Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

LUẬN VĂN: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện và củng cố bộ máy quản lý của Công ty xây dựng II Thanh Hoá docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.2 KB, 88 trang )














LUẬN VĂN:
Một số ý kiến nhằm hoàn thiện và củng
cố bộ máy quản lý của Công ty xây dựng
II Thanh Hoá





Lời nói đầu
Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý là một đòi hỏi khách quan đối với nhiều doanh
nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường như hiện nay. Đây là một vấn đề khó khăn do
lực lượng lao động làm công tác quản lý là lao động có trình độ cao, mỗi hoạt động của họ
đều gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Trong một Công ty, bộ máy quản lý đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của Công ty đó. Nếu một bộ máy được đảm bảo gọn nhẹ, linh hoạt, có trình độ thì chắc
chắn bộ máy đó sẽ làm cho Công ty phát triển nhanh chóng.
Xuất phát từ thực tế là bộ máy quản lý của công ty xây dựng II_Thanh hoá mới


được hình thành do sự sát nhập hai bộ máy của hai Công ty sau qúa trình sát nhập giữa
Công ty với Công ty Đường C, nên còn có nhiều vấn đề tồn tại cần phải khắc phục trong
thời gian tới. Vì vậy, hoàn thiện bộ máy quản lý là một điều cần thiết. Có như vậy, bộ máy
mới phát huy được vai trò của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, song
để làm được công tác nay hoàn toàn không phải là đơn giản bởi vì trong quá trình hoàn
thiện tất yéu khong tránh khỏi sự đụng chạm tới quyền lợi vị trí của nhiều cán bộ công
nhân viên trong Công ty.
Trong quá trình nghiên cứu thực tập tốt nghiệp tại Công ty, tôi đã nhận thấy sự cần
thiết phải thực hiện đề tài này. Lý do chính xuất phát từ thực té bộ máy của Công ty còn
có sự cồng kềnh, bố trí lao động chưa hợp lý, thời gian làm việc của các cán bộ công nhân
viên chưa đảm bảo Đây thực sự là những lý do cơ bản làm cho bộ máy quản lý của Công
ty hoạt động chưa có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở tình hình thực tế về bộ máy quản lý của Công ty, bằng các phương pháp
nghiên cứu như khảo sát, thống kê, phân tích tổng hợp số liệu bài viết của tôi đã đi sâu
nghiên cứu thực trạng tổ chức bộ máy quản lý, nghiên cứu các kinh nghiệm đã thành công
trong công tác tổ chức bộ máy của một công ty và kết hợp với lý thuyết đã được tích lũy
trong quá trình học tập vận dụng vào trong thực tế để đưa ra những kiến nghị giải pháp
nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. Tôi hi vọng rằng với những hiểu
biết, những ý kiến của bản thân có thể đóng góp được cho Công ty những điều cần thiết
trong quá trình hoàn thiện công tác quản lý nhằm xây dựng được một bộ máy quản lý năng
động, sáng tạo và đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh chung của Công
ty, đưa Công ty trở thành một công ty hàng đầu trong ngành xây dựng.
Luận văn tốt nghiệp của tôi gồm các phần sau:
Chương I - Cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy quản lý trong công ty.
Chương II - Phân tích thực trạng về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty
xây dựng II_Thanh hoá.
Chương III - Một số ý kiến nhằm hoàn thiện và củng cố bộ máy quản lý của
Công ty.
.















Chương i

cơ sở lý luận về bộ máy quản lý
trong một công ty

I – Những khái niệm cơ bản và một số mô hình tổ chức quản lý.
A. Những khái niệm cơ bản.

1. Khái niệm về tổ chức, quản lý tổ chức và vai trò của tổ chức quản lý.

Tổ chức: Để thực hiện một công việc, một mục tiêu xác định thì cần phải có sự tổ
chức các cá nhân trong tổ chức đó thành những thành viên có chức năng nhiệm vụ nhất
định để cùng thực hiện nhiệm vụ chung của tổ chức. Việc tổ chức như vậy sẽ biểu thi công
việc mà mỗi người làm có một mục đích hoặc có một mục tiêu nhất định song lại phải tạo
ra sự ăn khớp với cả nhóm, những thành viên khác để cùng kết hợp nhằm hoàn thành
nhiệm vụ chính do đó mà nảy sinh tổ chức.
Vậy, tổ chức được hiểu là sự liên kết những cá nhân, những quá trình, những hoạt

động trong hệ thống nhằm thực hiện những mục đích đề ra của hệ thống dựa trên cơ sở các
nguyên tắc và quy tắc quản trị.
Quản lý: Đó là sự tác độngcó hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý,
nhằm duy trì hoạt động của hệ thống sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng sẵn có, các
cơ hội để đưa hệ thống đến mục tiêu đã đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Qua khái niệm trên ta thấy:
Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hoặc một nhóm nhất định trong xã hội.
Tức là hoạt động quản lý chỉ tồn tại trong một nhóm người.
Quản lý gồm công việc chỉ huy tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công
việc và đạt mục đích của cả nhóm.
Vai trò của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đều nhằm thực hiện một số
mục tiêu nhất định. Để thực hiện được những mục tiêu đó, mỗi doanh nghiệp đòi hỏi phải
có lực lượng điều hành toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện. Lực lượng này chính là lực
lượng quản lý doanh nghiệp và hình thành nên bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Nhưng
để đảm bảo sự thống nhất, ăn khớp trong điều hành sản xuất kinh doanh thì trong doah
nghiệp phải có người điều hành trực tiếp chỉ đạo lực lượng quản lý, thực hiện nhiệm vụ bố
trí, sắp xếp sao cho phù hợp với mỗi nhân viên quản lý vào từng nhiệm vụ có thể đảm bảo
sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong cơ cấu nhằm khai thác tối ưu tiềm
năng chuyên môn, trí sáng tạo của mỗi người trong việc thực hiện những mục tiêu đã đề
ra như năng suất, chất lượng, doanh thu, lợi nhuận…
Như vậy, mỗi doanh nghiệp nếu như không có một bộ máy quản lý thì không một
lực lượng nào có có thể tiến hành nhiệm vụ quản lý được. Ngược lại, không một quá trình
tổ chức nào lại có thể thực hiện được nếu như không có bộ máy quản lý.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp.
a. Cơ cấu tổ chức.
Đó chính là hình thức tồn tại của tổ chức, nó nói lên sự sắp đặt theo trật tự nào đó
của bộ phận của tổ chức cùng các mối quan hệ giữa chúng.
Trong nội bộ tổ chức tồn tại hai mối liên hệ chủ yếu giữa các yếu tố cấu thành nên
tổ chức, đó là:

- Mối liên hệ dọc của tổ chức cấp trên và cấp dưới.
- Mối liên hệ ngang của các yếu tố ngang cấp.
Cơ cấu tổ chức trực tiếp quyết định hệ thống chỉ huy và mạng lưới thông suốt trong
tổ chức. Do đó, cơ cấu tổ chức thích hợp là hết sức quan trọng đối với việc thực hiện có
hiệu quả những mục tiêu của tổ chức.
Tóm lại, cơ cấu tổ chức là một kết cấu phân tầng lớp từ trên xuống dưới thể hiện
hình thức lãnh đạo theo hình chóp, đứng đầu là người lãnh đạo cao nhất sau đó đến các bộ
phận lãnh đạo thấp hơn cho đến tầng cuối cùng.
Do có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức nên việc tổ chức cơ cấu của tổ
chức phải hết sức hợp lý, xử lý xác đáng mối quan hệ giữa các cấp của tổ chức và mức độ
quản lý. Cần có sự phân định rõ ràng giữa quyền hạn chức năng và nhiệm vụ của các cấp
trong tổ chức nhằm phát huy hiệu suất của các cá nhân từ đó làm lợi cho việc nâng cao
hiệu quả công tác nói chung.
b. Cơ cấu tổ chức bộ máy doanh nghiệp.
Tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,
được chuyên môn hoá và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí theo
những cấp, từng khâu khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và thực
hiện mục đích chung đã xác định của doanh nghiệp được gọi là cơ cấu tổ chức bộ máy tổ
chức của doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức quản lý là hình thức phân công lao động trong lĩnh
vực quản trị, nó có tác động đến quá trình hoạt động của tổ chức quản lý. Cơ cấu tổ chức
quản lý một mặt phản ánh cơ cấu trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất, mặt
khác nó có tác động tích cực trở lại đến việc phát triển sản xuất.
c. Bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Bao gồm tập hợp những người có trình độ có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng trong
quá trình tiến hành hoạt động quản lý doanh nghiệp.
3. Những yêu cầu đối với tổ chức quản lý.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý phải đảm bảo những yêu
cầu sau:
a. Tính tối ưu.
Giữa các khâu và các cấp quản lý ( khâu quản lý phản ánh cách phân chia chức

năng quản lý theo chiêù ngang, cấp quản lý lại thể hiện sự phân chia chức năng quản lý
theo chiều dọc) đều thiết lập những mối liên hệ hợp lý với số lượng cấp quản lý ít nhất
trong hệ thống cho nên cơ cấu quản lý mang tính năng động cao, luôn đi sát và phục vụ
mục đích đề ra của doanh nghiệp.
b. Tính linh hoạt.
Cơ cấu tổ chức quản lý phải đảm bảo khả năng thích ứng linh hoạt với bất kỳ tình
huống nào xảy ra trong hệ thống cũng như ngoài môi trường.
c. Tính tin cậy.
Cơ cấu tổ chức quản lý phải đảm bảo tính chính xác của mọi thông tin được xử lý
trong hệ thống, nhờ đó đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hoạt động và nhiệm vụ
của tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp.
d. Tính kinh tế.
Cơ cấu bộ máy quản lý phải sử dụng với chi phí quản lý thấp nhất nhưng đạt hiệu
quả cao nhất. Tiêu chuẩn xem xét yêu cầu này là mối tương quan giữa chi phí dự định bỏ
ra và kết quả sẽ thu về.
e. Tính bí mật.
Trong giai đoạn hiện nay, sự khốc liệt trong cạnh tranh của cơ chế thị trường đòi
hỏi các doanh nghiệp phải kiểp soát chặt chẽ thông tin mang tính chiến lược. Điều đó đòi
hỏi giữ gìn được nội dung hoạt động của mỗi bộ phận và của cả bộ máy, chống sự rò rỉ
mất cắp thông tin do các đối thủ cạnh tranh luôn có sự kình địch và thường xuyên theo dõi
bám sát nhau trên thương trường.
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Mục đích của việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tổ chức bộ máy quản lý
doanh nghiệp là nhằm tìm ra một mô hình tổ chức quản lý góp phần nâng cao hiệu quả của
doanh nghiệp. Không một yếu tố riêng lẻ nào có thể quyết định mô hình tổ chức bộ máy
quản lý của công ty, mà tổ chức bộ máy quản lý của công ty chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố và các yếu tố này lại thay đổi tùy theo từng trường hợp.
a. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, một điều được chấp nhận chung là nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và tổ
chức bộ máy quản lý là hai mặt không thể tách rời nhau trong công tác quản lý doanh

nghiệp.
Chendler đã tiến hành nghiên cứu nhiều doanh nghiệp lớn ở Hoa Kỳ như: Dupond,
Scars, Standart Oil, đã đi đến kết luận là khi có sự thay đổi nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh cấp công ty thì bộ máy quản lý cũng phải thay đổi theo. Lý do chính khiến các công
ty phải thay đổi bộ máy quản lý là vì bộ máy quản lý cũ gây ra sự kém hiệu quả trong việc
phấn đấu đạt được những nhiệm vụ của công ty khi có sự thay đổi trong sản xuất kinh
doanh . Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng có sự thay đổi về nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh cũng có sự thay đổi bắt buộc của bộ máy quản lý. Song, các kết quả nghiên cứu đều
ủng hộ ý tưởng bộ máy quản lý cần đi kèm theo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
b. Quy mô và độ phức tạp của doanh nghiệp.
Ban lãnh đạo phải nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý sao cho có thể quản lý được
toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quy mô càng lớn và phức tạp
thì các hoạt động của doanh nghiệp cũng càng nhiều và phức tạp. Do đó bộ máy quản lý
càng phải được tổ chức một cách hợp lý, sao cho vẫn đảm bảo quản lý được toàn bộ các
hoạt động của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo bộ máy quản lý không bị cồng kềnh và quá
phức tạp về cơ cấu.
c. Địa bàn hoạt động.
Việc mở rộng địa bàn hoạt động hoặc phân tán địa bàn hoạt động cũng đòi hỏi có sự
bố trí lại lao động nói chung và lao động quản lý nói riêng, do đó sẽ dẫn đến sự xuất hiện
của một cơ cấu tổ chức quản lý mới. Như vậy, sự thay đổi địa bàn hoạt động của doanh
nghiệp cũng ảnh hưởng đến bộ máy quản lý.
d. Công nghệ.
Đặc điểm chung và mức độ phức tạp của công nghệ mà doanh nghiệp đang sử dụng
có thể ảnh hưởng đến việc tổ chức bộ máy quản lý. Cụ thể là các doanh nghiệp chú trọng
đến công nghệ cao thì thường có định mức quản lý thấp, bộ máy quản lý phải được bố trí
sao cho tăng cường khả năng của doanh nghiệp và có thể thích ứng kịp thời trước sự thay
đổi nhanh chóng của công nghệ. Các doanh nghiệp khai thác công nghệ mới thường có xu
hướng sử dụng cán bộ có trình độ học vấn cao và có kinh nghiệm về kỹ thuật, các cán bộ
quản lý có chủ trương đầu tư cho các dự án hướng vào hậu thuẫn và việc duy trì sức mạnh
về công nghệ của doanh nghiệp, hệ thống cơ cấu tổ chức phù hợp với hệ thống công nghệ

và đảm bảo sự phối hợp một cách chặt chẽ trong việc ra các quyết định liên quan đến kinh
doanh và công nghệ.
e. Mức độ phức tạp của môi trường kinh doanh.
Mức độ phức tạp của môi trường kinh doanh cũng có ảnh hưởng tới bộ máy tổ chức
quản lý. Trong điều kiện môi trường kinh doanh ổn định thì các doanh nghiệp cũng có một
bộ máy quản lý ổn định, trong đó việc đưa ra các quyết định thường mang tính tập trung
với những chỉ thị, nguyên tắc cứng rắn, đều có thể quản lý tốt. Ngược lại, những doanh
nghiệp có được thành công trong môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng thường
phải tổ chức bộ máy quản lý có mối liên hệ gắn bó hữu cơ, trong đó việc ra quyết định có
tính chất phân tán với các thể lệ mềm mỏng linh hoạt, các phòng ban có sự liên kết chặt
chẽ với nhau và với các tổ đội đa chức năng.
f. Cơ sở kỹ thuật của hoạt động quản lý và trình độ của cán bộ quản lý.
Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới tổ chức bộ máy quản lý. Khi cơ sở kỹ thuật của
hoạt động quản lý (máy vi tính, điện thọai…) đầy đủ hiện đại, trình độ của cán bộ quản lý
cao có thể đảm nhiệm được nhiều công việc thì nó sẽ góp phần giảm được cán bộ quản lý
trong bộ máy quản lý. Các cán bộ quản lý theo phương cách truyền thống thường thích sử
dụng những cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu truyền thống như tổ chức bộ máy,
quản lý theo bộ phận chức năng và ít khi vận dụng các hình thức tổ chức mới khác như tổ
chức bộ máy quản lý theo mô hình ma trận. Các cán bộ quản lý theo phong cách truyền
thống cũng thích sự kiểm soát tập trung, do đó họ thường không thích những mô hình tổ
chức bộ máy quản lý mang tính phân tán, càng nhiều nhân viên hơn.
g. Thái độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Thái độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên cũng ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy
quản lý doanh nghiệp. Công nhân viên có trình độ học vấn cao và đã qua đào tạo thường
rất có ý thức với công việc được giao và họ có thể hoàn thành tốt khối lượng công việc của
mình. Như vậy, sẽ không cần nhiều lao động quản lý để đôn đốc chỉ huy họ làm việc và số
lượng lao động trong bộ máy quản lý được tinh giảm. Tuy nhiên, cũng có những cán bộ
công nhân viên có thái độ làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, thường không hoàn thành
công việc được giao, đối với các cán bộ công nhân viên như vậy thì cần phải có đủ lao
động quản lý để đôn đốc, kiểm soát công việc của họ. Điều đó làm tăng số lượng cán bộ

quản lý trong doanh nghiêp.
B - Một số mô hình tổ chức bộ máy quản lý.
Cùng với sự phát triển của các hệ thống đã hình thành những cơ cấu tổ chức quản lý
khác nhau. Mỗi kiểu chứa đựng những đặc điểm, ưu điểm, nhược điểm và được áp dụng
trong những điều kiện cụ thể nhất định.
1. Cơ cấu tổ chức trực tuyến (đường thẳng)
Đây là cơ cấu tổ chức đơn giản nhất, trong đó có một cấp trên và một số cấp dưới.
Toàn bộ vấn đề được giải quyết theo một kênh liên hệ đường thẳng. Cấp lãnh đạo trực tiếp
điều hành và chịu trách nhiệm về sự tồn tại của hệ thống. Cơ cấu này được áp dụng phổ
biến cuối thế kỷ 19 trong những doanh nghiệp nhỏ, sản phẩm không phức tạp, tính chất
sản xuất liên tục.
Cơ cấu này dựa trên nguyên tắc “Thống nhất chỉ huy trong mọi hoạt động" theo học
giả H.FASOL, đường trực tuyến cần phải thống nhất, một người, một thủ trưởng.
Đặc điểm cơ bản của cơ cấu tổ chức quản trị theo trực tuyến: Cấp trên lãnh đạo trực
tiếp cấp dưới, cấp dưới tiếp nhận, chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Các mối liên
hệ giữa các thành viên trong tổ chức được thực hiện theo đường thẳng (người thừa hành
mệnh lệnh chỉ nhận lệnh qua một cấp trên trực tiếp và chỉ thi hành theo lệnh của người đó
thôi).
+ Ưu điểm:
- Đơn giản, rõ ràng do thống nhất chỉ huy.
- Khả năng tách biệt rõ ràng các ký hiệu.
- Có hiệu quả khi giải quyết các mâu thuẫn.
+ Nhược điểm:
- Không có sự phân công hợp lý, không có sự điều hành theo chiều ngang.
- Dễ đi đến độc đoán do cá nhân ra quyết định.
- Đòi hỏi người lãnh đạo phải có kiến thức toàn diện, tổng hợp đồng thời
không tận dụng được sự giúp đỡ của các chuyên gia có trình độ cao về từng mặt quản trị
và khi cần thiết liên hệ giữa hai thành viên của các tuyến thì thông tin phải đi đường
vòng.
Cơ cấu tổ chức trực tuyến

2. Cơ cấu chức năng.
Cơ cấu chức năng đầu tiên được áp dụng với thủ lĩnh các mảng công việc của các
đảng phái chính trị và chế độ đốc công của các doanh nghiệp, sau đó được ứng dụng rộng
rãi và phù hợp với khối lượng công tác quản lý ngày càng lớn. Những vụ quản lý được
phân công cho các đơn vị riêng biệt theo các chức năng quản lý và hình thành nên những
người đứng đầu các phân hệ được chuyên môn hoá chỉ đảm bảo chức năng nhất định. Mối
liên hệ giữa các nhân viên trong hệ thống rất phức tạp. những người thừa hành nhiệm vụ ở
cấp dưới nhận mệnh lệnh chẳng những từ người lãnh đạo cao nhất của hệ thống mà còn cả
Thủ trưởng cơ
quan

Người điều
hành trực
Người điều
hành trực
Người điều
hành trực
từ những người lãnh đạo ở các chức năng khác nhau. (nguyên tắc này do Taylor đề xuất và
áp dụng trong tổ chức lao động khoa học ở các xí nghiệp của mình)
+ Ưu điểm:
-Thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên
môn một cách thành thạo hơn.
-Giảm bớt gánh nặng trách nhiệm quản lý cho người lãnh đạo cao nhất của hệ
thống.
+ Nhược điểm:
Người lãnh đạo hệ thống phải phối hợp hoạt động của những người lãnh đạo chức
năng nhưng do khối lượng công tác quản lý, người lãnh đạo cả hệ thống khó có thể phối
hợp được tất cả các mệnh lệnh của họ nên dễ dẫn tới tình trạng cấp dưới cùng lúc phải thi
hành nhiều mệnh lệnh. Thêm vào đó là sự không duy trì được tính kỷ luật, kiểm tra phối
hợp.

Mô hình này phù hợp với xí nghiệp loại nhở hoặc đơn vị hành chính sự nghiệp.
Cơ cấu chức năng :

3. Cơ cấu trực tuyến - tham mưu.
Lãnh
đ
ạo

doanh
nghi
ệp

Ch
ức n
ăng
Ch
ức n
ăng
Ch
ức
Cấp

ới

Cấp

ới

Cấp


ới

Vẫn là cơ cấu trực tuyến, nhưng lãnh đạo đã có bổ sung thêm một bộ phận tham
mưu giúp việc. Đây là một hình thức quản lý kết hợp giữa sự chỉ huy trực tiếp của các cấp
lãnh đạo hành chính trong xí nghiệp và sự chỉ đạo nghiệp vụ của các nhân viên chức năng
các cấp.
+ Ưu điểm:
Cơ cấu này vẫn dễ dàng thực hiện chế độ một thủ trưởng nhưng bước đầu đã biết
khai thác kiến thức của các chuyên gia giúp việc.
+ Nhược điểm:
Tốc độ ra quyết định thường chậm vì có thêm nhiều người để bàn khiến lãnh đạo
phải cân nhắc lâu hơn. cho nên kiểu cơ cấu này có phạm vi sử dụng không lớn lắm, nó chỉ
dùng cho hệ thống có phạm vi hẹp.
Cơ cấu trực tuyến tham mưu

4. Cơ cấu trực tuyến - chức năng.
Mô hình này kết hợp giữa chỉ huy trực tiếp của các cấp lãnh đạo hành chính trong
xí nghiệp và sự chỉ đạo nghiệp vụ của các bộ phận chức năng do đó vừa giữ được ưu điểm
của các cơ cáu trực tuyến và chức năng đồng thời khắc phục được nhược điểm của từng cơ
cấu riêng lẻ.

Lãnh
đ
ạo

Tham mưu

Cấp

ới


Theo cơ cấu này người lãnh đạo được sự giúp đỡ của các phòng ban chức năng
trong việc ra quyết định và hướng dẫn kiểm tra. Mệnh lệnh được truyền theo hướng quy
định. Người lãnh đạo các phòng ban không trực tiếp ra quyết định cho người thừa hành ở
các tuyến.
+ Ưu điểm:
Phát huy được năng lực chuyên môn của các bộ phận chức năng, đồng thời vẫn
đảm bảo quyền chỉ huy của hệ thống trực tiếp.
+ Nhược điểm:
Do có quá nhiều bộ phận chức năng nên lãnh đạo phải tổ chức họp hành nhiều, gây
căng thẳng và lãng phí thời gian. Thêm vào đó là sự mâu thuẫn trong nội bộ có thể xảy ra
do không thống nhất quyền hạn và quan điểm.
Cơ cấu trực tuyến chức năng:

Ngoài những cơ cấu đã trình bày ở trên, hiện nay còn tồn tại một số mô hình tổ
chức quản lý khác như cơ cấu ma trận, cơ cấu chính thức và cơ cấu phi chính thức…
Lãnh đạo doanh
nghi
ệp

Tha
m mưu

Lãnh
đạo
tuyế
n 1
Lãnh
đạo
chức

năng
Lãnh
đạo
chức
năng
Lãnh
đạo
tuyế
n 2
Cấp


Cấp


Cấp


Cấp


Cấp


Cấp


Xã hội ngày càng phát triển dẫn tới sự thay đổi mạnh mẽ trong các đơn vị. Sự phát
triển này gắn liền với sự chuyên môn hoá cao đòi hỏi pgải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các bộ phận trong quá trình tổ chức hoạt động. Vì vậy, hoàn thiện bộ máy quản lý nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức là một điều tất yếu.
II - Lao động quản lý
1. Lao động quản lý, sự phân loại lao động quản lý.
a. Lao động quản lý
Khái niệm:lao động quản lý được hiểu là tất cả những người lao động hoạt động
trong bộ máy quản lý và tham gia vào thực hiện các chác năngquản lý.
Theo C. Mac “lao động quản lý là một dạng lao động đặc biệt của người lao động
sản xuất, để hoàn thành những chức năng sản xuất khác nhau cần phải có quá trình đó”
Doanh nghiệp là một hệ thống được tạo bởi hệ thống bộ phận là hệ thống quản lý và
hệ thống bị quản lý. Hệ thống quản lý bao gồm hệ thống các chức năng quản lý, hệ thống
các bộ phận quản lý (phòng, ban) và những cán bộ nhân viên làm việc trong đó. Hệ thống
bị quản lý là hệ thống sản xuất bao gồm các phân xưởng, bộ phận sản xuất và toàn bộ lưc
lượng lao động, vật tư máy móc và phương tiện sản xuất và phương pháp công nghệ được
bố trí và sử dụng trong đó. Sự tác động của hệ thống quản lý lên hệ thống bị quản lý trong
quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được thông qua quá trình hoạt động
lao động của cán bộ công nhân viên làm việc trong bộ máy quản lý và những người thực
hiện các chức năng quản lý.
Trong doanh nghiệp, lao động quản lý bao gồm những người lao động hoạt động
trong bộ máy quản lý và những người thực hiện các chức năng quản lý, đó là: Ban giám
đốc, lãnh đạo phòng ban các nhân viên làm việc trong trong các phòng ban chức năng và
một số người phục vụ khác.
Lao động quản lý đóng vai trò quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp.
b. Sự phân loại quản lý.
+ Theo chức năng, vai trò của họ đối với quản lý toàn bộ quá trình sản xuất.
Theo cách phân loại này lao động quản lý được phân chia thành nhân viên quản lý
kỹ thuật, nhân viên quản lý kinh tế và nhân viên quản lý hành chính.
-Nhân viên quản lý kỹ thuật: là người được đào tạo tại các trường kỹ thuật hoặc đã
qua thực tế có trình độ kỹ thuật tương đương, được cấp trên có thẩm quyền thừa nhận bằng
văn bản đồng thời là người trực tiếp chỉ đạo hoặc trực tiếp làm công tác kỹ thuật. Đó là

giám độc, phó giám đốc, quản đốc phụ trách kỹ thuật, kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên ở
các phòng ban.
-Nhân viên quản lý kinh tế: Là những người làm công tác lãnh đạo, tổ chức, quản lý
các hoạt động sản xuất kinh doanh như giám đốc, phó giám đốc phụ trách kinh doanh, kế
toán trưởng, cán bộ công nhân viên công tác tại các phòng ban kế hoạch, tài chính, kế
toán, cung tiêu…
-Nhân viên quản lý hành chính: Là những người làm công tác tổ chức nhân sự, thi
đua khen thưởng, quản trị kinh doanh, văn thư lưu trữ, bảo vệ
+ Theo vai trò đối với việc thực hiện chức năng quản lý. Lao động quản lý được
chia thành:
- Cán bộ lãnh đạo: Là những người lao động quản lý trực tiếp thực hiện các chức
năng lãnh đạo bao gồm: Giám đốc, phó giám đốc, các trưởng phó phòng ban trong bộ máy
quản lý. Đây là những người chịu trách nhiệm trực tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Các chuyên gia: là những người lao động quản lý trực tiếp thực hiện những công
việc chuyên môn bao gồm các cán bộ kinh tế, kỹ thuật viên, những nhà khoa học Đây là
lực lượng tham mưu cho lãnh đạo trong việc điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Nhân viên thực hành kỹ thuật: đây là các cán bộ quản lý thực hiện các công việc
giản đơn bao gồm các nhân viên làm công tác hạch toán kiểm tra như nhân viên kiểm định,
kế toán, thủ quỹ, thủ kho, các nhân viên làm công tác văn thư, bảo vệ, lái xe…nhiệm vụ
của họ là tiếp nhận và xử lý thông tin ban đầu, truyền tới nơi nhận cũng như nơi chuẩn bị
và giải quyết các thủ tục hành chính đối với các loại văn bản khác nhau của lãnh đạo
doanh nghiệp.
Như vậy, một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt chức năng quản lý đòi hỏi phải có
sự phối hợp nhịp nhàng của cả ba loại hoạt động trên. Mặt khác, sự phân loại này giúp cho
doanh nghiệp tổ chức được bộ máy quản lý có hiệu quả hơn.
2. Nội dung của hoạt động quản lý.
Các loại lao động quản lý khác nhau có nhiệm vụ lao động khác nhau do đó có nội
dung lao động rất khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau này là do tính chất chức

năng quản lý quy định. Tuy nhiên, nội dung lao động của tất cả các loại lao động đều được
hợp thành từ các yếu tố thành phần sau:
- Yếu tố kỹ thuật: thể hiện ở sự thực hiệncác công việc mang tính chất thiết kế và
mang tính chất chuyên môn như thiết kế, ứng dụng sản phẩm mới phân tích thiết kế và áp
dụng các phương pháp mới nhằm cải tiến công nghệ sản xuất, tổ chức lao động…
- Yếu tố tổ chức hành chính:thể hiện ở các công việc nhằm tổ chức thực hiện các
phương án thiết kế, các quyết định như lập kế hoạch, hướng dẫn công việc, điều chỉnh
kiểm tra việc thực hiện và đánh giá công việc.
- Yếu tố sáng tạo: thể hiện ở việc thực hiện công việc như tư duy, suy nghĩ, tìm tòi,
phát minh vấn đề mới, cách thức mới để nâng cao hiệu quả công việc.
- Yếu tố thực hành đơn giản: thể hiện ở việc thực hiện các công việc đơn giản được
thực hiện theo các quy định, hướng dẫn có sẵn như công việc có liên quan đến thu thập xử
lý thông tin, truyền tin và các công việc phục vụ…
- Yếu tố hội họp và sự vụ: thể hiện ở sự tham giavề các cuộc họp về chuyên môn
hoặc ra quyết định giải quyết công việc mang tính thủ tục.
Những yếu tố trên đều có mặt trong nôi dung của các lao động quản lý song tỷ trọng
khác nhauvà làm cho nội dung lao động của họ cũng khác nhau.
3. Đặc điểm của lao động quản lý.
a. Hoạt động lao động quản lý là hoạt động lao động trí óc mang nhiều đặc tính
sáng tạo.
Lao động trí óc là lao động cơ bản nhất trong hoạt động lao động quản lý nói chung.
Đặc trưng này tạo ra tính phức tạp trong công tác xây dựng định mức lao động trong lĩnh
vực quản lývà nó đặt ra những nhu cầu cần được lưu ý trong quá trình tổ chức lao động
quản lý các loại.
Lao động trí óc được định nghĩa:đó là sự tiêu hao sức lao động dưới tác động chủ
yếu về khả năng trí tuệ và thần kinh tâm lý đối với con người trong quá trình lao động. Do
đó hoạt động quản lý mang tính sáng tạo nhiều hơn so với hoạt động chân tay. Nó thể
hiện:
- Sáng tạo độc lập:tạo ra những kiến thức, tri thức mới.
- Sáng tạo trong phạm vi nhiệm vụ đã được quy định trước,sáng tạo về cách thức

thực hiện công việc.
b. Hoạt động lao động quản lý là hoạt động mang tính tâm lý xã hội cao.
Do là loại lao động trí óc nên hoạt động lao động quản lý đặt ra các yêu cầu cao về
yếu tố tinh thần và tâm lý đối với người lao động. Đó là khả năng nhận biết khả năng thu
nhận thông tin và các phẩm chất tâm lý cần thiết khác. Đồng thời trong quá trình giải quyết
nhiệm vụ lao động quản lý các cán bộ công nhân viên phải thực hiện nhiều mối quan hệ
giao tiếp qua lại với nhau. Do đó yếu tố tâm lý xã hội đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động lao động ảnh hưởng tới quá trình chất lượng công việc, nhiệt tình hay tiến trình làm
việc…thêm vào đó là do đối tượng quản lý là người lao động và tập thể lao động nên đòi
hỏi hoạt động lao động quản lý phải mang tính tâm lý xã hội giữa những người lao động
với nhau.
c. Thông tin kinh tế vừa là đối tượng lao động – kết quả lao động vừa là phương
tiện lao động của lao động quản lý.
Trong quá trình lao động quản lý, đối tượng lao động quản lý không phải là các yếu
tố vật chất thông thường mà là các thông tin kinh tế. Khi các thông tin kinh tế chưa được
xử lý là đối tượng của lao động quản lý còn những thông tin đã được xử lý chính là kết quả
của hoạt động lao động của họ. Mặt khác, thông tin kinh tế là phương tiện để hoàn thành
nhiệm vụ của tất cả các loại lao động quản lý.
d. Hoạt động lao động quản lý có nội dung đa dạng, khó xác định và kết quả lao
động không biểu hiện dưới dạng hiện vật một cách trực tiếp.
Đây là một đặc điểm nổi bật của hoạt động lao động quản lý và là một khó khăn cho
công tác tổ chức lao động.
Do nội dung công việc đa dạng, khó xác định và kết quả lao động không biểu hiện
dưới dạng vật chất trực tiếp nên hoạt động lao động quản lý là hoạt động lao động khó theo
dõi, khó đánh giá và khó định mức nên tiến hành tổ chức lao động cần có những phương
pháp nghiên cứu, phương án tổ chức phù hợp, các dạng mức lao động phù hợp.
e. Hoạt động lao động quản lý là các thông tin các tư liệu phục vụ cho việc hình
thành và thực hiện các quyết định quản lý.
Do vậy, đòi hỏi tinh thần trách nhiệm của các cán bộ công nhân viên phải cao. Tính
chất công việc của lao động quản lý là phức tạp và đa dạng nên cán bộ công nhân viên

cũng cần năng động, sáng tạo trong quá trình giải quyết nhiệm vụ. Đặc điểm này dẫn tới
yêu cầu đặc biệt khi tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ công nhân viên, lưu ý khi định mức
lao động và yêu cầu xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn trong phân công lao động.
4. Yêu cầu đối với lao động quản lý.
Do đặc trưng của hoạt động quản lýlà lao động trí óc mang tính chất phức tạp, đa
dạng cho nên lao động quản lý cần có những phẩm chất tương ứng. Đó là:
- Lao động quản lý là loại lao động có trình độ cao, kiến thức chuyên môn vững
vàng. Có như vậy mới giúp cho lao động quản lý thực hiện công việc một cách tốt được,
đáp ứng được các yêu cầu công việc.
- Lao động quản lý là những người có đầu óc quan sát và nắm được cả cái tổng quát
và các chi tiết để tổ chức cho hệ thống mà mình hoạt động. Cần phải xác định được mình
phải làm gì và làm như thế nào.
- Đối với năng lực tổ chức cần phải biết tiếp cận với con người, chan hoà, cởi mở,
chân thành và trung thực. Đồng thời cần phải tháo vát, có sáng kiến và không chịu bó tay
trước mọi khó khăn.
- Dám chịu trách nhiệm đối với công việc mình làm.
- Có ý trí và quyết tâm trong quá trình công tác, lường trước được các tình huống có
thể xảy ra và tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề một cách đungs đắn, tận dụng tốt thời cơ.
- Có phương pháp tư duy khoa học để quan sát, phân tích và giải quyết vấn đề:
+ Nhạy cảm với cái mới
+ Có tư duy hệ thống.
+ Biết dùng đúng người đúng việc
+ Cần phải dũng cảm nhận sai lầm, rút kinh nghiệm trong công tác khi mắc phải.
+ Có cách làm việc khoa học, hợp lý và hiệu quả trong quá trình làm việc
- Trong công tác cần thể hiện sự quan tâm giúp đỡ mọi người để tạo nên bầu không
khí tâm lý thoải mái nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác chung của đơn vị.
- Cuối cùng, tuyệt đối phục tùng quyết định của cấp trên. cố gắng trong công việc
được giao. Nghiên cứu tham khảo đề nghị cấp trên giải quyết những khâu những bộ
phận chưa hợp lý và chưa hiệu quả.
Tóm lại, trong tổ chức bộ máy quản lý, người lãnh đạo cần xem xét tỉ mỉ công việc

cũng như những phẩm chất và khả năng của cán bộ sẽ được giao công việc đó để tránh tình
trạng không đúng người, đúng việc gây thiệt hại do không đảm bảo hiệu quả công việc.
III- Hoàn thiện bộ máy quản lý- một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh.
1. Hoàn thiện bộ máy quản lý theo hướng chuyên tinh gọn nhẹ và có hiệu lực.
Để đáp ứng được những yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị
trường khắc nghiệt như hiện nay cũng như để phát huy đựơc hết vai trò, năng lực lãnh đạo
và quản lý của bộ máy quản lý đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của hệ thống thì
việc hoàn thiện bộ máy quản lý theo hướng chuyên tinh, gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo hiệu quả
cao là một đòi hỏi tất yếu.
Hoàn thiện bộ máy quản lý trên có thể giải thích chuyên tinh là thường xuyên,
chuyên sâu và có chọn lọc. Gọn nhẹ thể hiện sự vừa đủ, chi tiết thành phần không rườm rà,
không thừa không thiếu và có tỷ trọng nhỏ. Có hiệu lực thể hiện khả năng đi đến kết quả,
được mọi người chấp nhận một cách nghiêm chỉnh. ý nghĩa của việc hoàn thiện bộ máy
đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống.
Bộ máy quản lý là lực lượng duy nhất có thể tiến hành nhiệm vụ quản lý được. Nó
chỉ phát huy được sức mạnh khi nó phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, còn không thì nó lại
trở thành lực lượng kìm hãm. hoàn thiện bộ máy quản lý làm cho bộ máy quản lý có hiệu
lực hơn, hoàn thành nhiệm vụ quản lý, phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh, thích ứng
với mọi đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp có thể tồn tại
và phát triển thì cần có bộ máy quản lý của nó phải có hiệu quả trong hoạt động.
Mặt khác, hoàn thiện bộ máy quản lý sẽ làm cho bộ máy quản lý tinh giảm, gọn nhẹ
mà vẫn có hiệu lực cao.
Như vậy, sẽ làm cho chi phí quản lý được giảm bớt, giảm giá thành tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Đây là điểm rõ nét nhất của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
2. Hoàn thiện sự phân công, phân cấp trong bộ máy điều hành của hệ thống.
a. Phân công trong bộ máy quản trị điều hành doanh nghiệp
Doanh nghiệp hiện đại đòi hỏi một sự chỉ huy sản xuất và quá trình kinh doanh theo

một ý trí thống nhất tuyệt đối, đòi hỏi sự phục tùng kỷ luật hết sức nghiêm ngặt, sự điều
khiển cả bộ máy quản trị theo những nguyên tắc thống nhất từ trên xuống dưới:
Giám đốc là người được giao trách nhiệm quản trị doanh nghiệp, là người chỉ huy
cao nhất, có nhiệm vụ quản lý toàn diện, chịu trách nhiệm về mọi mặt, hoạt động sản xuất,
kỹ thuật kinh doanh và đời sống của doanh nghiệp. Để có thời gian tập trung vào vấn đề
lớn giám đốc nên giao quyền chỉ huy sản xuất và kỹ thuật cho một phó giám đốc. Người
này có trách nhiệm tổ chức và chỉ huy quá trình sản xuất hàng ngày từ khâu chuẩn bị sản
xuất kinh doanh đến bố trí lao động, tổ chức cấp phát vật tư.
Trong tình hình hiện nay nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
ngày càng có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp do vậy cần một
phó giám đốc kinh doanh. Phó giám đốc này phụ trách chủ yếu mảng đối ngoại của doanh
nghiệp từ việc hiệp tác sản xuất, liên doanh liên kết đến công tác mua vật tư tổ chức tiêu
thụ sản phẩm…nói rộng là tổ chức hoạt động “marketing” của doanh nghiệp.
Hoạt động tài chính kế toán theo quyết định hiện nay được giao cho kế toán trưởng
có vị trí như một phó giám đốc.
Một vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn là trong việc phân công phụ trách,
cần quy định giới hạn tối đa số lượng các phòng ban chức năng, bộ phận sản xuất trực
thuộc một chức danh quản lý. Vì như chúng ta đều biết giữa những người tham gia quá
trình quản lý có vô vàn mối quan hệ qua lại chằng chịt, tác động lẫn nhau, quy định lẫn
nhau. Khi số lượng bộ phận hoặc nhân viên trực thuộc một cán bộ quản lý nào đó tăng lên
thì những mối quan hệ cũng tăng lên không phải theo cấp số cộng mà theo cấp số
nhân.VA.Gray Quynaxe đưa ra công thức sau:
2
n

P = n 

+ (n-1)


2

P: tổng số mối liên hệ.
n: số lượng bộ phận trực thuộc cán bộ quản trị.
b. Tổ chức các phòng chức năng.
Các phòng chức năng là các tổ chức bao gồm cán bộ, nhân viên kinh tế, kỹ thuật
hành chính được phân công chuyên môn hoá theo các chức năng quản trị có nhiệm vụ giúp
đỡ giám đốc và phó giám đốc chuẩn bị các quyết định, theo dõi hướng dẫn các phân
xưởng, các bộ phận sản xuất kinh doanh cũng như cán bộ nhân viên cấp dưới, thực hiện
đúng đắn kịp thời các quyết định quản lý.
Trách nhiệm chung của các phòng chức năng là vừa phải hoàn thành nhiệm vụ
được giao vừa phải phôí hợp chặt chẽ với các phòng khác nhằm bảo đảm cho tất cả các
lĩnh vực công tác của doanh nghiệp được tiến hành ăn khớp, đồng bộ, nhịp nhàng.
Các phòng chức năng không có quyền trực tiếp chỉ huy các phân xưởng, các bộ
phạn sản xuất.
Trong tình hình hiện nay khi mà quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đã được mở rộng, cơ chế quản lý nói chung, cơ chế quản trị doanh nghiệp nói riêng
đã đổi mới doanh nghiệp có toàn quyền quyết định việc tổ chức các phòng ban chức năng
theo hướng chuyên tinh gọn nhẹ. Đồng thời phải hết sức coi trọng những bộ phận có quan
hệ trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đến công tác nghiên cứu cải tiến kỹ thuật
công nghệ, nghiên cứu thị trường…
Việc tổ chức các phòng ban chức năng cần tiến hành theo các bước sau:
Một là, phân tích sự phù hợp giữa các chức năng và bộ phận quản trị.
Trường hợp tốt nhất là mỗi chức năng quản trị nên do một phòng phụ trách trọn
vẹn. Song, do số lượng các phòng chức năng phụ thuộc vào quy mô, đặc điểm kinh tế, kỹ
thuật của từng doanh nghiệp nên có trường hợp phải ghép vào ba chức năng có liên quan
mật thiết với nhau thuộc cùng lĩnh vực vào một phòng, do đó sẽ thuận lợi cho việc bố trí
cán bộ phụ trách.
Hai là, tiến hành lập sơ đồ tổ chức nhằm mô hình hoá mối quan hệ giữa các phòng
chức năng với giám đốc và các phó giám đốc. Đồng thời, phải ghi rõ những chức năng mỗi

phòng phụ trách, nhằm khắc phục tình trạng dẫm đạp, chồng chéo lên nhau hoặc ngược lại,
có chức năng không có bộ phận nào chịu trách nhiệm. Căn cứ vào sơ đồ nói trên, từng
phòng chức năng xây dựng nội quy công tác của phòng mình nhằm xác định tỉ mỉ trách
nhiệm quyền hạn chung của cả phòng cũng như riêng cho từng thành viên trong phòng.
Ba là, tính toán số lượng cán bộ công nhân viên mỗi phòng chức năng một cách
chính xác có căn cứ khoa học nhằm vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, vừa giảm bớt tỷ lệ
nhân viên quản trị, giảm chi phí quản lý.
Đây là công việc khá phức tạp, đặc biệt là trong hoàn cảnh cán bộ chưa được tiêu
chuẩn hoá, việc sắp xếp bố trí cán bộ, nhân viên quản trị trong nhiều năm qua có nhiều bất
hợp lý để lại những hậu quả không thể giải quyết một sớm, một chiều.
3. Hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ.
Thường xuyên đề ra được nội dung chương trình học tập, hình thức tổ chức đào tạo
và đối tượng đào tạo phù hợp. Không ngừng nâng cao cán bộ trong hệ thống đồng thời tiến
hành đào tạo cán bộ công nhân viên trẻ để đội ngũ lao động quản lý trong tương lai có
năng lực chuyên môn vững vàng đảm bảo cho việc thực hiện một cách tốt nhất công tác
quản lý nói riêng và sự phát triển của tổ chức nói chung.
4. Hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc.
Quá trình hoạt động quản lý có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ
chức phục vụ nơi làm việc. Nếu như nơi làm việc được trang bị đầy đủ, đáp ứng nhu cầu
công việc của hoạt động quản lý sẽ góp phần tăng hiệu quả của công việc, đồng thời cũng
là cơ sở để tinh giảm bộ máy, chuyên môn hoá hoạt động của bộ máy quản lý.
Mặt khác, đây cũng là một biện pháp nhằm tạo bầu không khí tâm lý thoải mái tại
nơi làm việc.
5. Hoàn thiện công tác khuyến khích người lao động.
Một thực tế là trong cơ chế thị trường, công tác khuyến khích người lao động đang
được quan tâm một cách đúng đắn trong các doanh nghiệp. Công tác này bao gồm khuyến
khích vật chất và khuyến khích phi vật chất. Nếu như được quan tâm đúng mức sẽ là động
cơ giúp cho người lao động nói chung và lao động quản lý nói riêng hăng say làm việc, tìm
tòi sáng tạo nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Công việc này đòi hỏi đánh giá chính
xác nỗ lực của cá nhân cũng như tập thể (phòng ban, tổ đội ) và tính công bằng. Có như

vậy mới phát huy được mục đích của công tác.
Tóm lại, công tác quản lý là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của
một hệ thống. Để thực hiện công tác quản lý thì phải xuất phát từ bộ máy quản lý ổn định,
thích hợp và có năng lực. Do đó, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở công ty xây
dựng II-Thanh Hoá là một sự cần thiết. Đây là công việc nhằm hoàn thiện lao động quản
lý, hợp lý hoá lao động, tiết kiệm thời gian, kinh phí và sử dụng một cách có hiệu quả
nguồn nhân lực trong công ty. Đảm bảo một bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hoạt
động nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao, phát huy năng lực của mỗi cá nhân cũng như tập thể
lao động trong bộ máy của công ty đưa công ty phát triển lên ngang với tầm cao mới.



chương ii

phân tích thực trạng về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty xây dựng II
thanh hoá

I - Những đặc điểm cơ bản ảnh hưởng tới tổ chức bộ máy quản lý của Công ty.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.

×