Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài tiểu luận đa dạng sinh học phân tích những nguyên nhân gây suy thoái đdsh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 18 trang )

BÀI TIỂU LUẬN ĐA DẠNG SINH HỌC

BÀI TIỂU LUẬN ĐA DẠNG SINH HỌC

Mục Lục
BÀI TIỂU LUẬN ĐA DẠNG SINH HỌC
Họ và tên: ĐỖ THỊ THANH LOAN
Lớp: MTA
Mã sinh viên: 532248
Đề tài:
Phân tích những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. Công tác bảo tồn ĐDSH
ở Việt Nam diễn ra như thế nào? Liên hệ bản thân nhằm hạn chế sự suy giảm ĐDSH?
Theo em công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam đã hợp lí chưa và em có những đề xuất gì
cho công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam hiện nay?
Bài làm
Phần I: Mở đầu
Phần II: Thân bài
Phân tích những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam:
Theo những tác giả khác nhau thì có những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH ở Việt
Nam khác nhau tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân tôi, tôi có thể tạm chia nguyên nhân
gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam theo những mục sau (trên cơ sở phân tích những yếu tố
tác động đến sự suy giảm ĐDSH)
1 nguyên nhân trực tiếp
Sự suy giảm ĐDSH hiện nay có cả các nguyên nhân như: Sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự
ô nhiễm, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm
nghiệp, sự gia tăng dân số loài người, sự mở rộng nơi cư trú sinh thái của con người và sử
dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu
trúc xã hội không hợp lý và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Có 2
loại nguyên nhân suy giảm ĐDSH:
2. 1. Nguyên nhân gián tiếp: Là những nguyên nhân không tác động ngay đến sự còn hay


mất của một loài cụ thể nào cả, song nó đóng vai trò quan trọng nhất trong việc gia tăng
sự suy thoái ĐDSH bởi các nguyên nhân này chính là cơ sở của các nguyên nhân trực
tiếp và phạm vi ảnh hưởng rất lớn trên nhiều vùng địa lý sinh học khác nhau.
2.1.1. Mất và phá huỷ nơi cư trú: Là nguyên nhân quan trọng bậc nhất và trên thực tế là
một nhóm các nguyên nhân cụ thể hơn.
Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các hoạt động của con người: Đó chính là tác động của
việc thay đổi mục đích sử dụng tài nguyên sinh học như: sự phát triển nông nghiệp, đô
thị, sự du canh du cư, đốt nương làm rẫy dẫn đến cháy rừng, khai thác rừng bừa bãi, sản
xuất công nghiệp thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, đốt các nhiên
liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas. … dẫn đến sự hủy hoại hoặc làm thay
đổi các điều kiện sinh thái - nơi cư trú của các loài sinh vật và kéo theo sự tuyệt chủng
hoặc sự suy giảm về số lượng và chất lượng quần thể sinh vật, kéo theo sự tan rã của cấu
trúc quần xã và HST. Việc cải tạo các HST cho các mục đích kinh doanh có tính chuyên
hóa cao hay việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, các hoá chất công
nghiệp đều góp phần phá hủy môi trường sống dẫn đến sự tiêu diệt của các loài côn trùng
và vi sinh vật bản địa.
Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các vận động của tự nhiên: Việc phát sinh mới hay hoạt
động trở lại của các núi lửa, sóng thần, sạt lở đất, động đất, sa mạc hóa, cháy rừng cũng
là những nguyên nhân quan trọng làm mất hoặc hủy hoại nơi cư trú và góp phần vào việc
làm giảm sự ĐDSH.
2.1.2. Sự thay đổi trong thành phần HST:
Chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm ĐDSH. Ví
dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến việc giảm sút các
quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi
của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó
sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót
sẽ ít đi.
2.1.3. Gia tăng dân số:
Đe dọa lớn nhất đối với ĐDSH là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người. Việc
phá huỷ các quần xã sinh học xảy ra nhiều nhất trong vòng 150 năm trở lại đây, trong

thời gian này dân số loài người tăng từ 1 tỷ người vào năm 1850 đến 2 tỷ vào năm 1930,
và đến 5,9 tỷ vào năm 1995, dự kiến dân số sẽ tăng 6,5 tỷ vào năm 2010 (nguồn Tổng
cục thống kê, 2000).
Con người sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên như gỗ, củi, các loài thực vật, thịt
động vật hoang dã,…Con người cũng khai phá, chuyển đổi rất nhiều diện tích đất đai vốn
là những nơi cư trú tự nhiên của sinh vật hoang dã thành đất đai sử dụng cho nông nghiệp
và làm nhà ở, xây dựng thành phố, khu công nghiệp cùng cơ sở hạ tầng.
Ô nhiễm môi trường sống.
Cho dù nơi sinh sống không bị ảnh hưởng một cách trực tiếp do việc phá huỷ hay chia
cắt, nhưng các quần xã và các sinh vật sống trong đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do các
hoạt động khác của con người. Dạng nguy hiểm nhất của phá huỷ môi trường là sự ô
nhiễm. Có thể liệt kê một số nguyên nhân sau:
- Ô nhiễm do thuốc trừ sâu: Thuốc trừ sâu là nhân tố gây ô nhiễm nặng nề và được
khuyến cáo từ năm 1962 (Rachel Carson, 1962). Thuốc trừ sâu DDT
(Diclorodiphenyltricloro – ethene) và các loại thuốc trừ sâu có chất Clo hữu cơ khác là
những chất không phân huỷ hoàn toàn và được tích luỹ tăng lên theo các bậc tháp của
chuỗi thức ăn.
+ Việc sử dụng thuốc trừ sâu để diệt các loại côn trùng gây hại cho cây trồng, diệt ấu
trùng cho các loài muỗi trong nước đã gây nhiều tổn hại tới các quần thể sinh vật khác
cùng sống trong môi trường.
+ Việc sử dụng thuốc trừ sâu thường phải tăng nồng độ theo thời gian do các sinh vật gây
hại bị nhờn hoá chất.
+ Việc sử dụng thuốc trừ sâu không những giết hại nhiều loài sinh vật có ích mà còn gây
ô nhiễm không khí, ô nhiễm các yếu tố khác trong môi trường sống của con người.
- Ô nhiễm nước: Ô nhiễm nước cũng là nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH thuỷ sinh như
các loài cá, ốc, trai, hến
Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ yếu là do các chất thải công nghiệp, chất thải dân
dụng, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, rò rỉ xăng dầu từ các tàu vận tải, các kim loại
nặng(thuỷ ngân, chì, thiếc ). Các chất thải này theo dòng chảy và lan tràn trong một
vùng rộng lớn. Lượng các chất độc này xâm nhập, tích luỹ tăng dần theo thời gian trong

cơ thể sinh vật sản xuất và được đưa vào chuỗi thức ăn. Kết quả là một loạt loài ở các bậc
dinh dưỡng tiếp theo trong chuỗi thức ăn cũng bị nhiễm độc theo.
Các trầm tích có nguồn gốc do xói mòn từ các vùng đất trống đồi núi trọc cũng có thể gây
hại cho HST thuỷ vực. Các chất trầm tích có lẫn mùn lá cây, bùn, các chất rắn lơ lửng và
cả các chất độc hại làm tăng độ đục của nước, làm giảm độ chiếu sáng trong nước nên
đã làm giảm khả năng quang hợp của các loài tảo. Sự gia tăng lớp trầm tích đáy đã gây
hại cho nhiều loại san hô - những loài đòi hỏi một môi trường sống tuyệt đối trong sạch.
- Ô nhiễm không khí và mưa axít:
Các hoạt động công nghiệp xả thải vào khí quyển, đốt rừng làm nương rẫy, làm thay
đổi và làm ô nhiễm bầu khí quyển của trái đất. Các nền công nghiệp như luyện thép, các
nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là than dầu đã thải ra một lượng lớn nitrat, sulphat
vào không khí, các khí này khi gặp hơi nước trong khí quyển sẽ tạo ra axit nitric và
sunphuric. Các axit này liên kết với những đám mây và khí tạo thành mưa đã làm giảm
độ pH của nước mưa xuống thấp và tăng khả năng hấp thụ các kim loại nặng độc hại.
+ Mưa axít sẽ làm giảm độ pH của đất và của nước trong các hồ, ao, sông suối trên lục
địa. Mưa axít đã tiêu diệt nhiều loài động và thực vật.
+ Do độ axít của các hồ, ao tăng lên vì mưa axít, nhiều cá con của nhiều loài cá và cả
những con cá trưởng thành cũng bị chết ngay lập tức. Độ axít tăng và nước bị ô nhiễm là
hai nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm đáng kể các quần thể lưỡng cư trên thế giới.
Đối với phần lớn các loài lưỡng cư, ít nhất một phần trong chu kỳ sống của chúng phụ
thuộc vào môi trường nước, độ pH của nước giảm làm cho tỷ lệ trứng và ấu trùng bị chết
tăng lên cao (BeeBee, 1990; Blaustein and Wake, 1995).
+ Độ axít cũng hạn chế khả năng phân huỷ, làm chậm tốc độ của quá trình khoáng hoá và
khả năng sản xuất của HST.
- Sư sản sinh ôzôn, các kim loại độc hại và lắng đọng khí nitơ.
+ Xe ô tô, các nhà máy nhiệt điện và các hoạt động công nghiệp thải ra các khí
hyđrocacbon, khi ôxit nitơ. Dưới ánh sáng mặt trời, các hoá chất này tác dụng với khí
quyển và tạo ra khí ôzôn cùng các hoá phụ phẩm khác, tất cả các khí này được gọi chung
là mù quang hoá. Nồng độ ôzôn cao ở tầng khí quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô
thực vật, làm cho cây dễ bị tổn thương, làm hại đến các quần xã sinh học, giảm năng suất

nông nghiệp.
+ Xăng có chì, các hoạt động khai mỏ, luyện kim và các hoạt động công nghiệp
khác thải ra một lượng lớn chì, thiếc, và nhiều loại kim loại độc hại khác vào khí quyển.
Các hợp chất này trực tiếp gây độc cho cuộc sống của động và thực vật.
Sự biến đổi khí hậu.
Khí cacbonic, mêtan và các khí khác trong khí quyển không ngăn cản ánh sáng mặt trời,
cho phép năng lượng mặt trời xuyên qua khí quyển và sưởi ấm bề mặt trái đất. Tuy vậy,
những khí này và hơi nước (dưới dạng những đám mây) giữ lại năng lượng do trái đất
phát ra dưới dạng nhiệt, làm chậm lại tốc độ phát tán nhiệt và bức xạ khỏi trái đất. Các
khí này được gọi là khí nhà kính do tác dụng của chúng rất giống với nhà kính – cho ánh
sáng mặt trời đi qua nhưng giữ lại năng lượng bên trong nhà kính và chuyển thành năng
lượng nhiệt. Nồng độ khí này càng đậm đặc bao nhiêu thì nhiệt lượng bị thu lại gần mặt
đất nhiều bấy nhiêu và nhiệt độ trên bề mặt trái đất lại tăng lên bấy nhiêu.
Vai trò của khi nhà kính rất quan trọng vì nó giữ ấm bề mặt trái đất. Vấn đề quan trọng
hiện nay là nồng độ của khí nhà kính tăng cùng với hoạt động của con người đến mức
làm biến đổi khí hậu gây nên hiện tượng trái đất nóng dần lên. Hiện tượng nhiệt độ tăng
dần lên còn làm cho các khối băng ở các vùng cực tan ra. Do việc giải phóng một khối
lượng nước lớn do băng tan, trong vòng 50 đến 100 năm tới mức nước biển dâng cao từ
0,2 đến 1,5 m. Mức nước biển dâng cao sẽ làm ngập lụt những vùng đất thấp những khu
ĐNN ven bờ biển và nhiều thành phố lớn. Ngoài ra, mức nước biển dâng sẽ có khả năng
gây hại đến nhiều loại san hô, nhất là những loại chỉ tồn tại ở một độ sâu nhất định nơi có
ánh sáng và dòng chảy phù hợp.
Sự biến đổi khí hậu và nồng độ khí cacbonic trong khí quyển gia tăng sẽ có khả năng làm
thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ chỉ còn một số loài có khả năng
phát triển thích ứng với điều kiện sống mới (Bazzaz và Fajer, 1992).
2.1.6. Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý:
Nguyên nhân này có vai trò tương đối lớn, nhất là đối với các loài có nguy cơ tuyệt
chủng và ở các nước nghèo. Hệ thống các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện và không
được những người có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc. Do cuộc sống khó khăn nên
những người dân bản địa đã tiến hành khai thác bất hợp pháp các loài động thực vật cung

cấp cho thị trường, song các cấp chính quyền dường như không làm được nhiều để hạn
chế tình trạng trên, thậm chí do nguồn lợi kinh tế rất lớn nên một số nhà chức trách còn
tiếp tay cho các hoạt động phi pháp. Bên cạnh đó chính sách di dân đã làm cho rất nhiều
diện tích rừng bị mất đi nhanh chóng. Các chính sách kinh tế sai lầm đã làm giá cả gia
tăng nhanh và đẩy một bộ phận người dân thuộc vùng sâu, vùng xa, những vùng có mức
độ ĐDSH cao nhất, ngày càng trở nên khốn khó, để tự nuôi sống mình và gia đình họ đã
khai thác triệt để nguồn lợi sinh học tại địa phương.
2. 2. Nguyên nhân trực tiếp:
Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học.
Nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm
thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác.
+ Khi dân số loài người vẫn còn ít và phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu
hái và săn bắt một cách bền vững mà không làm cho các loài trở nên tuyệt chủng.
+ Khi dân số loài người tăng lên, nhu cầu sử dụng cũng tăng theo và họ đã sử dụng các
phương tiện hữu hiệu hơn: Súng được thay cho giáo mác và cung tên; tàu đánh cá gắn
máy thay cho thuyền buồm gỗ đánh bắt cá trên đại dương; cưa xăng thay cho chiếc rìu
tay khi chặt gỗ. Phương tiện khai thác hiện đại đã làm cho các loài bị khai thác suy giảm
và tuyệt chủng nhanh hơn. Việc khai thác quá mức của con người ước tính đã gây nguy
cơ tuyệt chủng cho 1/3 số loài động vật có xương sống.
+ Trong những năm gần đây, việc khai thác quá mức được tăng lên khi thị trường thương
mại được mở rộng, đã gây ra những hiểm họa không nhỏ đối với các loài sinh vật trong
tự nhiên.
Ví dụ: Thị trường buôn bán áo lông thú phát triển ở nhiều quốc gia. Các món ăn đặc sản
(thịt các loài động vật hoang dã), thú chơi cây cảnh, phong lan cũng gây những hiểm họa
không nhỏ đối với các loài này trong tự nhiên.
Sự xâm nhập của các loài ngoại lai.
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các vật cản tự nhiên như đại
dương, các sa mạc, các dãy núi, các con sông. Ví dụ: Các loài động vật có vú ở Bắc Hoa
Kỳ không thể vượt qua biển Thái Bình Dương để đến được Hawai. Do sự cách ly về địa
lý nên quá trình tiến hoá được phân ly theo các chiều hướng khác nhau trên những khu

vực chính của trái đất.
Con người đã làm thay đổi cơ bản cấu trúc này bằng việc vận chuyển, phát tán các loài
trong toàn cầu. Con người đã mang vật nuôi từ chỗ này sang chỗ khác khi họ tạo lập khu
định cư mới. Ngày nay, khi thị trường buôn bán phát triển, nhiều loài động thực vật được
vận chuyển qua nhiều nước khác nhau.
Về cơ bản, những loài du nhập thường không phát triển được ở những nơi mà chúng
được mang đến do điều kiện sống không phù hợp. Tuy nhiên, một tỉ lệ các loài nhất định
có biên độ sinh thái rộng, chúng phát triển rất nhanh, vượt lên trên cả các loài bản địa,
thậm chí chúng còn thay cả các loài bản địa. Các loài bản địa có thể bị tuyệt chủng do bị
các loài du nhập chiếm hết không gian dinh dưỡng hoặc bị ăn thịt. Ví dụ có khoảng 4600
loài thực vật đã được du nhập vào quần đảo Hawai, nhiều gấp 3 lần các loài thực vật bản
địa (St.John, 1973).
Lý do chính để các loài du nhập phát triển mạnh là chưa có thiên địch (ví dụ Thỏ nhập
vào Châu Úc đã ăn hết cả các loài cỏ bản địa) và sau nữa là con người đã tạo những điều
kiện thuận lợi cho các loài du nhập phát triển.
Sự lây lan của các dịch bệnh.
Sự lây nhiễm các sinh vật gây bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi hay động
vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh nhu virus, vi khuẩn, nấm,
các động vật đơn bào hay các ký sinh trùng kích cỡ lớn hơn như giun, sán. Các loại dịch
bệnh có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quý hiếm. Vào năm 1987, quần thể cuối
cùng của loài chồn chân đen (Mustela nigrepes) trong tự nhiên đã bị tiêu diệt bởi virut
gây bệnh sốt ho của chó nhà và một số gia súc khác (Thorne and Wiliam, 1988).
Có 3 nguyên tắc về dịch bệnh học được ứng dụng rộng rãi trong việc nuôi dưỡng và quản
lý các loài thú quý hiếm.
Thứ nhất, các loài được con người nuôi và động vật sống trong tự nhiên khi sống trong
quần thể với mật độ cao sẽ có nguy cơ dễ mắc bệnh dịch hay bị nhiễm ký sinh trùng.
Thứ hai, tác hại gián tiếp do nơi cư trú bị phá huỷ là làm cho loài trở nên dễ mắc các bệnh
dịch hơn. Khi các quần thể vật chủ sống tập trung trong một khu vực nhỏ hơn do nơi sinh
sống của chúng bị phá huỷ, tại đây chất lượng môi trường nơi cư trú thường bị suy giảm,
thức ăn trở nên khan hiếm dẫn đến tình trạng kém dinh dưỡng, các động vật trở nên yếu

hơn và dễ mặc bệnh hơn.
Thứ ba, tại rất nhiều khu bảo tồn và vườn thú, các loài tiếp xúc với rất nhiều loài mà
chúng rất ít khi, thậm chí không bao giờ gặp trong thiên nhiên hoang dã cho nên bệnh
dịch có thể truyền từ loài này sang loài khác.
2.2.4. Sự chuyên hóa trong sản xuất nông nghiệp:
Do sức ép của sự gia tăng dân số trên thế giới, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm
và các loại nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong tự nhiên, đồng thời cũng thúc đẩy loài
người lựa chọn hoặc lai tạo ra các giống động thực vật có năng suất, chất lượng cao; và
sử dụng đại trà các giống này cho sản xuất trên phạm vi toàn cầu trong những khu vực có
điều kiện khí hậu tương tự nhau. Do đó, các giống địa phương sẽ bị mai một và cuối
cùng là tuyệt chủng.
2.3. Các nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam:
2.3.1. Nguyên nhân trực tiếp gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Chiến tranh:
Chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa gây suy
thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và
2 cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt.
Chỉ trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá học do
Mỹ rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng (WB,
1995). Sau khi kết thúc chiến tranh diện tích rừng cả nước chỉ còn lại khoảng 9,5 triệu ha
– với 10% rừng nguyên sinh, chiếm khoảng 28% diện tích cả nước.
Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, đồng thời một diện
tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân
và dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí do
chiến tranh để lại sau đó.
Khai thác quá mức.
Khai thác gỗ:
Các phương thức khai thác gỗ (hợp pháp hay bất hợp pháp) không bền vững từ trước đến
nay đều được coi là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài
nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng

lớn đối với vùng cư trú của các loài động vật hoang dã.
Trong giai đoạn từ năm 1986 – 1991, bình quân lượng gỗ bị khai thác là 3,5 triệu m
3
/năm
và khoảng 1-2 triệu m
3
ngoài kế hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm); giai đoạn
1992 -1996 khoảng 1,5 m
3
gỗ/năm; Từ năm 1997 tới nay khoảng 0,35 triệu m
3
gỗ/năm
được khai thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Nạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong các khu rừng phòng hộ và rừng đặc
dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân chính dẫn tới
việc khai thác gỗ trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó kiểm soát vì nhu cầu dùng gỗ
trong nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng gỗ ngày càng giảm.
Việc kinh doanh gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu quả kiểm
soát thấp, việc xử lý những vụ vi phạm khai thác và vận chuyển gỗ trái phép còn hạn chế.
Hình 3.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừng
- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe
dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng
lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ
rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh
đó còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay
thế của nhiều người vùng núi.
- Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ (kể cả động vật).
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song,

mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài) được khai thác để làm vật liệu xây
dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, làm thuốc và xuất khẩu.
Đặc biệt khu hệ động vật hoang dã có khoảng 70 loài thuộc các lớp chim, thú, bò
sát bị khai thác thường xuyên để sử dụng cho các mục đích khác nhau. Các hoạt động này
đã gây ra nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài như Bò Xám, Hổ, Tê giác, Voọc mũi hếch,
Voọc đầu trắng
Việc kinh doanh các loài hoang dã, nhất là rắn, rùa, ba ba, tắc kè, tê tê để làm
các món ăn đặc sản, làm thuốc và xuất khẩu bất hợp pháp ngày càng tăng và diễn ra trên
địa bàn cả nước khó kiểm soát. Tuy nhiên, việc kinh doanh các loài hoang dã nói trên
phần lớn còn để xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan và
Singapo.
Khai thác lâm sản vốn là nguồn sống lâu đời của một bộ phận khá lớn những
người dân sống ở vùng núi, đây cũng là địa bàn hoạt động của lâm tặc và những người
buôn lậu, đồng thời lâm sản ngoại gỗ còn là nguồn không thể thiếu của một số ngành thủ
công xuất khẩu. Do vậy, các hoạt động thường xuyên phải bám sát mục tiêu cụ thể. Các
chính sách và quy chế chung còn ít được tiếp cận và sử dụng.
- Đánh bắt cá:
Tại nhiều nơi vẫn còn tình trạng đánh bắt cá mang tính huỷ diệt như dùng mìn,
chất nổ, điện, thậm chí cả chất đôc (Xyanua). Đánh bắt quá mức có thể thấy rõ hậu quả
qua sản lượng đánh bắt một số loài cá suy giảm mặc dù cường độ đánh bắt tăng. Ngoài
ra, sản lượng đánh bắt các loại hản sản khác như tôm hùm (Panulirus), bào ngư
(Haliotes), Sò (Chlamys), mực (Loligo) cũng giảm. Trai ngọc đã biến mất khỏi nhiều
vùng biển phía Bắc. Tuy nhiên, việc khai thác các loài trên vẫn tiếp tục mặc dù loài cá
trình 5 đốm, bốn loài tôm hùm và hai loại bào ngư đã được liệt kê trong nhóm (hạng) dễ
tổn thương.
Hình 3.2. Khai thác bừa bãi nguồn lợi thủy sản
- Khai thác trái phép tài nguyên các rạn san hô.
Bảo tồn rạn san hô ít được chú ý trực tiếp. Cho đến mãi gần đây, tỉnh Khánh Hòa
mới thành lập Khu bảo tồn biển Hon Mun, cùng với những nỗ lực nhằm bảo vệ các rạn
san hô ở cùng biển Côn Đảo và Phú Quốc. Rạn san hô ở Việt Nam nói chung đang trong

tình trạng xấu và có nhiều bằng chứng cho thấy đây là những khu vực bị đe dọa cực kỳ
nghiêm trọng. Tại một số rạn san hô, cá đã bị đánh bắt cạn kiệt tới mức mà người ta
không thể tái tạo lại ngư trường đánh bắt cá lớn nữa. Một số rạn san hô bị phá huỷ, chủ
yếu là do sử dụng các phương pháp đánh bắt cá mang tính huỷ hiệt như đã nói ở trên. Tất
cả những phương pháp đánh bắt cá không chọn lọc đõ sẽ giết chết hoặc làm tất cả các
loài hoảng sợ.
Mở rộng đất làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Mở rộng đất canh tác nông, nghư nghiệp lấn vào đất rừng là một trong những nguyên
nhân quan trọng nhất làm suy thoái ĐDSH. Ở vùng núi phía Bắc, khai thác rừng chủ yếu
để lấy đất làm nông nghiệp, ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ phá rừng để trồng cây công
nghiệp như cà phê, cao su, điều, , ở ven biển phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản.
Việc mở rộng đất trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản là để đáp ứng nhu cầu về lương thực,
thực phẩm do dân số ngày càng tăng, đồng thời góp phần phát triển kinh tế đất nước, tăng
thêm nguồn nông sản và hải sản xuất khẩu có giá trị.
Hiện tượng lấn chiếm đất sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản thường xảy ra đối với người
nghèo và các hộ di cư tự do. Các khu rừng ngập mặn tại các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang và
nhiều tỉnh ven biển khác cũng là đối tượng khai phá làm đầm nuôi tôm của người dân địa
phương. Tuy nhiên, có không ít khu vực đầm nuôi tôm đã bị hoang hoá do phương thức
nuôi trồng không bền vững.
Xây dựng cơ sở hạ tầng.
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc xây dựng cơ sở hạ tầng
bao gồm đường giao thông, cầu phà, bến cảng, mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát
nước là một tất yếu.
Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nói trên một cách thiếu quy hoạch, thiếu cơ sở khoa học
có ảnh hưởng mạnh đối với ĐDSH. Chẳng hạn như việc xây dựng các tuyến đường giao
thông xuyên qua các vùng rừng rộng lớn như đường Trường Sơn, các tuyến đường bộ đi
qua vùng Đồng Tháp Mười, nối Hà Tiên với Cà Mau, đường dây điện 500kv , ít nhiều
đã làm mất đi tính liên tục của vùng phân bố các loài, gây nhiễu loạn và làm suy thoái
môi trường tự nhiên, chỉ tính riêng các hồ chứa nước được xây dựng hàng năm đã làm
mất đi khoảng hàng ngàn ha rừng (Do nhiều loài sinh vật bị tiêu diệt do đất đá vùi lấp, do

ngập sâu dưới nước. Nhiều loài sinh vật mất nơi cư trú, mất môi trường sống, mất nguồn
thức ăn, mất nơi sinh đẻ nên một khối lượng lớn cá thể bị chết, các chuỗi dinh dưỡng bị
xáo trộn, cân bằng sinh thái bị tổn thương. Việc ngăn sông, xây đắp làm hồ chứa có thể
làm mất đường di cư sinh sản của một số loài sinh vật như Cá Chình.
Cháy rừng
Hiện nay, Việt Nam có trên 6 triệu ha rừng dễ cháy (Phạm Bình Quyền và các cộng sự,
1997), bao gồm rừng thông, rừng tràm, rừng tre nứa, rừng bạch đàn, rừng khộp Cùng
với diện tích rừng dễ cháy tăng thêm hàng năm thì tình hình diễn biến thời tiết ngày càng
phức tạp và khó lường ở Việt Nam đang làm nguy cơ tiềm ẩn về cháy rừng ngày càng
nghiêm trọng hơn.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục Kiểm lâm về cháy rừng và thiệt hại do cháy
rừng gây ra trong 42 năm qua (1963 -04/2005) tổng số vụ cháy rừng là trên 49.600 vụ,
diện tích thiệt hại trên 646.900 ha rừng (chủ yếu là rừng non), trong đó có 274.251 ha
rừng trồng và 377.606 ha rừng tự nhiên. Thiệt hại tính đến hàng trăm tỷ đồng mỗi năm,
đó là chưa kể đến những ảnh hưởng xấu về môi trường sống, cũng như những thiệt hại do
lũ quét, lũ ống và lũ lụt ở vùng hạ lưu, làm giảm tính ĐDSH, phá vỡ cảnh quan Riêng
năm 2002 đã xảy ra 1.098 vụ cháy, năm 2003 xảy ra 642 vụ cháy, trong đó vụ cháy rừng
Tràm U Minh là nghiêm trọng nhất.
Sự kiện cháy rừng vào thàng 3,4 năm 2002 tại Vườn Quốc Gia U Minh – Thượng là một
tai họa điển hình về cháy rừng đối với tài nguyên sinh vật và ĐDSH. Tại U Minh Thượng
trước khi bị cháy rừng đã thống kê được 32 loài thú. Sau khi bị cháy, ít nhất có 25 loài
thú (78,2%) bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Một số loài có nguy cơ không gặp
lại ở HST độc đáo này: Dơi ngựa lớn Pteropus vampyrus; Sóc lửa Callosciurus
finlaysoni; Rái cá lông mũi Lutra sumatrana; Rái cá vuốt bé Aonyx cinerea; Mèo cá
Drionailurus viverrinus; Tê tê Manis javanica; Cầy giông đốm lớn Viverra megaspila;
Cầy vòi hương Paradoxurus hermaphroditus; Dơi ngựa Thái Lan Pteropus lylei; Mèo
rừng Drionailurus bengalensis (nguồn Cục Kiểm lâm, 2005)
Di nhập và xâm lấn của các loài sinh vật lạ
Trong thời gian qua việc trao đổi, di nhập một số giống cây trồng, vật nuôi đã mang lại
hiệu quả kinh tế. Trong cơ cấu cây trồng ở nhiều nơi số giống mới đã chiếm tới 70- 80%

và cho năng suất cao. Tuy nhiên việc di nhập nhiều giống mới một cách tràn lan, thiếu
kiểm soát là nguy cơ tiềm tàng làm các giống bản địa bị mai một. Các giống mới có thể
có những điểm bất lợi và thường không bền vững trước tác động của ngoại cảnh và sâu
bệnh. Tác hại ngay lập tức và có thể thấy là một số loài di nhập vào Việt Nam đã phát
triển thμnh dịch và gây hại nghiêm trọng. Điều này còn liên quan đến sự thiếu hiểu biết
và sơ hở trong quản lý. Có thể nêu ra đây một số ví dụ:
+ Trong công tác trồng rừng ở Việt Nam, chúng ta đã sử dụng thành công khá nhiều loài
cây nhập nội như Phi lao trên vùng cát ven biển, các loài Keo và Bạch đàn cho vùng đồi
thấp và rừng công nghiệp. Bạch đàn trồng thuần loại ở một số vùng ở nước ta có những
thời điểm bị bệnh hại gây chết hàng loạt.
+ Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các loài cây nông nghiệp, các giống mới như lúa,
ngô, cà phê, cao su, cây ăn quả được nhập nôi, gây trồng rộng rãi vì năng suất cao. Điều
này đã làm cho một số giống cây trồng địa phương, có chất lượng nhưng năng suất thấp
bị mất đi.
+ Việc nhập và gây nuôi ốc bươu vàng đại trà đã gây hại cho đồng ruộng trong một thời
gian dài, một số loài sinh vật lá khác gây tác hại nghiêm trọng như ốc sên, cây trinh nữ
đầm lầy (cây Mai Dương), bèo Nhật Bản.
Hình 3.3. Trinh nữ đầm lầy và Ốc bươu vàng, 2 kẻ ngoại lai nguy hiểm
Ô nhiễm môi trường
Các hoạt động của con người như phát triển nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng; phát
triển các làng nghề, các khu đô thị, các thành phố; hóa chất và chất thải nông nghiệp,
công nghiệp và sinh hoạt ;… đã gây ra ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) ở
nhiều nơi và gây hại trực tiếp đến sức khỏe con người.
Ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nước gây tác hại rất lớn đối với môi trường
nước ngọt và biển:
+ Nước thải công nghiệp, sử dụng thuốc trừ sâu là những nguyên nhân chính làm ô nhiễm
các sông hồ nước ngọt của Việt Nam. Các ngành công nghiệp Việt Nam tuy hiện nay đã
áp dụng một số biện pháp sử lý nước thải song chưa triệt để. Nước thải của các nhà máy
hoá chất, xà phòng cùng với nước thải sinh hoạt đã gây ô nhiễm nặng cho các con sông.
Trên đồng ruộng, việc lạm dụng các hoá chất diệt côn trùng, chất diệt cỏ đã gây ô nhiễm

môi trường đồng ruộng.
+ Môi trường sống ở các HST nông nghiệp cũng bị ô nhiễm do việc sử dụng tuỳ tiện các
chất diệt côn trùng. Các sông hồ bị ô nhiễm do các chất thải công nghiệp, nước thải sinh
hoạt.
Theo thống kê của Cục Bảo vệ môi trường, 2005. Tổng lượng hoá chất bảo vệ thực vật
tồn đọng hiện nay là 57.476,9 kg dạng bột; 29.196,3 lít dạng lỏng và khoảng 1.437.183,2
bao bì chứa hoá chất bảo vệ thực vật.
Ô nhiễm biển được coi là hiểm hoạ lớn nhất đối với tính ĐDSH biển. Giao thông vận tải
biển và thăm dò dầu khí là hai nguyên nhân quan trọng gây nên sự ô nhiễm biển. Nguyên
nhân này bắt đầu từ các tầu thuyền đánh cá dùng động cơ, các tàu chở hàng, chở dầu. Các
cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh., Cửa Lò, Đà Nẵng, VũngTàu đều có một lớp váng
dầu trên bề mặt nước. Mức dầu trong nước biển ở cảng Hải Phòng, Quảng Ninh là 0,4-1
mg/l nước.
Thăm dò và khai thác khí dầu ở Việt Nam mới bắt đầu từ năm 1986, do không được theo
dõi nên không có số liệu nhung đây là những hoạt động gây nhiều ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường sống cuả sinh vật biển.
Ngoài hai nguyên nhân nêu trên, vấn đề lắng đọng bùn ở các cửa sông, trong các cảng và
hoạt động nạo hút bùn cũng đã gây ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh học biển. Việc nạo
vét để khai thông cửa sông, hải cảng đã khuấy dục nước, trong bùn lắng đọng thường có
dầu và chất độc lẫn vào nên đã gây nhiều tổn thất cho sinh vật biển.
2.2.2. Nguyên nhân sâu xa gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam.
Gia tăng dân số và di cư.
Những thách thức về dân số của nước ta rất nghiêm trọng đối với các vấn đề tài nguyên,
môi trường và ĐDSH. Trung bình trong 10 năm (1989 -1999) tỷ lệ tăng trưởng dân số là
1,7% năm; đặc biệt ở vùng núi tỷ lệ này còn cao hơn, khoảng 2,8% -3,6%/năm. Tăng dân
số vẫn ở mức cao trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng tài nguyên khác
đang có xu thế giảm.
Tăng dân số nhanh đã là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái ĐDSH của
Việt Nam. Sự gia tăng dân số dẫn đến tăng nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu khác
trong khi lượng tài nguyên có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ

quả tất yếu dẫn tới là phải mở rộng đất nông nghiệp, xâm lấn vào đất rừng, làm suy thoái
ĐDSH.
Từ những năm 1960, thực hiện chủ trương của chính phủ xây dựng và phát triển các vùng
kinh tế mới, các địa hương đã động viên khoảng 1,2 triệu người từ vùng đồng bằng lên
khai hoang và sinh sống ở vùng núi. Cuộc vận động này đã làm thay đổi cơ cấu dân số và
tập quán canh tác ở miền núi. Từ những năm 1990, đã có nhiều đợt di cư tự do từ các tỉnh
phía Bắc và Bắc Trung Bộ vào các tỉnh phía Nam. Tác động của di dân tự do đến tài
nguyên thiên nhiên, đến ĐDSH ở các vùng này đã trở thành vấn đề bức xúc ở một số tỉnh
phía Nam, đặc biệt là Tây Nguyên.
Sự nghèo đói.
Việt Nam được xếp loại là một trong những nước nghèo trên thế giới với gần 80% dân số
sống ở nông thôn, hoạt động kinh tế chủ yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, đời sống kinh tế
còn nhiều khó khăn. Theo thống kê vào năm 2001, tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm 17% tổng số
dân, trong đó phần lớn số hộ này sống ở nông thôn, miền núi, vùng sâu và biên giới.
Trong khu rừng bảo tồn được nghiên cứu, 90% dân địa phương sống dựa vào nông
nghiệp và khai thác rừng.
Những người nghèo thường không có ruộng đất, phải sống dựa vào đất bạc màu,
đất dốc, đất có độ phì kém, lại thiếu vốn đầu tư lâu dài cho sản xuất, buộc họ phải khai
thác nhanh ruộng đất của mình hoặc phá rừng lấy đất canh tác.
Mối quan hệ giữa xóa đói giảm nghèo với bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế
xã hội là mối quan hệ nhân quả. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu
của phát triển, là điều kiện để bảo vệ môi trường.
Chính sách kinh tế.
Chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng sâu sắc ở quy mô lớn đến ĐDSH, đến biến
đổi tài nguyên và chất lượng môi trường. Nền kinh tế nước ta có sự khác biệt rõ rệt giữa
giai đoạn trước đổi mới và giai đoạn đổi mới.
Cho tới năm 1975 các chính sách kinh tế ở nước ta về cơ bản phù hợp với nền
kinh tế thời chiến. Các nhu cầu cấp thiết của chiến tranh nhất thiết phải được đáp ứng, kể
cả việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên sinh vật - đặc biệt là
tài nguyên rừng. Sau năm 1975, đất nước đã được thống nhất, nhưng nền kinh tế vẫn còn

gặp vô vàn khó khăn. Trong giai đoạn này gỗ được khai thác mạnh cho xây dựng và xuất
khẩu tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế.
Những chính sách trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986) một mặt đã góp phần tạo
ra bước tiến mạnh mẽ cho nền kinh tế, mặt khác đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến ĐDSH.
Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao là nguyên nhân
có ý nghĩa nhất làm suy thoái ĐDSH từ năm 1986. Lợi nhuận kinh tế cao của việc xuất
khẩu nông sản đã kích thích các thành phần kinh tế đầu tư phá rừng để mở rộng diện tích
trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su, điều và phá rừng ngập mặn để nuôi tôm cá.
Chủ trương xuất khẩu gỗ tròn kích thích việc khai thác gỗ và hậu quả là nhiều khu
rừng đã bị phá huỷ; đến 1996 giá trị xuất khẩu gỗ đã đạt tới 126,5 triệu USD. Có thể thấy
những chính sách phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường đã có những tác động gây suy
thoái ĐDSH là khó tránh khỏi trên phạm vi toàn quốc nếu không có biện pháp hữu hiệu
nhằm quản lý, bảo vệ các HST. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã
hội và bảo vệ môi trường cần xem xét, kết hợp những vấn đề môi trường trong việc
hoạch định chính sách.
Hiệu lực thi hành pháp luật về môi trường.
Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã được Nhà nước ta quan tâm từ
những năm 1960. Nhiều văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách đã được ban hành,
một số chương trình hành động liên quan đến ĐDSH đã được thực hiện. Tuy nhiên, việc
thực thi chưa được triệt để và ý thức bảo vệ ĐDSH của nhân dân, nhất là đồng bào miền
núi chưa cao. Mặt khác, về phương diện quản lý Nhà Nước, lực lượng kiểm lâm chưa đủ
mạnh, chính sách đãi ngộ còn hạn chế, trang bị kỹ thuật yếu, chế tài, luật pháp chưa cụ
thể và có khi còn không động viên, khuyến khích lực lượng kiểm lâm và quần chúng tích
cực tham gia bảo vệ rừng.
Hình 3.4. Việc vi phạm pháp luật vẫn diễn ra thường xuyên
Chính sách kinh tế cộng đồng.
Chính sách sử dụng đất: Có vai trò quyết định đến phát triển kinh tế xã hội và đời sống
của người dân. Sau thời kỳ hợp tác xã tan rã, để duy trì sự sống, người dân đã phải đầu tư
vào mảnh ruộng 5% do hợp tác xã để lại và phải lên rừng khai hoang để chống đói. Đây
chính là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị huỷ hoại.

Chính sách lâm nghiệp: Theo con đường làm ăn tập thể, các nông trường và các lâm
trường quốc doanh được thành lập khắp nơi trên cả nước. Một trong những nhiệm vụ của
lâm trường là khai thác gỗ theo kế hoạch của nhà nước. Theo số liệu thống kê, hàng năm
việc khai thác gỗ đã làm suy thoái 70.000 ha rừng, trong đó có 30.000 ha bị mất trắng.
Tập quán du canh du cư: Trong số 54 dân tộc ở Việt Nam thì có tới 50 dân tộc với
khoảng 9 triệu dân có tập quán du canh và do sức ép của gia tăng dân số, du canh trở
thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là tạo ra cả
một vùng đất trống đồi trọc như hiện nay.
3. Thang phân hạng của IUCN, 1994 (IUCN, Read list Categorles):
Thang bậc phân hạng của IUCN, 1994 hiện đang được sử dụng, bao gồm các hạng như
sau:
• Thang bậc phân hạng mức đe dọa cụ thể:
+ Các bậc phân hạng chính:
- Bị tuyệt chủng - EX (Extinct):
Một đơn vị phân loại được coi là tuyệt chủng khi chắc chắn cá thể cuối cùng của đơn vị
phân loại đó đã bị tiêu diệt.
- Tuyệt chủng trong hoang dã - EW (Extinct in the wild) :
Một loài được coi là tuyệt chủng trong hoang dã khi biết được loài đó chỉ tồn tại trong
điều kiện nuôi trồng nằm ngoài phạm vi phân bố lịch sử của loài đó. Loài được coi là
tuyệt chủng trong hoang dã khi những nỗ lực điều tra tại những vùng sống của loài đã
biết hoặc những sinh cảnh có hi vọng gặp được, vào những thời điểm thích hợp (theo
ngày, mùa, năm) khắp các vùng phân bố lịch sử của nó, mà vẫn không tìm ra một cá thể
nào. Các cuộc điều tra vượt quá khung thời gian của một vòng đời hoặc tuổi thọ của
chúng.
- Nguy cấp cao/ Rất nguy cấp - CR (Critical Endangered):
Một loài được coi là rất nguy cấp khi nó phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng
tự nhiên rất lớn trong một tương lai gần, theo định nghĩa từ mục A đến E dưới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau:
1. Các ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/ có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm ít nhất 80%
trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua, được xác định bởi:

(a) quan sát trực tiếp
(b) một chỉ số của độ phong phú sát thựcvới đơnvị phân loại đó
(c) sự suy giảm trong vùng chiếm cứ, phạm vi xuất hiện hay chất lượng của sinh cảnh .
(d) mức độ khai thác hiện tại hoặc xu hướng khai thác.
(e) hậu quả của du nhập loμi mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh.
2. Sự suy giảm ít nhất 80%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới
hoặc trong 3 thế hệ dựa trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d) hoặc (e) ở trên
B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ thua 100 km
2
hoặc vùng chiếm cứ nhỏ thua 10 km
2
,
và được chỉ ra bởi các ước lượng sau :
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong một diểm duy nhất.
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh
(d) số lượng cá thể trưởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ
(d) số lượng cá thể trưởng thành
C. Số lượng quần thể được ước lượng còn ít thua 250 cá thể trưởng thành và :
1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 25% trong 3 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều
hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng cá thể trưởng
thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng

(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất.
D. Quần thể có số lượng dưới 50 cá thể trưởng thành.
E. Các phân tích khối lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là
dưới 50% trong vòng 10 năm hoặc là 3 thế hệ hay bất cứ khi nào dài hơn.
- Nguy cấp - EN (Endangered):
Một loài được coi là nguy cấp khi nó chưa phải là nguy cấp cao nhưng nó đang phải đối
mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai gần theo định
nghĩa từ mục A đến E dưới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau:
1. Các ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/ có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm ít nhất 50%
trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua, được xác định bởi:
(a) quan sát trực tiếp
(b)một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơnvị phân loại đó
(c) sự suy giảm trong vùng chiếm cứ, phạm vi xuất hiện hay chất lượng của sinh cảnh .
(d) mức độ khai thác hiện tại hoặc xu hướng khai thác.
(e) hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh.
2. Sự suy giảm ít nhất 50%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới
hoặc trong 3 thế hệ dựa trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d) hoặc (e) ở trên
B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ thua 5000 km
2
hoặc vùng chiếm cứ nhỏ thua 500
km
2
, và được chỉ ra bởi các ước lượng sau :
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong một diểm duy nhất.
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh
(d) số lượng cá thể trưởng thành

3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ
(d) số lượng cá thể trưởng thành
C. Số lượng quần thể được ước lượng còn ít thua 2500 cá thể trưởng thành và:
1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 20% trong 3 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều
hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng cá thể trưởng
thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất.
D. Quần thể có số lượng dưới 250 cá thể trưởng thành.
E. Các phân tích khối lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là
dưới 20% trong vòng 20 năm hoặc là 5 thế hệ hay bất cứ khi nào dài hơn.
- Sắp nguy cấp - VU (Vulnerable):
Một loài được coi là sắp nguy cấp khi nó chưa phải nguy cấp cao hay nguy cấp nhưng
đang phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai
theo định nghĩa từ mục A đến D dưới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau :
1. Các quan sát, ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/ có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm ít
nhất 20% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, được xác định
bởi:
(a) quan sát trực tiếp
(b) một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơnvị phân loại đó
(c) suy giảm trong vùng chiếm cứ
(d) mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hướng khai thác.
(e) hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh.
2. Sự suy giảm ít nhất 20%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới
hoặc trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d)

hoặc (e) ở trên
B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ thua 20.000 km
2
hoặc vùng chiếm cứ nhỏ thua 2000
km
2
, và được chỉ ra bởi các ước lượng sau :
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong một diểm duy nhất.
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh
(d) số lượng cá thể trưởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ
(d) số lượng cá thể trưởng thành
C. Số lượng quần thể được ước lượng còn ít thua 10.000 cá thể trưởng thành và:
1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 10% trong 10 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều
hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng cá thể trưởng
thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất.
D. Quần thể có số lượng dưới 1000 cá thể trưởng thành.
E. Các phân tích khối lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là
dưới 10% trong vòng 100 năm.
- Đe doạ thấp - LR (Lower Risk):
Một loài đe doạ thấp khi nó đã được đánh giá, không thoả mãn các tiêu chuẩn đánh giá

của mức nguy cấp cao, nguy cấp hay sắp nguy cấp. Loài được coi là đe doạ thấp có thể
chia ra ba mức phụ sau :
A. Phụ thuộc bảo tồn - cd (Conservation Dependent): Loài là trọng tâm của chương trình
bảo tồn riêng cho loài hoặc chương trình bảo tồn vùng sống, hướng tới loài đang được
quan tâm mà nếu chương trình bảo tồn ngừng thì loài sẽ rơi vào một trong những mức độ
đe dọa trên trong vòng 5 năm tới.
B. Gần bị đe dọa - nt (Nea

×