinh tế là
trong trồng trọt và chăn nuôi, một thế mạnh của tỉnh đã phát triển khá rõ nét. Đời sống
của đồng bào được nâng lên thể hiện ở việc các nhà mới xây kiên cố mọc lên rất nhiều ở
các làng Chăm. Nhiều hộ gia đình mua xe Honda, tivi và thường xuyên tổ chức đi chơi
vào các ngày lễ, tết… ở 22 làng Chăm Ninh Thuận hiện nay, đường giao thông đi lại rất
thuận tiện. Hầu hết ở các làng đều có lưới điện quốc gia và hơn 95% người dân đã kéo
điện về đến nhà. 22/22 làng có trường tiểu học; 100% số xã có đồng bào Chăm sinh sống
đều có trường trung học cơ sở, bưu điện văn hoá xã; 17/22 làng có hệ thống cấp nước
sinh hoạt, phục vụ hơn 50% số hộ dùng nước sạch; 58% số xã có trạm truyền thanh;
83,6% số làng xây dựng làng văn hoá; 60% số thôn có phòng học mẫu giáo; 5/12 xã có


chợ; 100% số xã được công nhận xoá mù chữ và phổ cấp giáo dục tiểu học [30, tr.2].
Trường trung học Pô Klong (cũ) được đổi tên thành Trường PTTH Dân tộc nội trú của
tỉnh, được xây dựng thêm khang trang hơn. Trung tâm văn hoá Chăm được phục hồi và
từng bước đi vào hoạt động; Ban biên soạn chữ Chăm được duy trì và nâng cao về chất
lượng; số học sinh, sinh viên, giáo viên, bác sĩ và cán bộ, đảng viên ngày càng nhiều; các
Tháp Pô Klong Girai, Tháp Pô Rômê, Tháp Hoà Lai được Nhà nước trùng tu; chữ viết
của dân tộc được nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy rộng rãi cho học sinh cấp I ở các
làng Chăm; tệ mê tín dị đoan được đẩy lùi. Bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân
tộc được phục hồi, phát huy và phát triển. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước quan tâm tạo điều kiện để đáp ứng nguyện vọng chính
đáng của đồng bào. Một số lễ nghi trong tín ngưỡng, tôn giáo không còn phù hợp với đời
sống mới đã được xoá bỏ…
Từ những thành quả đã đạt được ở các vùng Chăm, đã làm cho đồng bào phấn khởi, từ đó
càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ở vùng Chăm Ninh Thuận hiện nay vẫn
còn tồn tại một số vấn đề cần được tiếp tục quan tâm giải quyết đó là nền kinh tế trong
vùng đồng bào Chăm có chuyển đổi, có phát triển nhưng còn rất chậm; đời sống của
đồng bào có được nâng lên so với trước nhưng nhìn chung vẫn còn thấp; trong tín
ngưỡng, tôn giáo vẫn còn nhiều nghi lễ rườm rà, kéo dài thời gian, tốn kém tiền bạc, ảnh
hưởng đến sức khoẻ và hoạt động sản xuất của người dân; trong nội bộ một tôn giáo
thường xảy ra tình trạng tranh chấp chức sư cả, không thống nhất ngày tháng, nhiều tín
đồ từ bỏ tôn giáo truyền thống đi theo các tôn giáo khác như: Công giáo, Tin Lành,
Ixlam…làm xáo trộn rất lớn đến đời sống sinh hoạt của cộng đồng. Một số mâu thuẫn xuất
phát từ đời sống sinh hoạt hàng ngày ở các vùng đồng bào các dân tộc sống xen kẽ thường
có nguy cơ lan rộng, kéo nhiều người tham gia; vẫn còn tồn tại tư tưởng dân tộc lớn và dân
tộc hẹp hòi. Lực lượng cốt cán trong vùng Chăm còn rất mỏng, chưa phát huy hết vai trò,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong quá trình giải quyết các vụ việc ở vùng Chăm, chúng ta
chưa tranh thủ vai trò của các vị chức sắc, nhân sĩ, trí thức Chăm tiêu biểu, trong khi đó, ở
vùng Chăm Ninh Thuận hiện nay, vai trò của các vị này có ảnh hưởng rất quan trọng [10,
tr.8].


Những tồn tại trên đây cần có sự quan tâm, chung sức, chung lòng của các thành
viên trong cộng đồng và của các ngành, các cấp nhằm tiếp tục tạo điều kiện cho vùng
đồng bào Chăm phát triển trên tất cả các lĩnh vực…
1.2. Tín ngưỡng của người Chăm Ninh Thuận hiện nay
Địa bàn cư trú của người Chăm trước đây là khu vực đồng bằng ven biển Trung
Bộ Việt Nam. Một bên là núi cao hùng vĩ, rừng nhiệt đới rậm rạp, một bên là biển cả bao
la, chính giữa là đồng bằng nhỏ hẹp, có nhiều sông ngòi ngắn và dốc, khí hậu nhiệt đới
gió mùa, lượng mưa trung bình thấp…
Hàng năm, bên cạnh những ưu đãi do thiên nhiên mang lại như sản phẩm rừng
núi: gỗ, động vật qúi hiếm; sản phẩm của biển như cá, tôm, mực; sông ngòi thường bồi
đắp phù sa cho đồng bằng… thì những tai hoạ do thiên nhiên mang lại không phải ít; có
nhiều loài thú dữ đe doạ mạng sống của con người; những cơn sóng dữ dội của biển cả
nhấn chìm cả tàu thuyền; mùa mưa thường gây ra lũ lụt, mùa khô thường gây ra hạn hán,
dịch bệnh thường xuyên xảy ra Ngoài ra, còn có các hiện tượng như động đất, sấm
chớp, sóng Thần, lũ lụt… đã cướp đi nhiều sinh mạng con người…
Đứng trước các hiện tượng thiên nhiên huyền bí, trong thời kỳ lịch sử mà con
người chưa thể giải thích được các hiện tượng thiên nhiên đó do trình độ còn hạn chế thì
người Chăm thường gắn cho những hiện tượng đó là siêu nhiên, là Thần. Vì vậy, các hiện
tượng thiên nhiên đều có gắn tên Thần như: Thần núi, Thần biển, Thần gió, Thần mưa,
Thần sấm sét, Thần chớp…
Hàng năm, để được bình an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, tôm cá đầy
ghe; để khỏi thú dữ đe dọa, tránh khỏi các dịch bệnh, tránh khỏi bị trừng phạt và được
che chở trong cuộc sống, người Chăm thường đem các lễ vật đến cầu cúng cho các vị
Thần linh ở các ngọn núi, bãi biển, dòng sông, đồng ruộng để cho các Thần linh này phù
hộ… Đây chính là cơ sở, nguyên nhân xuất hiện tín ngưỡng thờ đa Thần của người
Chăm. Tín ngưỡng này đã hình thành, tồn tại, phát triển và kéo dài đến ngày nay.
Hiện nay, trong vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận vẫn còn tồn tại rất nhiều nghi
lễ thuộc tín ngưỡng. Các nghi lễ này phong phú, đa dạng và chính nó đã góp phần hình
thành văn hoá Chăm. Có tín ngưỡng liên quan đến Đền, Tháp, tín ngưỡng liên quan đến

cộng đồng, tín ngưỡng liên quan đến tộc họ, gia đình và các cá nhân, tín ngưỡng liên

quan đến nông nghiệp… Các tín ngưỡng này vẫn còn chi phối khá sâu sắc trong đời sống
của đồng bào Chăm-nhất là vĩnh vực đời sống tinh thần.
1.2.1. Khái niệm về tín ngưỡng
Đến nay, chưa có một định nghĩa nào tương đối hoàn chỉnh về khái niệm này.
Để có khái niệm về tín ngưỡng, cần đặt trong mối quan hệ với niềm tin.
Theo GSTS Phạm Ngọc Quang thì “Niềm tin là một mối quan hệ (giữa người và
người, giữa người và lực lượng siêu nhiên, giữa người và vật). Nó ít nhất bao gồm: người
tin, đối tượng được tin. Đối tượng được tin có thể rất đa dạng: là những con người cụ thể;
những vật thể được coi như là cần có sức mạnh giúp đỡ hoặc làm hại con người; những
con người được người đời gán cho sức mạnh siêu nhiên…” và “Niềm tin mà con người
theo đuổi có nhiều loại khác nhau: có niềm tin khoa học, niềm tin tiền khoa học và niềm
tin phi khoa học. Tín ngưỡng là một trong những số niềm tin tiền khoa học, phi khoa học
đó…” [42, tr.9].
Như vậy “Niềm tin là điểm xuất phát của mọi tín ngưỡng. Lòng tin, sự ngưỡng
vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó, một lực lượng siêu thực, hư ảo,
vô hình là nội hàm cơ bản của tín ngưỡng, trong đó có tín ngưỡng dân gian.Đối với người
có tín ngưỡng, lực lượng siêu nhiên đó là có thật, đang tác động vào cuộc sống của họ.
Để thuận lợi trong cuộc sống, tránh mọi tai ương, họ tôn thờ, sùng bái lực lượng siêu
nhiên ấy” và “Lòng tin ở một lực lượng siêu nhiên, sự sợ hãi sẽ bị trừng phạt hay hi vọng
sẽ được che chở, niềm tin rằng mình sẽ được giải thoát khỏi mọi tai ương, trắc trở… là
hạt nhân ban đầu của tín ngưỡng [48, tr.10].
Bàn về vấn đề tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo, GS Đặng Nghiêm Vạn viết: “ở
nước ta, thuật ngữ tín ngưỡng có thể có 02 nghĩa, khi ta nói tự do tín ngưỡng, người
ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung hay niềm tin tôn giáo. Nếu hiểu tín
ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo; Nếu hiểu là niềm tin tôn giáo thì tín
ngưỡng tôn giáo chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo” [58, tr.76]. Tuy
nhiên, chúng ta “cần phân biệt niềm tin tôn giáo (tín ngưỡng) với niềm tin trần tục. Trước
hết trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liên quan đến một thế giới vô hình, đến những

siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra chúng, rồi để chúng chi phối và

tác động ngược trở lại đến đời sống trần tục” [58, tr.82]. Và cũng theo GS.Đặng Nghiêm
Vạn thì
Niềm tin đó phải là niềm tin siêu lý, không dựa vào một lí tính và thực
nghiệm, một niềm tin được cảm nhận hoặc theo truyền thống kinh nghiệm hoặc
do sự tu luyện để dần khẳng định vững chắc. Đó là niềm tin không cần chứng
minh, tin để rồi tin. Tin vào những điều vĩnh hằng, tuyệt đối, một cuộc sống
như ý muốn, một cuộc sống bất diệt [58, tr.83].
Từ đó ông đi đến kết luận: “Khác hẳn với niềm tin đời thường, thông qua nhận
thức dựa vào lí tính những sự vật hiển nhiên hay cảm nhận những điều rút ra từ sự học
hỏi và kinh nghiệm sống, niềm tin tôn giáo là một dạng nhận thức đặc biệt, dựa trên trực
giác, tạo cho con người một niềm tin có tính thiêng liêng, giúp ta có thể nhìn nhận được
những sự vật mà người thường không thấy được, cho ta một sức mạnh “thăng hoa” để tác
động đến cuộc sống trần tục. Niềm tin đó không hẳn từ sự bất lực, mà còn là một nhu cầu
mong muốn chế ngự cái chết cho mình trở nên bất tử, hay trở về “sống” ở một thế giới
vĩnh cửu đầy hạnh phúc” [58, tr.86]. Theo Nguyễn Đăng Duy thì: “Tín ngưỡng là một
cách từ thực tế cuộc sống cộng đồng con người ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi
cộng đồng con người đó tin theo tôn thờ lễ bái, cầu mong cho hiện thực cuộc sống, gây
thành một nếp sống xã hội theo niền tin thiêng liêng ấy” [20, tr.22].
Như vậy tín ngưỡng của người Chăm nói chung, người Chăm ở Ninh Thuận nói
riêng được hình thành trên cơ sở niềm tin về một lực lượng siêu nhiên, thần bí, trong thời
kì mà con người cảm thấy bé nhỏ trước các hiện tượng thiên nhiên hùng vĩ, kì bí, con
người chưa giải thích được các hiện tượng đó và gắn cho chúng một cái tên thần bí và
cầu mong được che chở, tránh mọi tai ương, đó là niềm tin thiêng liêng, khác với niềm
tin trần tục và tác động trở lại đời sống trần tục của con người.
1.2.2. Yếu tố phồn thực trong tín ngưỡng dân gian của người Chăm ở Ninh
Thuận
Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng khá phổ biến trong các vùng của cư dân nông
nghiệp, trong đó có đồng bào Chăm. Trong tín ngưỡng này, các biểu tượng thể hiện cho

yếu tố âm dương là khá phổ biến. Thể hiện rõ nhất của yếu tố phồn thực trong tín ngưỡng
dân gian của người Chăm là qua việc thực hiện lễ hội Rija Nưgar (lễ hội múa tống ôn đầu

năm). Lễ này được thực hiện trong tháng 1 hàng năm theo lịch Chăm, vào ngày thứ năm và
thứ sáu thượng tuần trăng. ý nghĩa của lễ hội Rija Nưgar là tiễn đưa những điều xấu xa, xui
xẻo của năm cũ, đón nhận những điều tốt đẹp trong năm mới, cầu cho mưa thuận, gió hoà,
mùa màng tươi tốt, dân làng khỏe mạnh, ấm no và hạnh phúc…
Lễ vật dâng cúng trong lễ hội múa Rija Nưgar ngoài gà, dê, còn có 5 mâm cơm,
canh, bánh ngọt, trái cây, trầu, cau, rượu, trứng và lễ vật quan trọng là lửa và nước. Lễ
vật được chia thành 02 phần tượng trưng cho âm và dương, cụ thể: ngày vào buổi chiều
thứ năm-cúng con gà (thuộc âm), ngày ra buổi sáng thứ sáu-kết thúc buổi lễ cúng con dê
(thuộc dương). Thầy cúng lễ gồm có thầy Kaing (thầy bóng), thầy Mưdwơn (thầy vỗ), 02
nghệ nhân đánh trống Ginăng; 01 nghệ nhân thổi kèn Saranai, cùng nhiều thầy cúng lễ
và dân làng phụ lễ. Hệ thống Thần linh trong lễ Rija Nưgar gồm rất nhiều vị Thần như Pô
Tang Hauk (Thần chèo thuyền), Pô Gialau (Thần rừng trầm, rừng quế), Pô Riyak (Thần
sóng biển), Pô Nưgar (Thần mẹ xứ sở), Pô Klong Girai, Pô Rômê, Pô Patau Bin Thôr, Pô
Bhum (Thần ruộng lúa), Thần nước, Thần mặt trời, Thần núi, Thần biển…
Kết thúc lễ hội Rija Nưgar là nghi thức tiễn đưa hình nhân thế mạng, đây là vật
thay thế cho dân làng mang đi những điều xấu xa của năm cũ, những bệnh tật, mất mùa
của năm cũ, đem lại cho con người sức khoẻ, bình an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi
tốt trong năm mới… Sau đó hình nhân thế mạng này được tiễn đến tại ngã ba đường hay
tiễn xuống dòng sông
Điểm đặc biệt trong lễ hội múa Rija Nưgar là múa phồn thực (ngoài các nghi thức
bắt buộc thì ở một số địa phương còn có nghi thức này). Lễ múa phồn thực do một người
đàn ông có tầm vóc to khoẻ được dân làng bầu chọn và bà bóng (Muk Pajơw) đảm
nhiệm. Trước khi vào lễ, người đàn ông được bầu làm nghi thức mặc y phục và tay cầm
03 cây gỗ tre hình dương vật, dài khoảng 25cm, đầu nhuộm màu đen. Khi vào lễ, thầy
Kadhar kéo đàn Rabap hát lễ về Pô Nưgar (Thần mẹ xứ sở), người đàn ông cầm cây tre
múa nhún nhảy như động tác giao hợp. Sau một hồi múa, thì người đàn ông đó dừng lại.
Ba cây tre đó được người đàn ông chuyển cho bà bóng tiếp tục múa và cuối cùng làm lễ

tẩy uế cho 03 cây tre trên cái tra đặt “hình nhân thế mạng”. Sau đó 03 cây tre được dân
làng tiễn đưa cùng với những hình nhân thế mạng ra đến ngã ba đường hay dòng sông…

Một biểu hiện khác của tín ngưỡng phồn thực là việc thờ Nữ Thần Pô Yang Jri ở
người Chăm. Tượng của Nữ Thần này là một khối đá dựng đứng có vẽ một vạch ngang
bằng vôi thể hiện cái miệng của Thần. Thế nhưng để tượng trưng cho Nữ Thần này thì
chỉ cần một vật gì giúp cho người ta liên tưởng đến bộ phận sinh dục của phái nữ như kẽ
nứt của cây, đường nẻ của đá… Khi có việc cầu cần xin Nữ Thần giúp đỡ cho việc chữa
bệnh, việc hiếm muộn con cái, người Chăm thường đến chỗ đó khấn “vái”, đổ rượu lên
khúc cây hình trụ có dạng bộ phận sinh dục của nam rồi làm động tác như lúc nam và nữ
giao hợp. Người ta tin rằng làm như thế là Thần sẽ giúp cho họ khỏi bệnh hoặc sẽ thoả sự
mong muốn về việc con cái…
1.2.3. Các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp
Như trên đã trình bày, địa bàn cư trú của người Chăm trước đây là vùng duyên hải
miền trung có khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mua trung bình hàng năm thấp, một bên
là núi cao hiểm trở, một bên là biển rộng mênh mông, đồng bằng thì nhỏ hẹp, sông ngòi
thì ngắn và dốc. Nghề nghiệp của người dân là trồng lúa nước, đi biển để đánh bắt tôm cá
và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Ngoài ra, người dân còn khai thác sản phẩm từ
rừng núi như khai thác gỗ quí, dược liệu, trầm hương quí, săn bắn động vật quí hiếm…
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi do thiên nhiên ban tặng thì người Chăm cũng
hứng chịu những đợt thiên tai xảy ra như sóng biển nhấn chìm các đoàn thuyền, thường
xảy ra lũ lụt vào mùa mưa, hạn hán vào mùa khô, các dịch bệnh, thú dữ đe dọa mạng
sống của con người. Trong thời kỳ mà trình độ của con người còn hạn chế, chưa giải
thích được các hiện tượng xảy ra của thiên nhiên, con người cảm thấy nhỏ bé và bất lực.
Người dân tin rằng đó là do sự màu nhiệm, là huyền bí, là Thần Thánh…
Hàng năm, để được che chở, thoát khỏi mọi tai ương trong cuộc sống, người dân
thường mang các lễ vật đến tận cửa biển, đầu sông, ngọn núi, để dâng cúng cho các vị
Thần. Vì người ta tin rằng, làm như vậy sẽ được các Thần che chở, thoát khỏi mọi tai
ương trong cuộc sống. Chính các nghi lễ này đã được thực hiện hàng năm, tồn tại mãi
đến ngày nay. Các nghi lễ này đều có liên quan trực tiếp đến sản xuất và đời sống của

đồng bào như: lễ cầu đảo (Plao Sah), lễ chặn nguồn nước (Kap lâu Krong), lễ cúng ruộng
(iêu Pô Bhum), lễ chém trâu tế Thần tại núi đá trắng và tại Tháp, lễ hội múa tống ôn đầu
năm (Rija Ngar)…

Các nghi lễ trên đều rất phong phú, đa dạng và mang tính cộng đồng. Sau đây là
một số nghi lễ là chính:
- Lễ mở cửa Tháp (Pơh băng yang)
Đây là nghi lễ mở đầu cho các nghi lễ cúng tế ở các Đền, Tháp của người Chăm.
Thời gian vào thượng tuần trăng tháng 1 theo lịch Chăm (khoảng tháng 4 dương lịch).
Nghi lễ diễn ra tại Tháp Pô Klong Girai, Tháp Pô Rômê và Đền Pô Nưgar. Mục đích của
lễ này là dâng lễ vật lên các vị Thần ở Đền, Tháp, cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng
tươi tốt, dân làng khoẻ mạnh, ấm no hạnh phúc, người dân được phép khai mương, đắp
đập, chuẩn bị cho việc gieo trồng và sản xuất…
Điều hành lễ mở cửa Tháp là các chức sắc thuộc tôn giáo Bàlamôn như sư cả (Pô
Dhia), các Paseh và các vị chức sắc trong tín ngưỡng như Kadhar (thầy Kòke), bà bóng
(muk Pajơw), ông từ (ong Chamưnei)…
Các Thần linh được người dân khấn cầu cúng tế như Thần mưa, Thần núi, Thần
biển, Thần sông, Thần lửa… và các vị Vua của dân tộc được Thần Thánh hóa như Pô
Nưgar (Thần mẹ xứ sở), Pô Klong Girai, Pô Rômê, Pô Bin Thuôr, các hoàng hậu…
Nghi lễ mở cửa Tháp bao gồm các nghi thức như mở cửa Tháp, tắm tượng Thần,
mặc y phục cho Thần và đại lễ…
Đây là nghi lễ diễn ra hàng năm, có cả chức sắc Chăm Bàlamôn, chức sắc trong
tín ngưỡng và đồng bào Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận tham gia theo từng vùng Tháp.
- Lễ múa tống ôn đầu năm (Rija Nưgar)
Lễ múa tống ôn đầu năm là một nghi lễ rất quan trọng của người Chăm ở Ninh
Thuận (cả Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni). Nghi lễ diễn ra vào 02 ngày thứ năm và thứ
sáu tuần đầu thượng tuần trăng tháng 01 hàng năm theo lịch Chăm (khoảng tháng 4
dương lịch) ở tất cả các làng của người Chăm.
ý nghĩa trong lễ múa tống ôn đầu năm là người dân đưa các lễ vật cúng tế cho các
Thần để cầu mong những Thần linh tống khứ điều xấu xa, xui xẻo, bệnh tật, mất mùa…

trong năm cũ, ban cho những điều tốt lành trong năm mới như mưa thuận gió hoà, mùa
màng bội thu, dân làng khoẻ mạnh, ấm no và hạnh phúc…
Các lễ vật dâng cúng, chức sắc hành lễ, các vị Thần được người dân kêu cầu cúng
tế (đã nêu trong mục 1.2.2).

- Lễ cầu đảo ở các Đền, Tháp (Yôr Yang hay Yuơr Yang)
Lễ cầu đảo ở các Đền Tháp diễn ra vào thượng tuần trăng tháng 4 theo lịch Chăm
(khoảng tháng 7 dương lịch) tại 03 Đền Tháp ở vùng Chăm Ninh Thuận: Tháp Pô Klong
Girai, Tháp Pô Rômê và Đền Pô Nưgar. Thời gian diễn ra nghi lễ là vào mùa hè nắng
nóng khô hạn, nên ý nghĩa của nghi lễ này là dâng làng cầu mong Thần linh phù hộ ban
cho mưa xuống để cho dân làng cày cấy chuẩn bị gieo trồng.
Các chức sắc cúng lễ gồm có các chức sắc thuộc tôn giáo Bàlamôn và các chức
sắc thuộc tín ngưỡng. Nghi lễ diễn ra trong thời gian 02 ngày 01 đêm. Các vị Thần được
kêu cầu cúng tế gồm các Thần núi, Thần sông, Thần biển, Thần mưa, Thần gió và các vị
vua của dân tộc có công trong việc xây dựng các công trình thủy lợi và hướng dẫn người
dân sản xuất được người dân tôn thờ như những vị Thần như Pô Klong Girai, Pô Rômê,
Pô Nưgar…
Trong nghi lễ cầu đảo ở Đền, Tháp gồm có các nghi thức theo thứ tự: Lễ tẩy uế
Đền, Tháp; lễ đốt Thần lửa; lễ cúng Thần Đền, Tháp và lễ đắp đập. “Trong đó nghi lễ và
chủ đề chính là lễ đốt Thần lửa. Đây là sự tái tạo, thu nhỏ của các nghi lễ cộng đồng
Chăm liên quan đến tục thờ Thần lửa, Thần mặt trời, Thần nông, Thần thủy lợi… của
một cư dân nông nghiệp làm lúa nước. Lễ này còn nhằm hướng tới sự cân bằng âm
dương (nước-lửa) của vũ trụ với nhiều tên gọi dân gian khác nhau như lễ đốt Thần lửa, lễ
cầu đảo,… Vì lễ này gắn liền với nông nghiệp như cầu mưa, đắp đập, ngăn sông… một
sự kiện quan trọng đối với cư dân nông nghiệp nên ngày xưa, lễ này cũng là ngày hội của
người nông dân chuẩn bị cho công việc đồng áng… Ngày nay do sự phát triển về khoa
học kỹ thuật-đặc biệt là công tác thủy lợi nên nghi lễ này dừng lại ở phần lễ, còn phần hội
không còn nữa. Đồng bào chỉ xem đây là công việc của các vị chức sắc [42, tr.130-131].
- Lễ hội Katê
Đây là một trong những nghi lễ lớn nhất của cộng đồng người Chăm ở Ninh

Thuận (cả Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni). Trong đó, người Chăm Bàlamôn thường xem
nghi lễ này như là một ngày tết của dân tộc.
Lễ hội Katê diễn ra vào ngày 1 tháng 7 hàng năm theo lịch Chăm (khoảng tháng
10 dương lịch). Đầu tiên, lễ hội diễn ra tại các Đền Tháp như Tháp Pô Klong Girai, Tháp
Pô Rômê, Đền Pô Nưgar, rồi lễ hội diễn ra ở làng, sau đó là từng hộ gia đình.

Lễ hội Katê có ý nghĩa là tưởng nhớ tổ tiên, ông bà và các vị Vua có công với
nước, mừng kết thúc một mùa thu hoạch và chuẩn bị bước vào vụ mới. Trong ngày lễ
chính (ngày lên Tháp), bà con người Chăm (cả Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni) và các dân
tộc anh em lên Tháp rất đông để chứng kiến lễ hội. Sau nghi lễ trên Tháp và ở làng thì
từng gia đình tổ chức lễ như ngày tết, có mời khách đến chung vui, anh em họ hàng thăm
nhau, không khí thật vui nhộn và đoàn kết…
Các chức sắc tham gia hành lễ của lễ hội Katê gồm có các chức sắc thuộc tôn giáo
Bàlamôn như sư cả (Pô Dhia), phó sư cả (Pô Bach), Paseh, các chức sắc thuộc tín ngưỡng
như ông thầy kò ke (ông Kadhar), bà bóng (muk Pajơw), ông từ (ông Chamưnei)…
Lễ vật dâng cúng gồm: 01 con dê, 03 con gà, 05 mâm cơm, canh, 01 mâm cơm
với muối vừng, 03 cỗ bánh gạo, hoa quả. Ngoài ra, còn có trứng, trầu cau, xôi chè…
Lễ hội Katê gồm có các bước như rước y phục của vua từ nơi cất giữ lên Tháp.
Bước này tổ chức rất trọng thể, sau đó là nghi thức mở cửa Tháp, kế tiếp là nghi thức tắm
tượng vua (Thần), nghi thức mặc áo cho tượng vua (Thần) và cuối cùng là đại lễ. Sau
phần đại lễ là phần hội-phần múa hát của các đội văn nghệ ở các thôn hoà cùng với tiếng
trống ghi năng và kèn Saranai, không khí thật vui nhộn.
Sau khi lễ hội kết thúc ở trên Tháp thì lễ hội diễn ra trong phạm vi làng, sau đó là
từng gia đình…
Ngày nay lễ hội Katê là một lễ hội lớn nhất, mang tính cộng đồng rộng rãi và vui
nhộn nhất của người Chăm ở Ninh Thuận. Lễ hội này được đồng bào xem như là một
ngày tết của dân tộc. Hàng năm, cứ đến ngày diễn ra lễ hội thì các ngành, các cấp của
tỉnh quan tâm tổ chức rất chu đáo để đồng bào đón lễ hội vui vẻ, an toàn, tiết kiệm và
đoàn kết. Ngoài ra, các ngành, các cấp thường tổ chức thành nhiều đoàn để đi thăm và
tặng quà cho các Tháp, Đền, gia đình các chức sắc, nhân sĩ, trí thức Chăm tiêu biểu, các

gia đình người Chăm có công với cách mạng… Từ đó làm cho đồng bào Chăm thêm tin
tưởng vào Đảng và Nhà nước ta…
- Lễ hội cúng Nữ Thần mẹ xứ sở (lễ hội Chabur)
Lễ hội được tổ chức vào tháng 9 hàng năm theo lịch Chăm (khoảng tháng 12
dương lịch) tại các Đền, Tháp của người Chăm, trong đó tập trung nhất là diễn ra ở Đền
Pô Nưgar.

Đây là nghi lễ nhằm tưởng nhớ công lao của các vị Nữ Thần, trong đó đặc biệt là Nữ
Thần mẹ xứ sở (Pô Nưgar); đồng thời cầu xin các vị Thần ban cho mưa thuận gió hoà, mùa
màng bội thu, dân làng khoẻ mạnh, ấm no, hạnh phúc…
Các nghi thức trong lễ hội Chabur cũng giống như trong lễ hội Katê như: lễ rước
y phục của Nữ Thần Pô Nưgar, lễ mở cửa Đền, lễ tắm tượng Pô Nưgar, lễ mặc trang phục
cho Thần và cuối cùng là đại lễ. Ngoài ra, còn có tục rước trầm hương, múa phồn thực,
tục táng gạo và các nghi lễ cầu xin con cái, cầu lộc, cầu tài, may mắn…
Có thể nói rằng, Chabur là lễ hội có một vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm
linh của người Chăm Ninh Thuận. Cả trước đây và ngày nay, theo truyền thuyết, Pô
Nưgar là người đã sinh ra dân tộc Chăm và hướng dẫn dân tộc Chăm cách sản xuất. Vì
vậy, đối với người Chăm, bà được kính trọng, tôn thờ, rất linh thiêng và niềm tin ấy đã ăn
sâu vào tâm trí của mọi người Chăm qua bao thế hệ và tồn tại đến ngày hôm nay…
- Lễ cầu đảo tại các cửa biển (Plao Sah hay Palau Pasah)
Lễ cầu đảo tại các cửa biển còn gọi là lễ cầu mưa, được tiến hành vào thượng tuần
trăng tháng 2 theo lịch Chăm (khoảng tháng 5 dương lịch), tại các cửa biển. Tham gia lễ
hội cầu đảo có cả chức sắc thuộc tôn giáo Bàlamôn, chức sắc thuộc tôn giáo Bàni, các
chức sắc thuộc tín ngưỡng, cộng đồng Chăm Bàlamôn và Bàni ở Ninh Thuận.
ý nghĩa của lễ hội cầu đảo là tạ ơn Thần linh đã ban cho mưa thuận, gió hoà, mùa
màng bội thu trong năm cũ và tiếp tục cầu xin Thần linh giúp cho mưa thuận, gió hoà trong
năm mới để cho người dân sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra lễ cầu đảo còn thể hiện sự cầu xin
cho sự sinh sôi, nảy nở của con người và tự nhiên-đặc biệt là sự sinh sôi nảy nở tươi tốt
của mùa màng.
Từ sau ngày giải phóng miền nam 1975, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ

thuật-đặc biệt là công tác thủy lợi nên lễ này không còn thực hiện nữa.
- Lễ chặn đầu nguồn nước tại các con sông (ngak yang pakap halâu Krong
(Kraung))
Lễ chặn đầu nguồn nước được tiến hành vào hạ tuần trăng tháng 8 hàng năm theo
lịch Chăm (khoảng tháng 11 dương lịch), thời gian mà đồng bằng miền trung sắp sửa có
những trận lũ lụt lớn.

Tham gia lễ chặn nguồn nước có cả chức sắc Bàlamôn và chức sắc Bàni, chức sắc
thuộc tín ngưỡng và cộng đồng Chăm Bàlamôn và Bàni ở Ninh Thuận.
Nếu như lễ cầu đảo được tiến hành tại nơi cuối nguồn của các con sông (nơi các
con sông đổ ra biển) thì lễ chặn nguồn nước được tổ chức tại nơi đầu nguồn của các con
sông.
ý nghĩa của lễ chặn nguồn nước là đồng bào Chăm tạ ơn các Thần linh đã ban
mưa xuống cho người dân sản xuất, đồng thời cầu xin các vị Thần linh phù hộ đừng cho
mưa và nước đổ xuống nữa để khỏi gây ra lũ lụt, tạo điều kiện cho dân làng thu hoạch và
chuẩn bị vào sản xuất vụ mới…
Ngày nay, lễ này không còn thực hiện nữa.
- Lễ chém trâu tế Thần tại núi Đá Trắng (ngak Kabau pak chơk yang Patau)
Lễ chém trâu tế Thần tại núi Đá Trắng được tổ chức 7 năm một lần vào tháng 7
theo lịch Chăm (khoảng tháng 10 dương lịch). Lễ được tổ chức tại núi Đá trắng (thôn
Như Bình-xã Phước Thái-Huyện Ninh Phước).
Lễ này gắn liền với nhiều truyền thuyết liên quan đến con “Trăn Tinh”. ý nghĩa
của lễ là dân làng cúng tế để con “Trăn Tinh” khỏi quậy phá mùa màng và cuộc sống của
con người. Lễ này do ông cai quản ruộng đất (ông Riya Hamu), ông cai đập (ông Binưk),
ông thầy vỗ (ông Kadhar), bà bóng (Muk Pajơw) hành lễ cùng với bà con dân làng ở thôn
Như Bình-Lễ vật gồm một con trâu trắng, gà, bánh trái…
Trước năm 1975, lễ này thực hiện thường xuyên 7 năm một lần, đến năm 1983 lễ
này còn thực hiện. Từ 1983 đến nay lễ này không còn thực hiện nữa. Điều này có thể
hiểu rằng, nhiều nghi lễ không phù hợp với đời sống mới sẽ phai dần một khi kinh tế và
đời sống của đồng bào phát triển cao hơn.

Trên đây là một số nghi lễ chính của nghi lễ nông nghiệp mang tính cộng đồng
của người Chăm ở Ninh Thuận.
- Các nghi lễ liên quan đến chu kì sinh trưởng của cây lúa
Ngoài các nghi lễ mang tính cộng đồng có liên quan đến quá trình sản xuất nông
nghiệp, trước đây (trước năm 1975), người Chăm thường xuyên thực hiện các nghi lễ có
liên quan đến chu kì sinh trưởng của cây lúa (lễ này mang tính gia đình) như: lễ dựng
chòi cày, lễ cúng Thần ruộng lúc lúa đẻ nhánh, lễ cúng khi lúa làm đòng, lễ cúng chuẩn

bị thu hoạch, lễ cúng mừng lúa về nhà… Trong các nghi lễ đó, lễ cúng Thần ruộng lúc
lúa đẻ nhánh (iêu Pô bhum) là quan trọng nhất.
Thời gian để thực hiện lễ cúng Thần ruộng là lúc ruộng lúa đẻ nhánh. Lễ vật gồm
01 con dê, 05 mâm cơm, 05 đĩa xôi, 05 chén chè, 03 hột gà, 10 lá trầu, 10 quả cau, 01
chai rượu trắng. Người thực hiện lễ này là ông cai quản ruộng đất (ông Riya Hamu). Các
vị Thần được kêu cầu cúng tế như Pô Nưgar, Pô Klong Girai, Pô Rômê, tức là những vị
vua có công với nước, đặc biệt là có công trong việc chỉ đạo xây dựng các công trình
thủy lợi để phục vụ sản xuất cho người Chăm.
Từ sau 1975 đến nay, do quá trình tập thể hoá rồi đến khoán sản phẩm, các nghi lễ
liên quan đến chu kì sinh trưởng của cây lúa, không còn thực hiện nữa. Hầu hết người
Chăm ở Ninh Thuận đã bỏ hẳn các nghi lễ này.
1.2.4. Tín ngưỡng là cơ sở nền tảng cho tôn giáo
Qua một số nghi lễ thuộc tín ngưỡng của người Chăm ở Ninh Thuận đã nêu ở
trên ta thấy tín ngưỡng của người Chăm phong phú, đa dạng.
Trong một thời kỳ mà trình độ khoa học chưa phát triển, con người chưa giải thích
được các hiện tượng huyền bí của thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, sóng Thần, động đất,
núi lửa…. nên con người cảm thấy bé nhỏ và bất lực trước thiên nhiên là điều dễ hiểu và
người ta đã đặt cho các hiện tượng đó như các vị Thần có tính mầu nhiệm. Để thoát khỏi
tai ương trong cuộc sống, được che chở, con người đã mang các lễ vật để cúng cho các vị
Thần linh và cầu mong cho các vị Thần phù hộ ban cho mưa thuận gió hoà, mùa màng
tươi tốt, dân làng khoẻ mạnh, ấm no, hạnh phúc.
Theo thời gian, các nghi lễ đó được thực hiện, tồn tại và kéo dài đến tận ngày nay.

Tuy nhiên, có một số nghi lễ không còn phù hợp với đời sống hiện tại, tốn kém tiền bạc
của người dân, đã không còn tồn tại nữa…
Mặc dù vậy, tín ngưỡng của người Chăm là nền tảng của các tôn giáo khi các tôn
giáo này du nhập vào người Chăm như ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo… Trong đó, đặc
biệt nhất là ấn Độ giáo. Thể hiện rõ nhất là hiện nay trong tín ngưỡng, tôn giáo Chăm có
sự đan xen, khó phân biệt rạch ròi. Có nhiều nghi lễ đồng thời là của tín ngưỡng, đồng
thời là của tôn giáo như lễ hội Katê, lễ hội Chabur….Hoặc có một số nghi lễ mà ở đó có
sự tham gia đầy đủ các chức sắc thuộc tín ngưỡng và chức sắc các tôn giáo như lễ cầu

đảo, lễ chặn nguồn nước, lễ hội Katê…Như vậy có thể khẳng định rằng tín ngưỡng của
người Chăm là cơ sở, là nền tảng cho các nghi lễ của tôn giáo sau này.
1.3. Tôn giáo của người Chăm ở Ninh Thuận
1.3.1. Khái niệm về tôn giáo
Bàn về tôn giáo là bàn về một lĩnh vực khá rộng, đa dạng và phức tạp. Từ trước
đến nay đã có nhiều quan điểm bàn về vấn đề tôn giáo. Theo ông Đặng Nghiêm Vạn thì
“Tôn giáo là một thực thể khách quan của loài người, nhưng là một thực thể có nhiều biểu
hiện rất phức tạp cả về nội dung cũng như về hình thức. Tính đa dạng của tôn giáo phản ánh
tính đa dạng của văn hoá mà tôn giáo là một bộ phận văn hoá tinh thần (Spirituel) hay phi vật
thể” [58, tr.48] và theo ông “nội dung bản chất của bất kỳ tôn giáo nào cũng cự tuyệt với
những điều ác, xấu, cũng mong vươn đến cái tuyệt đối, cái chân, thiện, mỹ… Nên ở bất
kỳ tôn giáo nào, trong nội dung cũng bao hàm cuộc đấu tranh giữa hai yếu tố tốt và xấu
nhằm duy trì niềm tin và ước mơ của cộng đồng, của cá nhân. Điều đó được phản ánh
trong nội dung của từng hình thái tôn giáo hay tổng thể tôn giáo của một cộng đồng, tùy
theo tính chất của tôn giáo là độc Thần, đa Thần hày phiếm Thần. Nội dung đó được thể
hiện bằng những nghi thức, những kiêng cữ, những hành vi tẩy uế đảm bảo sự trong sạch,
tính thiện theo quan niệm của từng cộng đồng và từng cá nhân trong cộng đồng tôn giáo”
[58, tr.48-49].
Tóm lại “đã nói đến tôn giáo dù nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều phải đụng chạm
đến vấn đề 02 thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của người sống
và thế giới sau khi chết, thế giới của các vật thể vô hình” [58, tr.69].

Về định nghĩa tôn giáo có thể kể như E.Tylor cho rằng: “Nếu hiểu tôn giáo là
niềm tin đối với một đấng tối cao, sự phán xét sau khi chết, thờ cúng các Thần tượng, có
tập tục hiến tế, hay có các giáo thuyết hoặc nghi thức nào tương đối phổ biến, thì tất
nhiên phải gạt bỏ nhiều bộ lạc ra khỏi thế giới tôn giáo” [58, tr.54].
Hay theo J.Frajer “Tôn giáo mà tôi nói đến là sự tiếp nhận hoặc sự an ủi hoặc sự
trừng phạt của hiện tượng siêu nhiên được con người tin rằng lực lượng ấy có thể chỉ đạo,
khống chế tự nhiên và cuộc sống của con người” [58, tr.55]. Theo ông Đặng Nghiêm Vạn
thì

Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách
siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế,
cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc
vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lí-văn hoá khác nhau, phụ thuộc vào
nội dung một tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn
giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội hay tôn giáo [58, tr.145].
Tuy có nhiều quan điểm hay định nghĩa về tôn giáo nhưng đến nay, định nghĩa
của Ăngghen trong tác phẩm “Chống Duyrinh" vẫn được xem là chuẩn mực và còn
nguyên giá trị: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo-vào trong đầu óc
của con người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ;
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trên trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế” [51, tr.12-13].
1.3.2. Tôn giáo Bàlamôn của người Chăm ở Ninh Thuận
Đạo Bàlamôn du nhập vào người Chăm khoảng thế kỷ I sau Công nguyên. Căn cứ
vào bia võ cạnh (Nha Trang) đã chứng minh rõ điều này. Người Chăm tiếp nhận
Bàlamôn của ấn Độ trên cơ sở giao lưu văn hoá và cải biên thành đạo Bàlamôn của người
Chăm hiện nay có nét riêng biệt.
Nền văn hoá ấn Độ nói chung và tôn giáo ấn Độ nói riêng, đặc biệt là Bàlamôn
giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn hoá Chăm, làm cho văn hoá Chăm phong phú,
đa dạng… Điều đó thể hiện rõ ở các công trình kiến trúc, điêu khắc, chữ viết và trong

việc thờ cúng các vị Thần.
Người Chăm Bàlamôn ngoài việc thờ các vị Thần của tự nhiên như Thần núi,
Thần mưa, Thần gió… và các vị vua có công với nước, thì họ còn tôn thờ 03 vị Thần của
ấn Độ giáo như Thần Brahma, Thần Shiva, Thần Vishnu, trong đó phổ biến nhất là Thần
Shiva.
Ngày nay, văn hoá ấn Độ vẫn còn ảnh hưởng và chi phối khá mạnh mẽ đến toàn
bộ đời sống của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, trong đó, rõ nhất là Chăm
Bàlamôn (Chăm ảnh hưởng ấn Độ giáo, còn gọi là Ahier).
1.3.2.1. Đặc điểm về hệ thống các Thần và các cơ sở tế lễ

×